Tuyết - Chương 22 - Phần 01

ĐƯỢC NHÂN DÂN LỰA CHỌN LÀM ATATÜRK

Con đường công danh của Sunay Zaim

trong quân đội và ở nhà hát hiện đại


Sau khi Ka nhận dạng được một trong những xác chết mà ông thấy ở nhà thương an sinh xã hội, người ta vội vã thảo ra một biên bản và ký tên vào. Ka và người đàn ông mũi khoằm quay trở lại chiếc xe tải quân sự lúc nãy và đi qua những đường phố vắng tanh treo áp phích bầu cử và chống nạn tự sát, mấy con chó nép vào vệ ĐưỜng và ngước mắt nhìn họ. Ka nhận thấy các cửa đã mở ra, trẻ con chơi đùa và các ông bố tò mò nhìn chiếc xe tải đi qua; song tâm trí ông đã lạc tận nơi đâu. Trước mắt ông luôn hiện ra khuôn mặt Necip và thân tình duỗi dài cứng đơ. Ông tưởng tượng ra cảnh về đến khách sạn và Ipek sẽ an ủi ông, nhưng sau khi chiếc xe tải đi qua quảng trường thành phố trống trơn, nó rẽ xuống phố Atatürk và dừng lại gần một ngôi nhà chín chục năm tuổi từ thời Nga, cách Nhà hát nhân dân hai dãy. 

Đó là một ngôi nhà quý tộc một tầng đã từng làm Ka buồn rầu bởi vẻ đẹp và sự nhếch nhác của nó ngay khi ông đến Kars tối đầu tiên. Trong những năm đầu của nền cộng hòa sau khi người Thổ tái chiếm được thành phố, một doanh nhân nổi tiếng là Maruf Bey chuyên buôn bán gỗ và da với Liên Xô đã từng sống xa hoa ở đây giữa một đám đông đầu bếp, phục dịch, xe trượt tuyết và xe ngựa. Cuối Thế chiến thứ hai và trong những năm đầu của chiến tranh lạnh khi Bộ an ninh quốc gia bắt giam và đàn áp lớp người giàu có ở Kars chuyên buôn bán với Liên Xô bằng cách gán cho họ tội gián điệp, ông này cũng lặn mất tăm; và ngôi nhà sang trọng bị bỏ hoang ngót hai chục năm, vì không ai muốn dây vào nó và những kẻ thừa kế thì còn mải tranh cãi. Giữa thập kỷ bảy mươi, một nhóm Mác-xít bạo động chiếm ngôi nhà, biến nó thành trụ sở chính và ra kế hoạch hạ sát một loạt đối thủ chính trị ở đây (thị trưởng, luật sư Muzaffer Bey bị thương nhưng thoát chết); sau cú đảo chính quân sự 1980, ngôi nhà lại bị bỏ trống. Sau này, một người bán tủ lạnh và lò sưởi ranh mãnh đã thuê cửa hàng nhỏ ngay sát vách và biến tòa nhà này thành kho. Tiếp theo đó, một thợ may với những ý tưởng hoành tráng đem chỗ tiền ông ta dành dụm được ở Istanbul và các nước Ẳ Rập trở về cố hương và mở một xưởng may có trang bị máy vắt sổ công nghiệp. 

Ngay khi bước chân vào đây, trong ánh sáng mềm mại phản chiếu từ giấy dán tường in hoa hồng màu da cam Ka đã thấy các máy đơm khuy, máy khâu cỡ lớn kiểu cổ và những chiếc kéo to tướng treo trên móc đinh trên tường trông giống các dụng cụ tra tấn kỳ quái. 

