Tuyết - Chương 22 - Phần 02

Sunay đủ hiểu đời để tiêu hóa thất bại này mà không bị tổn thương nhiều. Song những gì xảy ra sau đó còn tệ hại hơn: trong vòng một tháng ông lên ti vi quá nhiều để giành vai Atatürk đến nỗi không được giao việc lồng tiếng nào nữa, vì ai cũng nhận ra giọng nói quá quen thuộc của Atatürk. Cả những người làm phim quảng cáo vốn hay dùng ông đóng vai người chủ gia đình thông thái biết lựa ra những sản phẩm tốt và đáng tin cậy, nay cũng lảng tránh ông vì không muốn đưa lên hình ảnh một Atatürk thất sủng tay cầm thùng sơn để sơn tường hoặc kể lể hài lòng với nhà băng của mình ra sao. Và cái tệ hại nhất là người dân lại đi tin tưởng sắt đá vào mọi thứ in trên báo, cho rằng Sunaynay là kẻ thù của Atatürk cũng như tôn giáo. Một số thậm chí còn tin rằng ông im mồm chấp nhận vợ mình đi hôn hít đàn ông khác. Gì thì gì, ý kiến chung là ở đâu có khói ắt phải có lửa! Vì những diễn biến đó, lượng khách xem các buổi diễn của ông giảm đi. Liên tục có người chặn ông ngoài đường và nói: "Nhục mà chết đi!" Một thằng bé ở trường tôn giáo, tin rằng Sunay phỉ báng Nhà tiên tri, đồng thời cũng muốn đưa mặt mình lên báo, lao vào nhà hát trong một tối biểu diễn, rút dao và nhổ vào mặt mấy người liền. Mọi chuyện xảy ra trong vòng có năm ngày. Vợ chồng Sunay lặn thẳng. 

Tiếp đó là hàng loạt tin đồn rằng họ đã sang Berlin mượn cớ tu nghiệp ở nhà hát Berliner Ensemble của Brecht để đi học lớp tập huấn khủng bố, hoặc họ được tài trợ của Bộ văn hóa Pháp để vào điều trị tâm thần tại nhà thương điên Hòa Bình của Pháp tại quận Şişli của Istanbul. Thật ra họ lui về ở nhà của mẹ Funda Eser, một họa sĩ sống ở vùng Hắc Hải. Mãi một năm sau họ mới được nhận làm hoạt náo viên trong một khách sạn tầm thường ở Antalya. Sáng sáng họ chơi bóng chuyền với khách du lịch Đức và Hà Lan ngoài bờ biển, chiều đến họ hóa trang thành Karagöz và Hacivat nói ngọng nghịu tiếng Đức để mua vui cho trẻ con, còn buổi tối thì lên sân khấu trong vai Sultan Thổ Nhĩ Kỳ và nàng sủng phi múa bụng. Đó cũng là khởi đầu sự nghiệp múa bụng của Funda Eser mà mười năm sau bà còn tiếp tục ở các thị tứ nhỏ khác. Sunay chịu đựng trò hề này được ba tháng cho đến khi ông giã nhừ tủ một tay thợ uốn tóc người Thụy Điển trước cặp mắt kinh hoàng của các du khách chỉ vì hắn muốn tiếp diễn mấy chuyện tiếu lâm về hậu cung và mũ chóp Thổ, và ngoài bãi biển sáng hôm sau lại còn tán tỉnh Funda Eser nữa. Nghe nói là sau đó họ làm việc dẫn trò, vũ công và "cố vấn sân khấu" tại các nhà văn hóa cũng như trong các đám cưới ở Antalya và lân cận. 

