Tuyết - Chương 23 - Phần 02

Bà quay sang chồng. Hai người bắt đầu nói chuyện, hấp tấp nhảy từ chủ đề này sang chủ đề khác như vua và hoàng hậu bận rộn bàn quốc gia đại sự. Trước ánh mắt nửa khâm phục nửa kinh ngạc của Ka họ nhanh chóng quyết định Sunay sẽ mặc trang phục gì khi lên truyền hình tối nay (thường phục? cảnh phục? đồ đại lễ?), chuẩn bị bài diễn thuyết ra sao (Funda Eser đã viết thay một đoạn), xét lá đơn xin bảo trợ kèm chỉ điểm của chủ khách sạn Vườn Hoa Kars, nơi họ đã từng trọ khi đến đây ngày xưa (ông ta chỉ điểm hai khách trẻ đáng nghi, sau khi sốt ruột vì quân lính liên tục đến và khám xét), sau đó họ đọc duyệt chương trình của Truyền hình biên giới Kars (phát lại đêm diễn ở Nhà hát nhân dân lần thứ tư và thứ năm, ba lần phát lại bài nói chuyện của Sunay, các bài hát ca ngợi anh hùng và lính biên phòng, một bộ phim tài liệu về cảnh đẹp của Kars, một phim nội địa mang nhan đề Gülizar). 

"Ta làm gì với nhà thơ của chúng ta đây?" Sunay hỏi. "Lý trí của ông ấy ở châu Âu, tình cảm ông ấy ởchỗ chiến binh của trường tôn giáo, còn đầu óc thì rối tung hết cả." 

"Nhìn vẻ mặt ông ấy thì rõ," Funda Eser nói và mỉm cười thân mật. "Một chàng trai tốt đấy, ông ấy sẽ giúp chúng mình." 

"Nhưng ông ấy rớt nước mắt vì bọn Hồi giáo chính trị ấy." 

"Ông ấy đang yêu, thế thôi." Funda Eser nói. "Thi sĩ của chúng ta mấy hôm nay đang dạt dào xúc cảm mà." 

"Thật sao? Thi sĩ của chúng ta đang yêu?" Sunay hỏi với bộ dạng cường điệu. "Chỉ những nhà thơ trong trắng nhất mới nghĩ nổi tới chuyện yêu đương trong khi cách mạng nổ ra." 

"Ông ấy không phải là một nhà thơ trong trắng, mà là một người tìnhtrong trắng," Funda Eser nói. 

Hai vợ chồng diễn tiếp cảnh ấy một lúc nữa, không hề ngập ngừng làm Ka vừa bực mình vừa cực kỳ bối rối. Sau đó họ ra chiếc bàn lớn của xưởng may và uống trà. 

"Tôi chỉ định nói ngắn gọn thôi, để ông quyết định rằng tốt nhất là nên giúp đỡ chúng tôi." Sunay nói. "Kadife là người tình của Lam. Lam không về Kars vì lý do chính trị, mà vì chuyện yêu đương. Người ta không tóm tên sát nhân này, vì còn định dò ra đám trẻ Hồi giáo chính trị nào có quan hệ với hắn. Giờ thì người ta tiếc, vì hắn đã đột ngột biến mất trước khi ký túc xá bị tấn công.Tất cả thanh niên Hồi giáo chính trị ở Kars đều hâm mộ và theo đuôi hắn. Hắn đang lẩn quất ở Kars và nhất định sẽ tìm đến ông.Lúc đó có lẽ ông sẽ khó có điều kiện báo cho chúng tôi. Nhưng nếu chúng tôi gài vào người ông một chiếc hoặc thậm chí hai chiếc micro như đã làm với ông hiệu trưởng trường sư phạm, gắn thêm một máy phát sóng vào áo choàng nữa, thì ông chẳng việc gì phải sợ cả. Người ta sẽ tóm hắn khi ông đã đi khỏi cuộc họp." 