Sunay Zaim vẫn mặc áo len và áo khoác cũ sờn như Ka lần đầu tiên thấy ông cách đây hai hôm, chân đi ủng quân sự và tay giữ điếu thuốc không đầu lọc. Ông đang đi đi lại lại trong phòng, khi thấy Ka mặt ông rạng rỡ lên như gặp lại một người bạn thân ngày xưa. Ông chạy ra ôm và hôn lên hai má. Trong cái hôn ẩn chứa điều gì đó giống như người đàn ông mặc đồ buôn gia súc muốn biểu đạt trong câu "Ân huệ đã đến với đất nước" ở khách sạn, nhưng sự thân thiện hơi cường điệu ấy cũng khiến Ka khó xử. Về sau ông cho rằng sự thân thiện đó sinh ra từ cuộc gặp gỡ giữa hai người Istanbul trong tình cảnh phức tạp ở một chốn xa xăm khốn khó như Kars, nhưng lúc đó thì ông cũng biết rằng chính Sunay Zaim cũng tạo nên một phần điều kiện khốn khó ấy. 

"Cả con đại bàng hắc ám của sầu muộn trong tôi cũng tung cánh mỗi ngày." Sunay tự hào nói với giọng bí ẩn. "Nhưng tôi không quy phục nó. Và chính ông cũng nên đối kháng! Rồi tất cả sẽ ổn thôi!" Trong ánh sáng của tuyết hắt qua ô cửa sổ lớn vào căn phòng trần cao, trang trí đắp nổi ở góc và lò sưởi khổng lồ rõ ràng đã có thời huy hoàng hơn, Ka nhận ra đây là đại bản doanh của "cách mạng" qua sự hiện diện của những người đàn ông có máy bộ đàm trong tay, hai cận vệ lực lưỡng không rời mắt khỏi ông, bản đồ, vũ khí, máy chữ và các cặp tài liệu đặt trên bàn cạnh cửa ra hành lang, và Sunay là người có quyền lực lớn nhất nơi này. 

"Ngày xưa, vào thời kỳ gian khó nhất của chúng tôi." Sunay nói tiếp, vẫn đi lại trong phòng, "khi chúng tôi nghe rằng ở các thị xã hẻo lánh, đói khổ, khốn cùng nhất ấy thậm chí không có lấy một phòng khách sạn để ngủ qua đêm, nói gì đến địa điểm để biểu diễn, khi tôi đi tìm một người bạn cũ xưa từng sống ở đây và thấy anh ta chuồn khỏi thành phố này từ lâu rồi; lúc đó trong tôi dần dần dâng lên một nỗi u buồn. Để thoát khỏi móng vuốt của nó, tôi chạy đi gõ cửa từng bác sĩ, luật sư, giáo viên, để tìm ra xem có ai ở thành phố này quan tâm đến những tin tức của nghệ thuật hiện đại mà chúng tôi là sứ giả của thế giới hiện đại mang tới hay không. Tìm đến địa chỉ duy nhất mà tôi kiếm được thì chẳng có ai ở đó cả. Lúc đó tôi ngộ ra rằng đằng nào cảnh sát cũng không cho phép chúng tôi biểu diễn, và ngay cả nhà chức trách cũng không chịu tiếp chuyện tôi, và tôi hoảng hốt nhận ra sự u tối đang dâng lên trong lòng. Rồi thì con đại bàng ngủ lim dim trong tim dần dần xòe cánh và bay lên để vồ tôi. Thường thì tôi diễn vở của mình ở trong một quán trà xập xệ nhất thế giới, và nếu không tìm thấy quán nào thì diễn trên bậc cao cạnh cửa vào bến xe buýt, khi ông giám đốc có tình ý gì đó với một trong những cô diễn viên trẻ của đoàn, hoặc trạm xe cứu hỏa, phòng học để trống ở trường tiểu học, quán ăn bẩn thỉu, trước cửa kính hiệu cắt tóc, cầu thang lên khu thương mại, chuồng trại hay vỉa hè, bất cứ chỗ nào cũng có thể làm sân khấu - nhưng tôi không quy phục sự sầu muộn." 

Khi Funda Eser qua cửa hành lang vào phòng, Sunay đổi ngôi Tôi thành Chúng Tôi, nhưng giữa cặp này có một sự gần gũi đến nỗi Ka không thấy sự đổi ngôi ấy có ý nghĩa gì mấy. Mặc dù khá đậm người, Funda Eser đi nhanh nhẹn và duyên dáng. Bà bắt tay Ka, thì thầm gì đó với chồng, quay đi với dáng vô cùng vội vã và biến mất. 