Sunay xướng tên các ca sĩ mạt hạng miệt mài nhái theo những thần tượng Istanbul, nghệ sĩ ảo thuật nuốt lửa và các diễn viên tấu hài hạng bét, đồng thời cũng chen vào những màn thuyết trình ngắn về tập quán hôn nhân, Atatürk và nền cộng hòa trước khi Funda Eser diễn màn múa bụng. Cuối cùng, họ diễn một tiểu phẩm nghiêm túc kéo dài chừng mười phút, ví dụ như một cảnh trích vở Macbeth khi bàn kế hoạch giết vua, được khán giả hoan nghênh. Trong các buổi tối ấy đã hình thành xương sống của đoàn kịch sau này lưu diễn khắp Anatolia. 

Sau khi đo xong huyết áp và truyền mệnh lệnh gì đó qua máy bộ đàm, Sunay đọc một mẩu giấy được trình lên và nhăn mặt đầy kinh tởm. "Tất cả chỉ điểm nhau," ông nói. Trong chuyến lưu diễn kéo dài cả năm trời qua các địa phương heo hút của Anatolia ông đã thấy đàn ông nước này tê liệt vì sầu muộn. "Ngày này qua ngày khác họ ngồi trong quán trà và không làm gì cả," ông giải thích. "Thành phố nhỏ nào cũng có hàng trăm kẻ như vậy. Cả nước Thổ có hàng trăm nghìn, hàng triệu người thất nghiệp, bất tài, vô dụng và tê liệt. Bọn này không có cớ gì để chú ý đến bề ngoài, không đủ ý chí mà cài khuy chiếc áo khoác bóng mỡ và lấm lem của chúng, không có năng lượng để động đậy chân tay, không có sức tập trung nghe một câu chuyện cho đến hết, và không có đầu óc để cười khi nghe thuyền tiếu lâm."Ông cho rằng nhiều người bất hạnh đến nỗi không ngủ được, họ hút thuốc vì thuốc lá sẽ giết họ, họ hiểu sự vô nghĩa của câu nói vừa bắt đầu nên thà bỏ lửng còn hơn, họ không xem ti vi vì thích chương trình đó và để giải trí mà vì không chịu nổi các lý do khác khiến họ u sầu, thực ra họ muốn chết quách đi nhưng không thấy mình đủ giá trị để tự sát, họ bỏ phiếu cho những ứng viên khốn nạn nhất của những đảng mạt hạng nhất để chúng sẽ trừng phạt họ một cách xứng đáng, và thích bọn đảo chính luôn mồm nói về trừng phạt hơn các chính khách đem lại hy vọng. Funda Eser vào phòng và nói thêm là tất cả bọn họ ở nhà đều có người vợ bất hạnh chăm sóc đàn con đông như lợn và đi quét dọn, chế biến thuốc lá, đan thảm ở những nơi mà chồng họ chẳng hề biết, hoặc làm y tá để kiếm chút tiền. Giả sử không có những người vợ ấy, những người bị cột chặt vào cuộc đời để suốt ngày chửi mắng con cái và khóc lóc, thì hàng triệu thằng đàn ông râu ria không cạo, mặc sơ mi bẩn thỉu, không biết niềm vui, nghề nghiệp hay công việc là gì, đứa nào cũng giống đứa nào ở đất Anatolia này sẽ kết thúc như lũ ăn mày chết cóng ở góc phố trong đêm băng tuyết, hay như bọn nát rượu chui ra từ quán rượu và ngã xuống cống lộ thiên không bao giờ nổi lên, hoặc như các ông cụ lẩm cẩm mặc áo ngủ và giày trong nhà ra hiệu tạp hóa mua bánh mì rồi không biết đường về.Như ta thấy "Ở thành phố Kars đáng thương này", bọn chúng quá đông; và niềm vui duy nhất của chúng là hành hạ vợ, thay vì biết ơn họ đã nuôi sống mình, những người vợ mà chúng bám vào với một tình yêu khiến chúng thấy xấu hổ.

