Mẫn và tôi - Chương 18 (phần 2)

 

Tiểu đội Mỹ gác ngoài hàng rào biên đằng kia chỉ bò ra ban ngày, diễn trò cho tôi mua vui không mất tiền. Khoảng bảy giờ sáng, chúng tản rộng khom lưng bước tới chực đánh nhau với lũ hầm hố do chúng đào sẵn. Chiếm lại được trận địa, chúng dựng hai cái lều xanh khá rộng trùm trên hai hầm lớn đã che thêm bao cát, thay nhau ra ngồi gác bên các hố bắn. Lúc ấy coi bộ bảnh lắm, mới thắng trận giành công sự mà. Áo xăn trên cùi chỏ, súng cầm ngang, chân dạng, chẳng thua những chú lính chì bày cửa hiệu đồ chơi. Thằng hạ sĩ mặt ngựa, đeo hai chữ V màu vàng nằm úp sấp trên bắp tay trái thích đi dạo chụp ảnh, trỏ cái ba toong như gậy thống chế. Cấp hiệu Mỹ rối rắm hơn ngụy nhiều, khó nhớ. Mấy đứa lấp ló trong lều đọc báo, viết thư, nhất là đánh bạc ăn tiền, rút ra nhét vào những tờ đô-la xanh lá. Tới khoảng chín giờ trở đi chúng bắt đầu lử lả. Các thứ đè nặng trên người rụng dần. Mũ sắt và áo giáp rớt trước. Rồi áo va-rơ. Rồi sơ-mi, quần dài. Đến trưa chỉ còn một đứa gác ngoài, cả bọn co hết vào trong lều, đỏ lòm như mớ tôm luộc, trên thân độc một cái xi-líp, vài đứa cởi truồng hẳn mà nằm xà-lim vải. Hôm qua thằng gác lăn đùng ra giãy, xe chữ thập đỏ đến chở. Tên thiếu uý hay trung uý gì đó đi soát lính - bị nắng chói, tôi không nhận ra cái vạch ngang trên cầu vai nó mạ vàng hay bạc - chỉ đứng trên xe Gip quát chõ qua rào biên, chuồn gấp, xe nó chạy trên con đường tuần tiễu rải đá giữa hai lớp rào. Mới sáng nay tụi lính chửi nhau té tát, qua ống dòm tôi chỉ thấy những bộ mặt muốn cắn.

Ấy là chúng chưa bị nước vây bốn bề, chưa ăn bắp chuối với hột gắm, chưa lội những ruộng bùn đầy chông, mới chọi nhau với nắng thôi. Kéo vào đóng trên vùng cát hoang để trốn cái thòng lọng đỏ của dân thít cổ, chúng nó rơi ngay vào những “bát bụi” của bang Ô-kla-hô-ma, với bão cát và nắng không cây che. Ngồi nồng nỗng ra đấy ngó lên vùng rừng đại ngàn phía Tây kia, nghe chuyện những người du kích mặc áo ngủ giật gân hơn mọi thứ sách trinh thám bìa đen, chúng vã thêm mồ hôi lạnh ra ngoài mồ hôi nóng, chim kêu cá vùng đều giật thót, cố đoán xem “mười lăm phút hỏa lực” mang trên thân có giữ được mạng không. Chúng tìm yên tĩnh trong ma tuý, tìm gan dạ trong rượu, tìm lòng tin ở những lá bùa quái gở nhất mua lậu bằng giá đắt. Tất nhiên chúng còn cầu Chúa. Chẳng mất xu nào, tội gì không cầu phứa đi. Chúa ở khắp nơi xin che chở cho con thoát bàn tay của Vi-xi cũng vô hình mà có mặt khắp nơi như Chúa!

Mỹ đấy.

Thêm một thứ giặc nữa trên đất mình đã chôn không biết bao nhiêu xác giặc, lớp trên đè lớp dưới. Nếu có ma, tụi âm hồn đi cướp cháo lá đa ở Việt Nam hẳn phải nói rất nhiều thứ tiếng, nay lại thêm một bầy nữa biết nói tiếng ô-kê bằng giọng mũi, ông thầy Mười đã dịch ô-kê là con gà đen, ăn nên thuốc.