"Đó là những năm tệ hại nhất của chúng tôi", Sunay nói. "Tất cả các báo của lũ ngu xuẩn ở Istanbul và Ankara đều viết là chúng tôi không còn chỗ đứng trong xã hội. Vào hôm tôi nhận được cơ may lớn nhất trong đời, cơ may mà chỉ những kẻ may mắn và thiên tài được nhận, đúng lúc tôi bám được vào bánh xe lịch sử nhờ nghệ thuật của mình thì đất dưới chân tôi hẫng đi, và đột nhiên tôi rơi vào đống rác hèn hạ nhất. Tôi không nhụt chí, nhưng tôi vẫn phải chiến đấu với sầu muộn. Chưa bao giờ tôi để mất niềm tin rằng, nếu tôi nằm sâu hơn vào vũng bùn này, vào đống rác rưởi và sự hèn hạ này, giữa cảnh nghèo khó và ngu tối này, tôi sẽ tìm thấy viên ngọc quý của đời. Tại sao ông lại sợ?" 

Từ hành lang một bác sĩ mặc áo choàng trắng xách túi trong tay hiện ra. Trong khi ông ta rút máy đo huyết áp trong túi ra với vẻ căng thẳng giả tạo và áp vào tay Sunay thì Sunay vẫn hướng ánh nhìn thống thiết vào luồng ánh sáng trắng từ cửa sổ hắt vào, khiến Ka nghĩ ông ta vẫn đang nhớ lại hồi đầu thập kỷ tám mươi "không còn chỗ đứng". Nhưng Ka thì nhớ rõ hơn các vai đã đem lại danh tiếng thực thụ cho Sunay hồi thập kỷ bảy mươi. Trong những năm hoàng kim của sân khấu chính trị phái tả, trong số nhiều đoàn kịch nhỏ thì Sunay Zaim không chỉ nổi bật bởi trình độ diễn xuất và chăm chỉ, mà còn nhờ năng khiếu lãnh tụ trời cho mà khán giả phát hiện ra qua một số vở có ông sắm vai chính. 

Đám khán giả Thổ Nhĩ Kỳ trẻ tung hô những vở mà ông đóng các nhân vật quyền lực trong lịch sử và lãnh tụ như Napoléon, Lenin, các nhà cách mạng Jacobin như Robespierre, hay Enver Paşa và các anh hùng dân tộc cùng kiểu. Học sinh trung học và các sinh viên "cấp tiến" nồng nhiệt vỗ tay và rưng rưng nước mắt nghe ông cất giọng sang sảng quyền uy nói về người dân bị đày đọa, nhìn ông tự hào ngẩng cao đầu sau khi bị kẻ đàn áp tát vào mặt và nói: "Hãy tin là sẽ có một ngày chúng tôi đòi tính sổ," cũng như khi ông (biết mình tất yếu sẽ phải vào tù) cắn răng chịu đựng mọi hành hạ và động viên các chiến hữu rằng khi cần, mặc cho trái tim rỉ máu họ cũng phải sử dụng bạo lực không thương tiếc để chiến đấu cho hạnh phúc của nhân dân mình. Trong quyết tâm trừng phạt kẻ ác ở cuối mỗi vở diễn sau khi chiếm được chính quyền, dường như có thể nhận ra ảnh hưởng thời kỳ ông được đào tạo trong quân ngũ. Ngày xưa ông ở trường thiếu sinh quân Kuleli và bị đuổi học vào năm cuối vì chèo thuyền trốn đi Istanbul, lang thang trong các nhà hát ở quận Beyoğlu và còn bí mật dựng vở Trước khi băng vỡ ở trường. 