Sunay nhận ngay ra rằng Ka không ưa ý tưởng này. "Tôi không ép ông," ông ta nói. "Ông không thể hiện ra, nhưng điệu bộ của ông hôm nay cho thấy ông là người cẩn trọng. Ông biết cách tự bảo vệ mình, tuy nhiên tôi vẫn muốn nói là ông nên đề phòng Kadife. Người ta đoán là cô ta nói hết cho Lam những gì cô ấy nghe thấy. Nhất định cô ấy cũng thông báo những gì bố cô ấy và khách khứa bàn luận mỗi tối bên bàn ăn. Có thể một phần vì cô ấy cảm thấy kích động khi chống đối bố, nhưng nhất định vì cô ấy yêu và trung thành với Lam. Ông thử nói xem có gì ở con người này thu hút đến thế cơ chứ?" 

"Ở Kadife?" 

"Tất nhiên là ở Lam," Sunay cáu kỉnh. "Tại sao tất cả đều bị tên sát nhân này thu hút? Vì sao hắn có danh tiếng lừng lẫy như vậy ở khắp Anatolia? Ông đã chuyện trò với hắn rồi, ông có thể cho tôi biết không?" 

Ka bị phân tán phút chốc vì Funda Eser lấy chiếc lược nhựa ra và bắt đầu chải tóc Sunay rất âu yếm và kỹ lưỡng. 

"Tôi muốn ông hãy nghe bài diễn thuyết của tôi trên ti vi," Sunay nói. "Ông đi cùng tôi lên xe tải quân sự, tôi cho thả ông xuống ở khách sạn." 

Còn bốn mươi lăm phút nữa mới hết giờ thiết quân luật. Ka xin phép đi bộ về khách sạn và được chấp thuận. 

Ông vừa bắt đầu thấy khoan khoái trong người khi thấy phố Atatürk thênh thang không một bóng người, các phố cắt ngang đầy tuyết im lìm, vẻ đẹp của hàng cây trúc đào và những ngôi nhà Nga cổ phủ tuyết, thì cũng nhận ra có người theo chân mình. 

Ông đi ngang phố Halit Paşa, rẽ trái khỏi phố Kâzimbey Nhỏ. Tay mật vụ hổn hển bám theo trên lớp tuyết xốp, con chó đen có chấm trắng trên trán mà Ka hôm qua đã thấy ở ga tung tẩy theo chân hắn. Ka ẩn vào một trong mấy cửa hàng tạp hóa ở khu Yusuf Faşa và quan sát, rồi ông đột ngột tiến ra trước mặt tay mật vụ. 

"Ông đi theo tôi để điều tra hay để bảo vệ tôi?" 

"Thực tế thưa ông, ông muốn hiểu thế nào cũng được ạ." 

Nhưng người kia trông ngơ ngác và mệt mỏi đến nỗi khó mà bảo vệ được chính mình, huống hồ bảo vệ Ka. Trông bề ngoài như phải đến sáu mươi lăm tuổi là ít, mặt mũi nhàu nhĩ, giọng the thé và mắt đã hết vẻ tinh anh. Ông ta nhìn Ka không như một nhân viên cảnh sát vận thường phục, mà như một người dân thường thấy cảnh sát là sợ. Ka thương hại ông ta khi thấy mũi giày Sümerbank - đồng phục của cảnh sát dân sự ở khắp đất Thổ đã toác mõm ra. 

"Ông là cảnh sát phải không? Nếu ông có thẻ căn cước đem theo thì nhà hàng Đất Xanh sẽ mở cho chúng ta vào ngồi." 

Họ không phải gõ cửa lâu mới được người ta mở cửa. Ka và tay mật vụ - xưng tên là Saffet - uống một ly Raki, ăn bánh nướng phó mát và chìa cho con chó một miếng. Họ nghe bài nói chuyện của Sunay, hoàn toàn không có gì khác với diễn văn của mọi lãnh tụ sau đảo chính quân sự đã từng được nghe. Khi Sunay nói tới đoạn những người Kurd theo chủ nghĩa dân tộc, phe toàn thống được kẻ thù ngoại bang xúi bẩy và những chính khách mất chất sẵn sàng làm mọi thứ để lấy phiếu bầu đã đẩy Kars đến sát bờ vực thẳm, lúc ấy Ka đã thấy ngán ngẩm lắm rồi. 