Cả loài người đang chửi Mỹ rầm rầm, cũng đang khắc khoải hỏi chúng ta: liệu có thắng nổi Mỹ không, các bạn Việt Nam? Ai kia làm cách mạng xa-lông muốn bốc hay xìu tùy thích, còn những anh hùng du kích trên các vành đai Biên Hòa, Đà Nẵng, Chu Lai đã đáp bằng tiếng súng nhịp đôi: thắng được. Tôi đang chĩa ống dòm vào rốn Mỹ đây, tìm chỗ chích mũi gai cho con cua to chết cứng theo kiểu dân chài, cũng xin góp một lời thắng được… Thêm một thằng nữa ngã ngất kia, bên đường băng phụ, nó đang đẩy xe bom đến mắc vào cánh máy bay. Nắng nữa đi, tiểu thử đại thử đi, đặc biệt thử càng hay, nắng đến cái độ xăng tự cháy và bom tự nổ đi!

Hai chiếc C.47 cất cánh xong, ba cặp F.4 ban nãy quay về thành hai tốp. Một chiếc trong tốp đầu bay thấp hơn, loạng choạng, không xì khói. Tụi bò sát kéo ra đông, một xe chữ thập đỏ bóp còi chạy tới, mở cửa sau, cái cáng tải thương thò đầu sẵn. À, thằng lái ăn đạn. Tiếc thật, loại này hai đứa lái, nếu là Thần sấm hay Thập tự quân thì ăn bùn tráng miệng từ lâu. Một xe cứu hỏa đỏ lòm cũng tới. Chiếc Con ma rẽ khỏi đội hình, lao xuống, vẫn lúc lắc, lúc lắc, có lẽ hỏng đuôi ngang nữa. Như con voi điên, nó vừa quẫy vừa rống vỡ tai, bay sạt trên dải bê-tông dài tít tắp, bánh xe cách đất chừng nửa thước và cứ trượt mãi trên không khí, tuồn tuột thẳng một hơi không chịu chạm đường băng. Tới đoạn sân đất PSP(5) đằng cuối, có lẽ chỉ dùng đón máy bay quá đà, nó ngoi lên, sà sà vòng lại. Khốn rồi Mỹ ơi! Hồi nãy cất cánh ngổ ngáo cho lắm, tường chừng đã ra ma thì chẳng bao giờ phải chết lần nữa, để bây giờ lắc nhé, rú nhé, đau quá mà. Cái hình lát khế trắng trên đĩa xanh gác hai đôi đũa, phù hiệu của tàu bay Mỹ sơn bên đầu, cũng mở con mắt thất đảm nhìn sự tan xương tới gần.

 

(5) Lát nền bằng thép tấm đục lỗ (pierced steel plank)

 

Lũ người và xe chạy dạt vào các ngả phụ. Cái khối siêu âm trắng bạc gào một tiếng dài tuyệt vọng, ép mình xuống. Bánh xe đụng đất, xịt hai luồng khói trắng, lại bị đất đẩy vọt lên ngay. Thảm hại không. Máy bay của hải quân, vốn quen đi về trên tàu mẹ, bây giờ không đáp nổi cái sân dài thượt trên bộ này, hẳn đã bị đòn âm khá nặng. Nó thử keo thứ ba. Nổ đi mày, cháy đi…Nó gầm yếu hơn, tiếng không khí rít nghe rõ hẳn ra, nhưng thân nó run như động kinh. Nó hết giống voi điên, biến ra con chim dữ bị giập hai chân và mỏi rã cánh, vừa đậu xuống tổ lại phải quằn quại nhấc mình lên. Hỏng nữa. Nó rướn lên cao, bay lảo đảo ra biển với dáng rất là ma lạc mồ, chếch hướng Bắc. Một cặp trực thăng bốc lên giữa bụi mù, đuổi theo ì ạch. Tôi xoay ống dòm theo mãi đến khi cả ba khuất sau hàng dương rậm. Nó đi chết ở đâu? Đủ sức ra đến nghĩa địa tàu bay ngoài Đà Nẵng hay tõm xuống biển với một thằng lái không nhảy dù được?

