Bên Kia Cửa Tử - Chương 08 (Hết)
Chương 8
Theo
những tài liệu viết về cõi giới bên kia cửa tử như cuốn Tử Thư Ai Cập
và Tử Thư Tây Tạng thì những người chết trẻ , chết bất đắc kỳ tử, nghĩa
là chết trong lúc bất cập, chưa chuẩn bị, thường bị những áp lực rất
nặng của vật chấtnên khó siêu thoát. Người chết trẻ giống như quả non
chín héo. Trong một quả non chín héo, người ta có thể tách rời cái hột
ra khỏi cái trái. Ở một người chết trẻ, vong linh cũng khó có thể thoát
ra khỏi áp lực của vật chất, của các dục vọng, thèm khát của xác thịt.
Các vong linh này không muốn lìa bỏ cõi trần, không muốn rời bỏ thể xác
đang tan rã, nên đau khổ rất nhiều. Hầu hết các tôn giáo đều dạy rằng
khi có người saắp tử trần cần phải tụng kinh cầu nguyện. Sau khi họ qua
đời cũng cần cầu nguyện tiếp tục trong một thời gian. Mặc dù đây là việc
nên làm, cần làm và thường được làm nhưng nếu chờ đợi đến khi chết rồi
mới lo cầu nguyện thì có lẽ đã quá trể chăng? Cuốn Tử Thư Tây Tạng
khuyên người ta cần chuẩn bị càng sớm càng tốt, nếu có những ham muốn
vật chất thì phải biết hạng chế lần hồi các dục vọngnày bằng cách thay
thế nó với những thú vui trí thức, nghệ thuật có tính cách hướng thượng.
Chương thứ sáu của cuốn Tử Thư đã ghi rõ:
-" Muốn được hữu dụng ở
cõi trần và thoải mái ở bên kia cửa tử, ngay bây giờ phải biết làm chủ
các dục vọng vật chất, nghĩa là tránh các thú vui tửu sắc, tránh sự tha
thiết với tài sản, sự nghiệp, không nên chạy theo tiền tài, danh vọng vì
đó là những vật vô thường, nay còn mai mất. Khi nhắm mắt từ bỏ cõi
trần, người ta không thể mang nó theo được mà còn bị nó tạo những áp lực
khiến cho thần trí hoang mang, u mê không sáng suốt, dễ bị đọa lạc vào
cảnh giới ma quỷ hay súc sanh".
Hơn lúc nào hết, sự hiểu biết về
cõi giới bên kia cửa tử là một đề tài cần được nghiên cứu rộng rãi để
chuẩn bị cho mọi người vì trước sau ai cũng qua bên đó. Tại sao trước
khi đi du lịch một nơi nào, người ta đã thu xếp hành lý cẩn thận, nhưng
lại cố tình phủ nhận không chịu chuẩn bị, bỏ qua một nơi chốn mà trước
sau ai cũng phải đến?
Theo tài liệu của viện nghiên cứu Gallup thì
với sự tiến bộ của nền y khoa hiện đại, một số người đã chết nhưng được
hồi sinh ( Near death experience) mỗi ngày một nhiều. Chỉ riêng tại Hoa
Kỳ, cơ quan Gallup đã ghi nhận hơn 8 triệu trường hợp xảy ra.
Cũng theo cơ quan này, đa số dân chúng Hoa Kỳ ( 68%) đều tin rằng " có
một đời sống bên kia cửa tử. Kết quả cuộc nghiê cứu Gallup cho thấy mặc
dù kinh nghiệm cá nhân có phần khác nhau ít nhiều nhưng nói chung đa số
đều cho biết họ thấy "nhẹ nhõm, thỏai mái, không đau đớn gì khi lìa bỏ
thân xác ".
Phần lớn kể rằng họ đã thấy cái thể xác nằm bất động
của mình( out of body experience) và sau đó bị lôi cuốn đi trong một
đường hầm đen tối sâu hun hút trước khi đến biển sáng dịu dàng, thỏai
mái. Có người kể rằng họ gặp lại các thân nhân đã từ trần trước đó, có
người tin rằng họ đã gặp Thượng Đế hay gặp Chúa Jesus và được Ngài chỉ
dạy.