Trong khi Ka uống ly Raki thứ hai, tay mật vụ kính cẩn chỉ tay lên Sunay trên màn ảnh. Lúc này ông ta lại càng không giống một tên mật vụ hạng ba chút nào, mà như một kẻ ăn mày khốn khổ. 

"Ông quen ông ấy, và quan trọng hơn, ông ấy nể ông," ông ta nói. "Tôi có một nguyện vọng, nếu ông chuyển đến cho ông ấy thì tôi sẽ thoát được khỏi địa ngục này. Có thể người ta sẽ điều tôi ra khỏi công tác điều tra vụ đầu độc và cử làm việc khác được không ạ?" 

Khi Ka muốn biết cụ thể hơn, ông ta đứng dậy ra khép cửa quán lại. Rồi ông ta ngồi xuống và kể về "vụ đầu độc"

Tên mật vụ vụng về kể chuyện một cách vòng vèo khiến nó càng lộn xộn hơn, làm cho đầu óc Ka vốn đã kém tỉnh táo vì rượu, giờ lại càng rối mù. Câu chuyện bắt đầu với phỏng đoán của bên quân đội và cảnh sát mật, rằng quầy bán bánh kẹp và thuốc lá của quán Điểm Tâm Hiện Đại ở trung tâm thành phố được nhiều lính đến mua đã bán đồ uống vị quế pha thuốc độc. Vụ đầu tiên được để ý tới là một sĩ quan bộ binh dự bị người Istanbul. Cách đây hai năm, trước một bài tập được biết là rất nặng nhọc, sĩ quan này đã bị sốt run bần bật, không cất nổi chân. Bên y tế cho biết có hiện tượng trúng độc, và viên sĩ quan tưởng mình sắp chết đã đổ tội tho thứ đồ uống mà anh ta mua ở góc phố Kâzimbey Nhỏ cắt phố Kâzim Karabekir, vì tò mò trước một thứ đồ lạ miệng. Vụ ngộ độc đơn giản này kỳ thực cũng dễ bị quên đi. Nhưng người ta nhớ lại nó khi hai sĩ quan dự bị liền nhau được đưa đi cấp cứu với những triệu chứng tương tự. Họ cũng lên cơn sốt rét, nói năng lắp bắp vì run, không tự đứng nổi, ngã quay ra và cho rằng loại nước uống vị quế mà họ tò mò uống thử là nguyên nhân. Đồ uống nóng này do một bà già người Kurd ở quận Atatürk "điều chế" ra, và khi nhiều người hưởng ứng thì được đem bán ở quán điểm tâm do đứa cháu bà làm chủ. Các thông tin lập tức được thu thập bởi một nhóm điều tra bí mật do ban quân quản Kars thành lập. Nhưng các mẫu thử khi được bí mật phân tích tại khoa thú y đều cho kết quả âm tính. Vụ điều tra chuẩn bị khép lại thì một viên tướng kể cho vợ nghe chuyện này và tá hỏa khi được biết là bà ta ngày nào cũng uống mấy cốc liền để chống tê thấp. Nhiều vợ sĩ quan, cả các sĩ quan cũng uống nước ấy, lấy cớ bồi bổ sức khỏe nhưng đúng hơn chỉ để giải sầu. Điều tra thấy các sĩ quan và gia đình họ, lính nghỉ phép và gia đình lính đến thăm con đã tiêu thụ một lượng lớn thứ đồ uống được bán tại quầy giữa thành phố, nơi mỗi ngày họ đi qua hàng chục bận và cũng là thú tiêu khiển duy nhất, viên tướng nọ phát hoảng và chuyển vụ này qua cho cảnh sát mật và thanh tra của bộ tư lệnh - cẩn tắc vô áy náy! Dạo đó quân đội ở vùng Đông Nam tiến hành truy lùng tàn bạo du kích của đảng Công nhân Kurd và đang chiếm ưu thế. Trong trí tưởng tượng của đám thanh niên Kurd thất nghiệp lang bạt có nguyện vọng tham gia du kích nảy ra nhiều ý tưởng phục thù dị biệt và đáng sợ. 