Tôi đang xem mấy chiếc còn lại hạ cánh, chợt thấy khúc đường băng từ từ cong lên, uốn như rắn. Máy bay và các nhà hầm đảo chòng chành, mờ dần, biến mất.

Tôi nhấc ống dòm khỏi mắt, trông thấy nó tuột rơi khỏi hai bàn tay nhũn đang nắn nắn không khí. Rồi không thấy gì nữa. Chỉ còn lửa. Một vầng lửa xoay tròn, đổi chiều quay liên tiếp, réo ồn. Ngực bị bóp cứng. Tôi ngã xuống hố cát. Cái cảm giác cát nóng đập vào lưng dội từ xa lắm, len lỏi vào đầu tôi đặc những hồ. Ở đấy có một ý nghĩ vuốt êm: “Mình sẽ ngủ, đỡ mệt”. Tôi buông mình vào cơn mê đang đến. Sắp đêm. Tôi được nghỉ rồi. Đêm xoã đôi cánh không trăng sao ôm tôi, nhẹ và mát như xu-xoa(6).

 

(6) Thạch

 

Một ý mới huých cùi tay chen tới: “Ngất thì chết luôn. Chết. Thua tụi nó, thua rồi…”

Cơn tức châm xói trong óc. Tai đau buốt như hít nước vào mũi, quẫy mạnh một cái. Cưỡng lại đi. Không lịm. Cưỡng, mở mắt ra, bắt thân động đậy dù chỉ một ngón tay. Tôi quẫy nữa, chợt thấy mình nằm nghiêng. Đêm đã hé cánh. Co thử cái tay xem. Nó nặng như cầm tạ nhưng cựa được. Tôi chống tay nhỏm dậy một chút, ngã. Nhỏm, lại ngã. Chưa bao giờ tôi bị đạp giúi tàn tệ đến vậy. Một nỗi uất ghê gớm ập đến, xốc ngược tôi lên. Tôi nghiến muốn vỡ răng, vùng rất mạnh, bật người chồm dậy, dựa lưng ngay vào thành cát, ngồi run lập cập, mồ hôi cạn từ đâu bỗng túa khắp thân lạnh sởn da gà. Bắt đầu thở được. Tôi đã thắng cơn say nắng, thắng cái chết.

Chiếm được đầu cầu của sự sống rồi, phải tiến sâu ngay. Tôi căng gân, nhấc bàn tay từng khúc một, dấp ít nước cuối cùng vào khăn, trùm lên đầu. Tôi làm được một việc lớn không ngờ: móc mấy góc dù vào gai xương rồng, thành cái lều méo mó đủ che một mảng bóng. Tiếng máu bật bông pưng pưng trong tai giảm dần. Hơn ba giờ chiều. Tất cả những gì cần nắm, tôi đã xem, nghe và ghi xong cả.

Nghỉ đã, nhưng cấm ngủ.

Tôi ngả lưng dưới tấm dù, phẩy quạt mo, giữ đôi mắt mở to cho tỉnh, buộc cái đầu làm việc, không để nguội máy.