Một số khoa học gia đã phủ nhận sự kiện này và cho rằng đó
chỉ là sự tưởng tượng trong lúc mê sảng. Họ cho rằng khi sắp chết, cơ
thể của con người đã tiếtra những hóa chất đặc biệt, có công dụng gây ảo
giác như một thứ ma túy, mặc dù họ chưa chứng minh được những hóa chất
này như thế nào. Một số người khàc tin rằng lúc chết, cơ thể con người
bị xáo trộn mạnh mẽ, bộ óc không còn kiểm soát được mọi sự nữa nên hệ
thần kinh đã hoạt động rất bình thường. Giống như một bình điện bị chạm,
xẹt lửa lung tung, bộ óc con người lúc tan rã cũng có những rối loạn
khiến người ta có cảm tưởng như đang ở trong một thế giới với muôn ngàn
tia sáng lắp lánh. Tuy nhiên họ không thể giải thích nếu bộ óc đã tan rã
( xẹt lữa) như vậy thì tại sao khi hồi sinh nó lại hoạt động bình
thường như không hề có chuyện gì xảy ra. Các nhà tâm lý học cho rằng
hình ảnh về thế giới bên kia chỉ là những sự tin tưởng tôn giáo, nằm sâu
trong tiềm thức con người, khi đầu óc bị chấn động lúc chết nó đã phát
động như một " phương tiện tự vể để giúp con người tránh sự xúc động .
Tuy nhiên theo dữ kiện của viện nghiên cứu Gallup, thì phần lớn số người
hồi sinh nói về "đời sống ở cõi bên kia " không phải những người có
nhiều đức tính về tôn giáo hay những người không đáng tin cậy. Một số
lớn là những người có địa vị hay trình độ học thức rất cao trong xã hội,
một số khác là các trẻ em còn ngây thơ, chưa biết thêu dệt hay thêm
thắt những điều bịa đặt.
Trong cuốn Learning from Children s Near Death Experience, bác sĩ Melvin Morse viết:
- " Tôi tin rằng chúng ta đang bước vào một lĩnh vực mới, có thể nối
liền khoa học với tôn giáo. Hiểu biết được sự việc này, chúng ta có thể
thay đổi quan niệm sống một cách toàn diện và nền y khoa cũng sẽ bước
vào một giai đoạn khác hẳn khi xưa "
Bác sĩ Morse đã ghi nhận hơn
1000 trường hợp trẻ em bị tai nạn, tưởng đã chết nhưng lại được hồi
sinh. Các em này kể lại hoạt vẽ lên giấy những hình ảnh mà các em đã
thấy, cũng như những người mà các em đã tiếp xúc ở cõi giới bên kia. Đa
số các em đều nói về một nơi chốn rất sáng, có các thiên thần toàn thân
sáng chói dìu dắt, an ủi và ôm các em vào lòng. Nhiều em kể lại đã gặp
thân nhân; họ hàng đã qua đời, hoặc bạn bè giúp đỡ trong lúc các em bị
xúc động.
Bác sĩ Elizabeth Kubler Ross, người tiền phong trong lãnh vực nghiên cứu về hiện tượng hồi sinh cho biết:
- " Con người sợ chết như con nít sợ ma, họ đã nhìn cái chết một cách
sợ hãi, ghê tởm và cố gắng phủ nhận nó vì làm gián đoạn sự liên tục của
cuộc sống. Nhưng nếu họ biết chấp nhận sự chết một cách bình thản, giản
dị thì họ sẽ thấy chết là một sự kiện tự nhiên cũng như lúc sinh ra vậy.