"Ở Anatolia tôi đã hiến dâng mười năm của đời mình để những người anh em bất hạnh ấy rời bỏ được u sầu và phiền muộn," Sunay nói, hoàn toàn không hề có ý định gây lòng thương hại với chính mình. "Luôn luôn chúng tôi bị gọi là cộng sản, gián điệp của phương Tây, đồi trụy, tà giáo, đĩ điếm, ma cô, bị bắt giam, tra tấn và đánh đập. Họ đã định hãm hiếp chúng tôi, đã lấy đá ném chúng tôi. Nhưng họ cũng học được cách yêu hạnh phúc và tự do mà những vở kịch và đoàn kịch của tôi đem đến cho họ. Nay tôi không thể bỏ giữa chừng khi đang có cơ hội lớn nhất trong đời!" 

Hai người đàn ông vào phòng, một người đưa Sunay máy bộ đàm. Qua tiếng từ đầu kia vọng đến Ka được biết một nhà ổ chuột trong quận Cổng Nước đang bị bao vây, từ trong nhà có đạn bắnra và ở đó có một chiến binh Kurd cùng một gia đình. Trong máy có tiếng một quân nhân ra lệnh và được thưa là "chỉ huy". Một lát sau, vẫn người ấy thông báo cho Sunay một tin gì đó và hỏi ý kiến ông, giọng không như nói với một người lãnh đạo cách mạng, mà như với một đứa bạn cùng lớp. 

Sunay nhận thấy Ka chăm chú lắng nghe. "Ở Kars có một đội lính. Trong những năm chiến tranh lạnh nhà nước tập trung lực lượng vũ trang ở Sarikamiş phòng quân Nga tấn công. Đội lính này may ra thì đủ sức giữ chân đợt tấn công đầu tiên của quân Nga một thời gian ngắn thôi. Hiện nay thủ yếu họ đóng ở đây để bảo vệ đường biên giới qua Armenia." 

Sunay kể, ông cũng như Ka xuống chuyến xe buýt đến từ Erzurum, sau đó vào nhà hàng Đất Xanh và gặp Osman Nuri Tay Vẹo là một người bạn từ ngót ba chục năm nay. Ông này ở cùng lớp trong trường thiếu sinh quân Kuleli. Ngày ấy ông là người duy nhất ở Kuleli biết Pirandello là ai và các tác phẩm của Sartre có nội dung gì. "Ông ấy không bị đuổi học vì vô kỷ luật như tôi, nhưng cũng không trở thành một người lính nhiệt tình. Do vậy ông ấy không leo được lên đến bộ chỉ huy. Nghe phong thanh là ông ấy cũng chẳng thể làm tướng vì quá nhỏ người. Ông ấy đang cáu và buồn, nhưng theo tôi không vì lý do công việc, mà vì vợ ông ấy ôm con bỏ đi mất. Lại còn vì cô đơn, vô công rồi nghề và những lời ì xèo ở tỉnh lẻ, tuy tất nhiên chính ông ấy buôn chuyện nhiều nhất ông ấy là người đầu tiên ở ngay nhà hàng đã kể về những vụ giết mổ trộm, vay tín dụng của nhà băng nông nghiệp và các lớp học Koran. Ông ấy vui mừng khi gặp lại tôi và than phiền về sự cô đơn, nói như xin lỗi nhưng kỳ thực có chút khoe khoang là sáng mai phải dậy sớm vì đêm nay ông mang trách nhiệm chỉ huy ở Kars. Chỉ huy đội lính phải đi Ankara vì vợ ông ta bị suyễn, viên thượng tá đại diện cho ông ta thì bị gọi họp khẩn ở Sarikamiş và ông thống sứ đang ở Erzurum. Mọi quyền hạn nằm trong tay ông cả. Tuyết thì vẫn rơi, rõ ràng là đường lại bị tắc mấy ngày như các mùa đông khác. Tôi nhận ngay ra cơ hội của đời mình và gọi cho ông thêm một ly đúp Raki." Theo điều tra của viên thiếu tá do Ankara cử về sau sự kiện này, ban đầu thượng tá Osman Nuri Tay Vẹo (Sunay chỉ gọi là Tay Vẹo và Ka vừa nghe giọng ông ta trong máy bộ đàm) cho rằng ý tưởng hy hữu về đảo chính quân sự chỉ là chuyện tếu, nói ra bên bàn rượu Raki để giết thời gian một cách lý thú, thậm chí ông còn là người đầu tiên đùa rằng chỉ cần hai xe tăng là xong mọi chuyện. Sau đó Sunay nằng nặc thuyết phục và ông đã tham gia vụ này vì không muốn vấy bẩn danh dự một người đàn ông, cũng vì tin Ankara rốt cuộc sẽ hài lòng với hành động của họ, chứ không vì tâm trạng cá nhân cáu giận hay tham vọng được thua gì.(Theo báo cáo của viên thiếu tá, tiếc rằng "Tay Vẹo" vẫn vi phạm nguyên tắc ấy và triệt hạ ngôi nhà của một nha sĩ sùng Atatürk ở quận Cộng Hòa chỉ vì chuyện đàn bà.) Ngoài nửa đội lính tấn công các nhà ở và trường học, bốn xe tải và hai xe tăng T-1 hoạt động cực kỳ dè chừng vì khan hiếm phụ tùng, không còn đơn vị lính nào tham gia cách mạng nữa. Nếu không kể đến Z. Tay Sắt và đội đặc nhiệm của mình bị quy trách nhiệm gây ra "các vụ đổ máu không rõ căn nguyên" thì chủ yếu sự việc được hoàn tất bởi vài nhân viên chăm chỉ của cảnh sát và Bộ an ninh quốc gia, vốn là cơ quan luôn đề phòng một thời điểm bất thường từ nhiều năm nay và do vậy đã lập kho dữ liệu về toàn thành phố cũng như dùng một phần mười dân cư ở Kars làm mật vụ. Những nhân viên ấy rất sung sướng khi nghe thấy kế hoạch đảo chính đầu tiên và tin đồn trong thành phố là phe thế tục sẽ biểu tình tại Nhà hát nhân dân đến nỗi họ công khai gửi điện tín cho các đồng nghiệp đang đi nghỉ, gọi họ quay về ngay lập tức để khỏi bỏ lỡ vụ này. 