Rõ là tôi bị ngộ độc cái chất lính Mỹ. Suốt tuần qua tôi bám chúng nó đến kiệt sức. Ngày nằm chuồng chim xem Mỹ, đêm thức trắng, lội quanh hay bò vào căn cứ, thêm những cơn căm giận bùng lên nén xuống cũng hao người như mất ngủ. Cả khi chợp mắt một lát - chỉ dám ngủ chập chờn để tránh ngáy và cựa - dưới mi mắt tôi vẫn lổn nhổn từng đống kẽm gai nhào kẹo với lính, mũi tôi thở mùi xăng cháy và bựa đồ hộp, trong khi những khối chiêm bao đen nặng cứ lăn mãi qua đầu, kéo theo chuỗi tiếng nổ lùng bùng không hề dứt. Cuốn sổ tay một trăm trang đã dày đến hai phần ba những con số, hình vẽ, những dòng lít nhít viết tắt vừa đủ nhớ, những dấu hỏi cần trả lời. Trong khi đó, tôi ngấm độc mỗi ngày một ít mà không biết, đến độ hai ngày phơi nắng đủ quật nhào. Thôi nhé, cho cậu xả hơi vài giờ.

Tôi kéo cánh tay áo trái dày cộp mồ hôi và đất. Mặt trong của bắp tay ít xù xì nhất. Tôi nhắm mắt, hôn Mẫn một cái thật dài trên bắp tay, gửi đến Mẫn một luồng nhớ sấm chớp và tỉnh ra hẳn.

Có bọn Chu Lai làm nền sẫm, người yêu của tôi càng tỏ rạng gấp bội. Cũng trong những ngày khó nhọc này, tôi càng mừng được yêu Mẫn và được Mẫn yêu. Tôi biết lắm, nếu tôi nằm liệt trong hố cát này, chính Mẫn sẽ đi cứu. Tôi mất đi một tay một chân, Mẫn sẽ bù bằng muôn ngàn chăm sóc nếu không sẻ được tay chân cho tôi. Tôi nghĩ sai, làm bậy, đã có đôi mắt ngạc nhiên của Mẫn ngăn lại, hay một lời khuyên dịu mà rất thấm. Tôi không thể ngờ sẽ tìm thấy một người yêu - đồng chí lạ lùng đến thế trong đời, tuy hồi mới quen Mẫn tôi đi trên mỏ vàng mà chỉ thấy sỏi. “Nó yêu anh, phục anh…”, chị Tám nói vậy. Cái khó bây giờ là tôi phải xứng đáng cho Mẫn yêu và phục mãi mãi – khó lắm chứ - đừng như con công xòe đuôi một lát rồi lại cụp.

Trên người tôi chưa có thứ gì của Mẫn cả, tiếc nhỉ…À, có đây, cây kim băng Mẫn gài thay chỗ đứt nút trên cổ áo tôi. Tôi tháo nó đặt trên bắp tay, hôn lần nữa, bật cười thấy mình trẻ con. Cái miệng ran rát. Môi nẻ nhiều lắm rồi, lớp da ngoài nhám như vỏ cây, cọ đau cả đầu lưỡi liếm. Tôi dốc ngược bi đông, chấm môi vào những giọt rỉ chậm cuối cùng. Cái túi nhựa cho được mươi giọt. Muốn đái mà uống cũng chịu, người tôi không còn một giọt để thải ra nữa, cả mồ hôi cũng kiệt. Cố chịu đến tối. Không cựa quậy nữa, dưỡng sức thôi. Tôi quạt đều, ngắm trời ngắm đất, cho bộ óc đi phép thật xa cái thân cóc phơi hai nắng.

Trên đầu tôi trời trải thảm xanh lơ, đã điểm một ít mây. Trời Việt Nam là gương in hình mặt biển, hôm nay biển lặng nền trời trong. Những cụm mây cao đứng im và mây thấp đang trôi kia là bóng các đảo đang nhìn thuyền ta đi qua. Mấy cục mây đen lấp ló đằng xa: tàu hạm đội Bảy đấy, không thèm ngó, tôi đang giải độc mà. Tôi lim dim uống trời bằng mắt. Tôi lắc lư bay lên, tắm trong biển xanh lâng ấy cho sạch chất Mỹ.

Gió thổi rung tấm dù, không sao, tôi mắc nó rất thấp và con bóng đã đổ nghiêng. Một mảng mây trắng kéo ngang mặt trời, thích ghê. Tôi đang nằm trên cặp cây ganh(7) của một chiếc thuyền tung hết buồm lướt giữa biển xanh và trời xanh, nghiêng ngả. Tấm buồm no gió mở rộng mãi trong mắt tôi.