Bất kỳ lúc nào chung quanh chúng ta, sống và chết cũng luôn luôn tiếp
diễn, lá cây rụng để nhường chỗ những mầm non xuất hiện, hết mùa Đông
lại có mùa Xuân. Một hiện tượng tự nhiên và cần thiết như thế không lẽ
lại chẳng bao hàm một ý nghĩa thâm sâu nào đó? Phải chăng chính vì có sự
chết mà sự sống hiện hữu, có sự xây dựng thì cũng phải có sự hủy diệt,
đâu có gì tồn tại vĩnh viễn. Người ta không thể hiểu được ý nghĩa đích
thực của sự sống nếu họ không chịu chấp nhận sự chết, và đã đến lúc
người ta phải nghiên cứu cặn kẽ các sự kiện này chứ không thể chấp nhận
những lý thuyết mơ hồ nào đó được" . Phần lớn các tài liệu nói về người
chết hồi sinh chỉ ngưng lại ở một cảnh giới có ánh sáng chói lọi, ít khi
đi xa hơn nhưng đã có những tài liệu khác của những người đã chết tìm
cách liên lạc với cõi trần, kể rõ về cảnh giới bên kia cửa tử. Chúng tôi
trích lại một tài liệu từ cuốn La Revue Spirite
- Bác sĩ Henri
Desrives là một khoa học gia hoạt động vui vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà
trí thức khác, ông sống một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến
những điều mà những nhà khoa học chưa giãi thích được. Ông không tin
rằng có một linh hồn tồn tại sau khi chết vì thể xác chỉ là sự kết hợp
của các vật chất hữu cơ và trí thông minh chẵng qua là sản phẩm của các
tế bào thần kinh. Khi thể xác đã hư hoại thì trí thông minh cũng không
thể tồn tại. Một hôm khi bàn chuyện với các con về đề tài đời sống sau
khi chết, ông hứa sẽ liên lạc với các con nếu quả thật có một đời sống
bên kia cửa tử. Cậu con trai Pierre Desrives, cũng là một y sĩ, đã nói;
- " Nếu đã chết làm sao cha có thể liên lạc với con được".
Vài năm sau, bác sĩ Desrives từ trần, các con ông vì bận việc nên cũng
không để ý gì buổi bàn luận đó nữa. Khoảng hai năm sau, một nhóm nhân
viên làm việc trong bệnh viện lập bàn cơ chơi, bất ngờ cơ bút đã viết:
- Xin cho gọi bác sĩ Pierre Desrives đến vì tôi là cha cậu đó và tôi có mấy lời muốn nhắn nhủ với các con tôi ".
Được thông báo, Bác sĩ Pierre Desrives không tin tưởng mấy nhưng nhớ
lại lời dặn của cha, ông bèn kêu các em lại dự buổi cơ bút này, một
người cầm giữ đầu một sợi dây, đầu kia cột vào một cây bút chì và chỉ
một lát sau cây bút đã tự động chạy trên các trang giấy thành một bức
thư như sau:
- Các con thân mến,
Cha rất hài lòng đã gặp đủ
mặt các con nơi đây. Gần một năm nay, cha có ý trong đợi để kể cho các
con nghe về những điều ở cõi bên này mà cha đã chứng kiến nhưng không có
cơ hội. Như các con đã biết, hôm đó sau khi ở bệnh viện về, cha thấy
trong người mệt mỏi lạ thường, cha bèn lên giường nằm và dần dần lịm đi
luôn, không hay biết gì nữa. Một lúc sau cha thấy mình đang lơ lửng
trong một bầu ánh sáng trong suốt như thủy tinh
Thật khó có thể tả
rõ cảm tưởng của cha khi đó, nhưng không hiểu sao cha lại thấy trong
mình dể chịu, linh hoạt, thoải mái chứ không bị gò bó, ràng buộc như
trước. Các con biết lúc đó cha đang bị phong thấp nên đi đứng khó khăn,
vậy mà lúc đó cha thấy mình có thể đi đứng, bay nhảy như hồi trai tráng.
Cha có thể giơ tay giơ chân một cách thỏai mái, không đau đớn gì. Đang
vẩy vùng trong biển ánh sáng đóthì bất chợt cha nhìn thấy cái thân thể
của cha của cha đang nằm bất động trên giường. Cha thấy rõ mẹ và các con
đang quây quần chung quanh đó và phía trên thân thể của cha có một hình
thể lờ mờ trông như một lùm cây màu xám đang lơ lửng. Cả gia đình đang
xúc động và không thể hiểu sao cha cứ thấy trong mình buồn bực, khó
chịu. Cha lên tiếng gọi nhưng không ai trả lời , cha buớc đến nắm lấy
tay mẹ con nhưng mẹ con không hề hay biết và tự nhiên cha có ý thức rằng
mình đã chết. Cha bị xúc động mạnh, nhưng may thay lúc đó mẹ con và các
con đều lên tiếng cầu nguyện, tự nhiên cha thấy mình bình tĩnh hẳn lại
như được an ủi. Cái cảm giác được đắm chìm trong những lời cầu nguyện
này thật vô cùng thoải mái dể chịu không thể tả xiết. Lớp ánh sáng bao
quanh cha tự nhiên trở nên sáng chói và cả một cuộc đời của cha từ lúc
thơ ấu đến khi trưởng thành bỗng hiện ra rõ rệt như trên màn ảnh. Từ
việc gần đến việc xa, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đều hiện
ra rõ rệt trong tâm trí của cha. Hơn bao giờ hết, cha ý thức tường tận
các hành vi của mình, các điều tốt lành, hữu ích mà cha đã làm cũng như
các điều xấu xa, vô ích mà cha không tránh được. Tự nhiên cha thấy sung
sướng về những điều thiện đã làm và hối tiếc về những điều mà lẽ ra cha
không nên làm. Cả một cuốn phim đời hiện ra một cách rõ rệt cho đến khi
cha thấy mệt mỏi và thiếp đi như người buồn ngủ.