Dĩ nhiên lực lượng chỉ điểm của mật vụ chuyên vạ vật ở các quán cà phê của Kars biết rõ những cú trả thù tưởng tượng mù mờ kiếu đặt bom, bắt cóc, lật đổ tượng đài Atatürk, đầu độc hệ thống nước uống thành phố và giật nổ cầu. Do vậy người ta đánh giá vụ này khá nghiêm túc, song vì ngại có vấn đề nên không muốn tra tấn lấy cung chủ quán điểm tâm. Thay vào đó, người ta tung mật vụ của tòa thống sứ tới cửa hàng cũng như vào làm bếp của bà già người Kurd đang ngày càng sung sướng vì có nhiều khách hơn. Tay mật vụ ở cửa hàng ngay từ đầu đã kiểm tra kỹ và nhận thấy máy rắc quế - hiện đang còn là một phát minh đặc biệt của bà cụ, cốc chén, giẻ lót cán muôi kim loại, hộp đựng tiền xu và tay người làm trong quán không hề dính chất lạ nào cả. Một tuần sau tay mật vụ này cũng bị các triệu chứng ngộ độc giống như các vụ ngày trước, buộc phải rời nơi làm việc vì run và nôn tháo. 

Nhân viên mật vụ được gài vào gia đình bà cụ còn chăm chỉ hơn gấp bội. Trong các báo cáo được viết mỗi tối, nhân viên này thuật lại đủ chuyện, từ ai ra vào nhà cho đến những đồ mua về (cà rốt, táo mận khô, dâu khô, hoa lựu, nụ tầm xuân và thục quỳ gai).Không lâu, các bản báo cáo biến thành thư khen ngợi công thức quý báu để chế thứ đồ uống nóng này. Nhân viên mật vụ báo cáo là mỗi ngày anh ta uống năm, sáu cốc vại, chẳng thấy có hại gì mà ngược lại còn chữa được bệnh tật, quả thực là thứ "đồ uống sơn cước" đã được nhắc đến trong trường ca Mặt trời và Mặt trăng nổi tiếng của dân Kurd. Các chuyên viên do Ankara cử về mất tin tưởng vào nhân viên đặc vụ này vì anh ta người Kurd. Họ suy ra từ những báo cáo là đồ uống này chỉ đầu độc người Thổ chứ không có ảnh hưởng gì đến người Kurd nhưng không thể tiết lộ cho ai nhận định này vì nó không trùng với quan điểm của nhà nước là giữa người Thổ và người Kurd không hề có khác biệt gì cả. Do đó Istanbul điều bác sĩ về để lập hẳn một khoa riêng trong nhà thương an sinh xã hội. Nhưng tính nghiêm túc của công trình nghiên cứu này bị ảnh hưởng bởi những người dân Kars khỏe như vâm cũng đến phòng khám bệnh miễn phí, và các bệnh nhân bị bệnh lặt vặt như rụng tóc, da vẩy nến, nhiễm trùng rốn hoặc nói lắp cũng đổ vào nằm đầy bệnh viện. Tóm lại, các nhân viên đặc vụ chăm chỉ ở Kars, trong đó có Saffet lại vẫn gánh trách nhiệm khám phá âm mưu làm đồ uống vị quế ngày càng bí hiểm và, nếu quả thực là nguyên nhân vụ này, cho đến nay đã gieo vạ cho hàng nghìn lính. Nhiều mật vụ nhận nhiệm vụ theo dõi những ai uống thứ nước do bà cụ người Kurd vui vẻ chế ra. Vấn đề bây giờ không phải là điều tra xem chất độc tiếp xúc với người dân Kars ra sao, mà là xác định rõ ràng những ai trong số người Kars bị đầu độc. Vậy là các nhân viên mật vụ rình mò tất cả mọi người thích dùng thứ đồ uống ngon lành của bà cụ, từng người một, bất kể lính hay dân thường, đôi khi theo chân về tận nhà họ. 

Ka hứa sẽ nói chuyện với Sunay, lúc này đang tiếp tục diễn thuyết trên ti vi; về nỗi lo lắng của viên mật vụ mệt mỏi có đôi giày hạ mõm vì năng nổ công tác. Ông ta sung sướng đến nỗi lúc ra đi còn ôm chầm lấy Ka để hôn và tự tay tháo then mở cửa.