 

(7) Hoặc ghênh: cây do dựng bên hông thuyền để giữ thăng bằng

 

Buồm trắng… Nhiều cánh buồm lớn trên cao…

Nguyễn Huệ, tôi lại gặp Người?

*

* *

Trường cấp ba Quang Trung rải lớp trong các miếu, điếm canh, nhà đồng bào, dưới những tán dừa Bình Định che mắt tàu bay Tây. Ở đấy có một chú học trò nhóc, đêm xách đèn thầu dầu dừa và ôm ghế xếp tới lớp, ngày lùa trâu ra đồng mang theo vở làm bài.

Chú học chăm, làm nhiều, mơ không ít. Động từ nào của chú cũng thêm tiếng sẽ đằng trước, rất ít đã. Chú ước má may cho một cái quần dài, ước thành tướng của Nguyễn Huệ, hai điều khó gần ngang nhau, bởi má chú nghèo lắm và ông Nguyễn Huệ chết mất rồi. Đêm hè, chú vừa luồn tay đập muỗi đốt chân vừa dịch đoạn văn của Đickenx(8) chép trên bảng, nộp bài xong chú ngồi vẽ những cây thần công dàn trên cửa Thi Nại, còn hai dãy bày chơi trước tòa sứ Quy Nhơn. Tới khi gió bấc chuyển lạnh cóng buổi chăn trâu, chú kéo áo tơi lá che cặp chân trần, kê cuốn vở giấy nứa lên đầu gối, tìm cách chứng minh định đề Ơcơlít, đã thèm không được chú mới nhảy lên lưng trâu đánh đi ăn đồng khác, thấy mình đang cưỡi voi tiến vào Gia Định. Cả khi rước đuốc hô loa đòi giảm tô – má chú hẹn bớt tô sẽ may quần dài – chú cũng tưởng đang cùng nghĩa quân Tây Sơn bôn ba đi cứu Thăng Long bị giặc chiếm.

(8) Nhà văn hiện thực Anh thế kỷ 19

Tất nhiên chú không hở những mộng mị ban ngày ấy cho ai, sợ cười. Giấu sao nổi. Các bạn giễu cả mớ rồi đổi tên chú từ Đặng Đức Thiêm ra Đô đốc Thiêm. Chú gắt, nguẩy, rồi lại thu thú, hay cười tủm tỉm một mình.

Ở cái lứa tuổi mà mặt mũi cũng như tính nết đều đang còn chấm phá, mỗi năm một khác, những ham thích của tôi thường thiếu nét và hay sớm nở tối tàn, chỉ ít lâu sau tôi đã ôn lại để chế nhạo mình. Tuy vậy vẫn có những cái còn nguyên. Thời con nít ấy để lại cho tôi mấy đốm lửa cháy mãi đến nay không tắt, mà đã không tắt thì chỉ có cháy to hơn, lửa thật hay lửa thiêng đều thế cả.

Tôi mê Bác Hồ, mê lắm lắm. Tôi hay nói chuyện với Bác bằng những dòng nhật ký nắn nót, cất rất kỹ tuy không có gì đáng xấu hổ. Tôi tập ghép vần thành những câu thơ nhớ Bác, nóng bỏng và lủng củng, chẳng cho ai xem. Sau Bác Hồ đến bộ đội. Tôi không rời được các anh vệ quốc mặc xita xám hay về làng tập trận, hễ mó vào cây súng là tôi nổi trống ngực thình thình.