Cha ở trong tình
trạng vật vờ, nữa ngủ nữa thức này một lúc khá lâu cho đến khi tỉnh dậy
thì thấy mình vẫn lơ lửng trong một bầu ánh sáng có màu sắt rất lạ không
giống như bầu ánh sáng lần trước. Cha thấy mình có thể di chuyển một
cách nhanh chóng, có lẽ vì không còn xác thân nữa. Cha thấy cũng có
những người đang di chuyển gần đó nhưng mỗi lần muốn đến gần họ thé cha
lại có cảm giác khó chịu làm sao. Một lúc sau cha đi đến một nơi có đông
người tụ họp. Những người này có rung động dễ chịu nên cha có thể bước
lại hỏi thăm họ một cách dễ dàng. Một người cho biềt tùy theo các rung
động thích hợp mà cha có thể tiếp xúc được với những người ở cõi bên
này. Sở dĩ cha không tiếp xúc được với một số người vì họ có sự rung
động khác với "tần số rung động" (frequency) của cha. Sự giải thích có
tính cách khoa học này làm cha tạm hài lòng. Người nọ cho biết thêm rằng
ở cõi bên này tầng số rung động rất quan trọng, và tùy theo nó mà người
ta sẽ lựa chọn nơi chốn mà họ sống. Cũng như loài cá ở ngoài biển, có
loài sống gần mặt nước, có loài sống ở lưng chừng và có loài sống dưới
đáy sâu tùy theo sức ép của nước thì ở cõi bên này, tùy theo tần số rung
động mà người ta có thể tìm đến các cảnh giới khác nhau. Sự kiện này
làm cha vô cùng cảm thấy vô cùng thích thú vì như vậy quả có một cõi
giới bên kia cửa tử và cõi này lại có nhiều cảnh giới khác nhau nữa. Zz
Khi xưa cha không tin những quan niệm như thiên đ àng địa ngục nhưng
hiện nay cha cảm thấy quan niệm này có thể được giải thích một cách khoa
học qua việc các tần số rung động. Những tần số rung động này như thế
nào? Tại sao cha lại có tần số rung động hợp với một số người? Người nọ
giải thích rằng tùy theo tình cảm của con người mà họ có những sự rung
động khác nhau, người có tình thương cao cả khác với những người tính
tình nhỏ mọn, ích kỷ hay nhữnng người hung ác, không hề biết thương yêu.
Đây là một điều lạ lùng mà trước nay cha không hề nghĩ đến. Cha bèn đặt
cậu hỏi về khả năng trí thức, phải chăng những khoa học gia như cha có
những tần số rung động đặc biệt nào đó, thì người nọ trả lời rằng, khả
năng trí thức hoàn toàn không có một giá trị nào ở cõi bên này cả. Điều
này làm cho cha ít nhiều thất vọng. Người nọ cho biết rằng cái kiến thức
chuyên môn mà cha tưởng là to tác chẳng qua chỉ là những mảnh vụn của
một kho tàng kiến thức rất lớn mà bên này ai cũng có thể học hỏi được.