Vào khoảng thời gian này, qua cuộc đàm thoại trên điện đài Ka nhận ra vụ đụng độ ở quận Cổng Nước đã tiến sang giai đoạn mới. Thoạt tiên trong máy vang lên ba tiếng súng, mấy giây sau người ta nghe tiếng vọng bị át đi trên bình nguyên phủ tuyết. Ka thấy tiếng súng được phóng đại trong máy bộ đàm hay hơn. 

"Chớ tàn bạo quá!" Sunay nói vào máy bộ đàm. "Nhưng cũng phải cho chúng biết cách mạng và nhà nước có sức mạnh và không biết đùa."Ông tư lự lấy ngón cái và ngón trỏ bóp cằm, và Ka nhớ chính câu ấy đã được Sunay nói ra với cùng tư thế trong một vở kịch lịch sử hồi giữa thập kỷ bảy mươi. Hôm nay trông ông không còn đẹp như hồi ấy, nom mệt mỏi, ngơ ngác và nhợt nhạt. Ông cầm chiếc ống nhòm quân sự từ hồi 1940 trên bàn, quàng lên người chiếc áo khoác dày xơ xác đã theo ông từ mười năm nay đi khắp Anatolia, đội mũ lông lên và quàng tay lôi Ka ra ngoài. Trong một thoáng, khí lạnh làm Ka bất ngờ, ông cảm thấy, bên cạnh cái lạnh của Kars, thì những nguyện vọng và mơ ước chính trị và xúc cảm của con người mới nhỏ bé yếu ớt làm sao. Đồng thời ông nhận ra chân trái Sunay khập khiễng nhiều hơn ông tưởng. Trong khi đi trên vỉa hè phủ tuyết ông tràn ngập hạnh phúc vì đường phố trống trơn và họ là những người duy nhất đang đi trong thành phố này. Và đó không chỉ đơn thuần niềm vui sống và ước muốn tình yêu được đánh thức trong ông bởi thành phố đẹp đầy tuyết và những lâu đài cổ hoang vu: giờ đây Ka cũng tận hưởng cảm giác được ở gần quyền lực. 