Một đứa trẻ biết yêu Bác Hồ và bộ đội, còn gì dễ hiểu hơn, nói ra ai cũng ưng ý cả. Riêng cái cảm tình với Nguyễn Huệ thì khá rắc rối. Đã có lúc tôi rầu rầu nghĩ rằng dù sao ổng cũng lỡ dại làm vua, ai lại đi thương một tay phong kiến bự. Đến khi ánh đỏ của tư tưởng mới đã soi sáng thêm những nét đẹp của Nguyễn Huệ, tôi yên bụng, mừng, nhưng vẫn thấy lạ: tại sao một con người khác xa tôi đến thế lại có sức gợi cảm sớm thế, từ tuổi nhỏ? Nếu vì lẽ sinh ra cùng tỉnh, tại sao ba tôi chẳng để ý đến người đồng hương lớn ấy?

Suy đi gẫm lại, tới nay râu đã rậm cằm, tôi mới nghiệm ra rằng tôi luôn khát khao một cuộc sống lý tưởng, nó cùng chiều nhưng ở trên và đi trước cuộc đời thực hằng ngày, tôi cần cả cái quần dài lẫn cái mộng đánh Nam dẹp Bắc. Những chuyện ông già bà lão kể về Nguyễn Huệ, ngày một ngày hai, đã dựng cho tôi từ lúc nào không biết một mẫu người thật đẹp. Nguyễn Huệ đứng trên cao, trông ít rõ, càng hay chứ sao, một chút huyền ảo ở đây chỉ làm đẹp thêm thôi, và khoảng cách cả vùng trời rộng lại cuốn hút tôi vẫy cánh bay mạnh lên theo hướng anh hùng.

Những năm cạo muội trong xi lanh, chi chút hột lúa rẫy hay lái hướng viên đạn không làm tôi bớt mơ ước. Trái lại, cái thế giới của những Con Người Lý Tưởng càng thêm đông, thêm gần gũi. Chung quanh Bác Hồ với Nguyễn Huệ, có Võ Thị Sáu, Thạch Sanh, Lý Tự Trọng, có chú bộ đội cõng tôi đi tản cư, có anh Năm Xáng chính trị viên đã ngã, có nhiều nữa. Tôi kính cẩn đục đá dựng bia trong tim, dành phần sâu kín nhất trong tôi để sống với những người bạn lớn ấy, lặng lẽ đón những bài học về đạo đức làm người.

Có những phút nào đó – như phút này, nằm rã rời sau cơn say nắng, ngay bên giặc Mỹ - khoảng cách giữa các Con Người Lý Tưởng với tôi dần dần biến mất. Tôi hóa thân, tôi buông mình cho tan vào mơ ước, đến với các anh hùng…

Nguyễn Huệ, có tôi đây bên Người!

Trên đoàn tàu rất mới lạ của Người, tôi đang đứng. Mặt tôi sạm đen qua mấy tháng tập trận trên sông Thi Nại, theo tiếng loa rất trẻ của ông đô đốc Tuyết. Tàu đã căng buồm đón nồm, ra trận. Tôi dạo trên sàn gỗ cao, kiêu hãnh ngắm sáu chục khẩu thần công dàn chung quanh be tàu, cúi xem đoàn voi chiến ung dung cuốn cỏ dưới lòng sâu. Chung quanh tôi là bảy trăm bạn thủy binh đợi giờ đổ bộ. Anh đô vật làng Cá với những tiếng mô tê răng rứa còn nguyên, là trưởng đội của tôi. Tôi vác súng hỏa mai, đeo mã tấu, cầm ống hỏa hổ, đang nghe đọc trong loa lời giáo lệnh của Bắc Bình Vương dạy đường ăn ở với dân. Đằng trước, đằng sau, như một đàn cò lớn chưa từng thấy, hơn một ngàn tàu buồm Tây Sơn ào ào bay trên biển Đông, cờ đỏ vẫy rừng rực giữa buồm trắng. Chúng tôi đây, những người lính thủy đánh bộ Việt Nam đội trời đạp đất theo Nguyễn Huệ, thắng từ Rạch Gầm thắng tới Hạ Long, thanh gươm mái chèo thu góp lại giang sơn liền một dải, sảng khoái vô cùng!

Nguyễn Huệ… Người mất rồi!