Sau vụ đảo chính quân sự năm 1980, các nhà hát phái tả bị cấm và nhà nước quyết định dựng một cuốn phim về Atatürk nhân dịp ngày sinh thứ một trăm của ông và chiếu trên truyền hình. Ngày xưa khó có ai tin nổi một diễn viên Thổ đóng được vị anh hùng cao lớn mắt xanh chủ trương theo phương Tây ấy; nói đến các bộ phim lớn trong nước là người ta nghĩ ngay đến những diễn viên lớn ngoài nước, Laurence Olivier, Kirt Jürgens hay Charlton Heston. Nhưng lần này tờ Tự do đã nắm lấy đề tài này và dễ dàng thuyết phục dư luận rằng "đã đến lúc" cũng có một người Thổ đóng được vai Atatürk. Ngoài ra, các độc giả có thể cắt tờ câu hỏi dự thi trong báo gìn đến tòa soạn để bầu chọn người đóng Atatürk. Ngay từ ngày trưng cầu dân ý đầu tiên đã thấy rõ, sau một giai đoạn tự đề cử dân chủ của các ứng viên do một hội đồng chọn trước, Sunay vượt trội rõ ràng. Khán giả Thổ nhận thấy ngay Sunay - đẹp trai, vương giả, đáng tin cậy và từ nhiều năm nay có kinh nghiệm sắm vai các nhân vật Jacobin - sẽ thể hiện được Atatürk. 

Lỗi đầu tiên của Sunay là ông quá coi trọng việc mình được nhân dân bầu chọn. Ông liên tục lên màn ảnh ti vi và phát biểu với cộng đồng. Ông làm bộ ảnh về cuộc sống hôn nhân hạnh phúc với Funda Eser. Bằng cách công khai hóa chuyện nhà cửa, sinh hoạt thường nhật và quan điểm chính trị, Sunay định chứng tỏ mình xứng đáng với Atatürk và cũng giống ông trong một số sở thích và đặc tính (uống Raki, khiêu vũ, ăn mặc lịch sự, xử thế bặt thiệp). Ông chụp ảnh cạnh bộ "Diễn từ" của Atatürk để chứng tỏ ông hay đọc đi đọc lại các bài diễn thuyết đó. (Khi một phóng viên soi mới châm chọc rằng Sunay không đọc bản chính "Diễn từ" mà đọc bản tóm tắt với ngôn ngữ hiện đại hóa, Sunay liền chụp ảnh với các bản chính trên giá sách của ông, tiếc là những bức hình ấy cố gắng đến mấy cũng không được tờ báo nọ in lên.) Ông đến dự các buổi khai trương triển lãm, hòa nhạc và những trận đá bóng quan trọng, phát biểu về "Atatürk và hội họa, Atatürk và âm nhạc","Atatürk và thể thao Thổ Nhĩ Kỳ" trước các nhà báo tầm tầm, bạ thấy mặt ai cũng hỏi đủ thứ chuyện trên trời dưới biển.Với mong muốn chiếm cảm tình của tất cả mọi người - hoàn toàn không hợp với lập trường Jacobin của mình - Sunay còn trả lời phỏng vấn của các báo kỳ thị phương Tây và theo "Chủ nghĩa toàn thống". Trong một lần phỏng vấn, khi nghe một câu hỏi thực ra không hẳn mang tính khiêu khích, ông trả lời: "Nhất định một ngày nào đó, nếu nhân dân thấy tôi xứng đáng, tôi sẽ đóng vai nhà tiên tri Muhammad." Phát biểu bất cẩn này đã châm ngòi cho một loạt phiền phức của ông. 

Trong các tạp chí nho nhỏ của Hồi giáo chính trị người ta viết là không một ai - xin Thượng đế tha tội! - được phép đóng vai Đấng tiên tri của chúng ta cả. Niềm căm phẫn ấy thoạt tiên trình bày trên các cột báo ở dạng "không kính trọng Nhà tiên tri của chúng ta",đã nhanh chóng trở thành "báng bổ Nhà tiên tri". 