"Đây là góc đẹp nhất của Kars," Sunay nói. "Trong mười năm nay, đoàn kịch của tôi về đây lần này là lần thứ ba. Lần nào tôi cũng về khi trời sắp tối, đi dưới bóng hàng cây dương và trúc đào nghe tiếng quạ kêu, buồn rầu nhìn qua lâu đài, cây cầu và nhà tắm bốn trăm năm tuổi. Họ đứng trên cầu bắc qua con sông đóng băng. Sunay chỉ vào một trong những ngôi nhà ổ chuột nằm rải rác trên ngọn đồi phía trái đối diện. Phía dưới đó một chút và cao hơn mặt đường Ka thấy một chiếc xe tăng và gần đó là một xe tải quân sự. 

"Chúng tôi thấy các anh rồi," Sunay gọi vào điện đài và nhìn qua ống nhòm. Một lát sau có tiếng nổ của hai phát súng: trước vang lên trong điện đài, sau vọng từ thung lũng bị sông vây quanh.Một lời chào gửi đến họ chăng? Hai lính gác đợi họ bên đường lên cầu. Họ quan sát khu nhà nghèo mọc lên từ một trăm năm nay trên nền đất của các lâu đài quý tộc Ottoman xưa bị súng đại bác của Nga phá hủy, công viên bên kia sông nơinhững nhà giàu ở Kars ngày xưa làm chốn tiêu khiển, và thành phố phía sau công viên. 

"Hegel là người đầu tiên phát hiện ra lịch sử và sân khấu cùng tù một chất liệu mà ra," Sunay nói. "Ông ta đã chỉ ra rằng, lịch sử giao vai chính cho một số người nhất định, giống như sân khấu. Và giống như trên sân khấu nhà hát các diễn viên thử thách tài năng, những người dũng cảm cũng phơi mình trên sân khấu lịch sử..." 

Những tiếng nổ làm rung chuyển thung lũng. Ka biết là súng máy trên xe tăng đã bắt đầu hoạt động. Cả pháo tăng cũng khai hỏa nhưng trượt. Sau đó là tiếng nổ của lựu đạn do lính ném.Tiếng một con chó sủa. Cửa túp lều ổ chuột mở, hai người tiến ra.Họ giơ hai tay lên. Đồng thời Ka thấy những lưỡi lửa liếm qua cửa kính vỡ. Những người vừa từ trong nhà ra nằm rạp xuống tuyết, một con chó đen tung tăng sủa và vẫy đuôi len vào giữa họ. Rồi Ka nhìn thấy phía sau có ai đó chạy và tiếng quân lính nổ súng.Người đàn ông ngã xuống, tất cả im lặng. Một lúc lâu sau mới có tiếng quát tháo, nhưng Sunay không thèm để tâm nữa. 

Họ quay về xưởng may, hai vệ sĩ theo sau lưng. Vừa thấy bức tường lâu đài cổ dán giấy tuyệt đẹp, Ka nhận ra mình không cự lại nổi một bài thơ đang hiện ra trong đầu, và ông trốn vào một góc. 

"Tự sát và quyền lực" là nhan đề bài thơ mà Ka không ngập ngừng dồn hết vào đó niềm vui quyền lực mà ông vừa có khi ở cạnh Sunay, vị ngọt từ tình bạn này và mặc cảm tội lỗi trước các thiếu nữ đã tự sát. Về sau ông tin rằng mọi điều ông chứng kiến ở Kars đã được thể hiện một cách mạnh mẽ và chính xác nhất trong bài thơ "vững vàng và cẩn trọng" này.