Khi giới quân sự cũng không bịt mồm nổi các tín đồ Hồi giáo chính trị, đến lượt Sunay phải ra tay dập lửa. Với hy vọng xoa dịu tình hình và cuốn kinh Koran trong tay, Sunay giải thích cho giới độc giả bảo thủ rằng ông rất yêu mến nhà tiên tri Muhammad, và thực ra Người rất tân tiến. Các nhà báo theo tư tưởng Atatürk vốn khó chịu với hành vi của Sunay, người "được nhân dân lựa chọn làm Atatürk" chỉ đợi dịp này: họ phản biện rằng Atatürk không bao giờ uốn lưỡi cho vừa lòng đám toàn thống và cuồng tín. Hình ảnh Sunay siêu thoát với cuốn Koran trong tay được in đi in lại trên mặt báo chí ngả về phe đảo chính, đi kèm câu hỏi: "Atatürk sẽ thế này chăng?" Đối lại, báo chí Hồi giáo chính trị chuyển sangphản công, ít vì bảo vệ Sunay hơn là bảo vệ chính mình. Họ in ảnh Sunay đang uống Raki và chú thích bên dưới: "Hắn thích uống Raki, cũng như Atatürk!" hoặc "Kẻ này mà đòi đóng vai Nhà tiên tri?". Cứ thế, Sunay là ngòi nổ cho cuộc cãi vã vài tháng một lần bùng ra trên mặt báo Istanbul giữa phe Hồi giáo chính trị và phe thế tục. 

Trong vòng một tuần, ảnh Sunay liên tục xuất hiện trên báo: hình ông khoan khoái uống bia trong một đoạn quảng cáo cách đây mấy năm, hình ông bị ăn đòn trong khi đóng phim thời trẻ hình ông giơ tay thành nắm đấm trước lá cờ búa liềm, hình ông đứng nhìn vợ hôn các diễn viên khác khi đóng phim... Các tin đồn chiếm hết trang báo: vợ ông là người đồng tính, ông vẫn theo cộng sản. Funda Eser lồng tiếng cho phim con heo phi pháp, Sunay có tiền thì chịu làm bất cứ chuyện gì, họ đã chả diễn các vở của Brecht vì được Đông Đức trả tiền đấy sao, họ còn nói với "Các bà ở một hiệp hội Thụy Điển rằng Thổ Nhĩ Kỳ có món ruột là tra tấn", cùng nhiều chuyện khác nữa. Hồi ấy "một sĩ quan cao cấp" gọi Sunay đến bộ chỉ huy và thông báo ngắn gọn rằng bên quân sự quyết định ông phải rút đơn ứng cử đóng Atatürk. Đây không phải sĩ quan nhân hậu và đồng cảm chuyên mời một số phóng viên Istanbul đến Ankara, những người phi thực tế tự coi mình quan trọng và bóng gió chỉ trích phe quân sự can thiệp vào chính trị để trước tiên hăm dọa họ một cách tàn bạo rồi thấy họ khóc lóc vì sợ thì cho ăn sô-cô-la. Viên sĩ quan này cũng làm cùng "Phòng quan hệ công chúng" nhưng là người có tính mỉa mai và vô cùng nghiệt ngã. Ông ta không nhượng bộ khi thấy Sunay buồn và sợ, ngược lạiông ta chế giễu các phát ngôn chính trị và hành vi của người được chọn làm Atatürk". Hai hôm trước đó Sunay vừa mới về thăm thành phố nhỏ nơi ông chào đời, đã diễn vai "chính trị gia của nhân dân" rất ghê, ông được cả đoàn ôtô cùng hàng nghìn người thất nghiệp và nông dân trồng thuốc lá đồng thanh chào đón. Sunay leo lên tượng đài Atatürk ở quảng trường thành phố và bắt tay Atatürk trong tiếng tung hô của quần chúng. Trong cơn kích động ấy, ông được một tạp chí Istanbul quen biết hỏi: "Liệu ông sẽ có ngày chuyển từ sân khấu sang chính trường không?"Và trả lời: "Nếu nhân dân muốn thế." Hiện tại theo bố cáo của văn phòng thủ tướng bộ phần về Atatürk bị hoãn "vô thời hạn".