Người nọ nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là con người biết làm gì với
những kiến thức đó. Sử dụng nó để phục vụ hay tiêu diệt nhân loại? Sử
dụng nó vào mục đích vị tha hay ích kỷ? Sử dụng nó để đem lại niềm vui
hay để gây đau khổ cho người khác? Thấy cha có vẻ thất vọng, người này
bèn đưa cha đến một thư viện lớn, tại đây có lưu trữ hàng triệu cuốn
sách mà cha có thể tham cứu, học hỏi. Chưa bao giờ cha lại xúc động như
vậy. Có những cuốn sách rất cổ viết từ những thời đại xa xưa và có những
cuốn sách ghi nhận những điều mà từ trước đến nay cha chưa hề nghe nói
đến. Sau một thời gian nghiên cứu, cha thấy cái kiến thức mà mình vẫn
hãnh diện thật ra chẳng đáng kể gì só với kho tàng kiến thức nơi đây.
Đến khi đó cha mới thấm thía điều người ta nói về khả năng trí thức của
con người và bắt đầu ý thức về tần số rung động của mình.
Nơi cha
đang sống có rất đông người, đa số vẫn giữ nguyên tính nết cũ như khi
còn sống ở thế gian. Có người hiền từ vui vẻ, có người tinh nghịch ưa
chọc phá người khác, có người điềm đạm, có kẻ lại nóng nảy. Quang cảnh
nơi đay cũng không khác cõi trần bao nhiêu, cũng có những dinh thự đồ
sộ, to lớn, có những vườn hoa mỹ lệ với đủ các loại hoa nhiều màu sắc,
có những ngọn núi rất cao hay sông hồ rất rộng. Lúc đầu cha ngạc nhiên
khi thấy những cảnh vật này dường như luôn luôn thay đổi nhưng về sau
cha mới biết cảnh đó hiện hữu là do sức mạnh tư tưởng của những người
sống tại đây. Thay vì xây cất nhà cửa bằng chất liệu vật chất như gạch
đá thì họ lại tạo ra những thứ này bằng tư tưởng. Điều này có thể giải
thích giống như sự tưởng tượng ở cõi trần. Các con có thể tưởng tượng ra
nhà cửa dinh thự trong đầu óc mình, nhưngn ở cõi trần, sức mạnh tư
tưởng này rất yếu, chỉ hiện lên trong trí óc một lúc rồi thôi. Ở bên này
vì có những rung động đặc biệt nào đó phù hợp với sự rung động của tư
tưởng làm gia tăng thêm sức mạnh khiến cho những hình ảnh này có thể
được thự hiện một cách rõ ràng, chính xác và lâu bền hơn.
Các con
đừng nghĩ rằng những người bên này suốt ngày rong chơi, tạo ra các hình
ảnh theo ý muốn của họ, mà thật ra tất cả đều bận rộn theo đuổi các công
việc riêng để chuẩn bị cho sự tái sinh, vì mọi tư tưởng bên này đều tạo
ra các hình ảnh nên đây là môi trướng rất thích hợp để người ta có thể
kiểm soát, ý thức rõ rệt hơn về tư tưởng của mình. Vì đời sống bên này
không cần ăn uống, làm lụng nên người ta có nhiều thời gian theo đuổi
những công hay sở thích riêng. Có người mở trường dạy học, kẻ theo đuổi
các ngành chuyên môn như hội họa, âm nhạc, kiến trúc, văn chương, thơ
phú.v.v.. Tóm lại, đây là môi trường để học hỏi, trau dồi các khả năng
để chuẩn bị cho một đời sống mai sau. Phần cha đang học hỏi trong một
phòng thì nghiệm khoa học để sau này có thể giúp ích cho nhân loại. Càng
học hỏi cha càng thấy cái kiến thức khi xưa của cha không có gì đáng kể
và nền y khoa mà hiện nay các con đang theo đuổi thật ra không lấy gì
làm tân tiến lắm nếu không nói rằng rất ấu trĩ so với điều cha được biết
nơi đây. Hiển nhiên khoa học phát triển tùy theo khả năng trí thức của
con người, mỗi thời đại lại có những sự phát triển hay tiến bộ khác nhau
nên những giá trị cũng gì thế mà thay đổi. Có những giá trị mà thời
trước là "khuôn vàng thước ngọc" thì đời sau lại bị coi là "cổ hủ lỗi
thời" và như cha đã biết thì những điều mà ngày nay đang được người đời
coi trọng, ít lâu nữa cũng sẽ bị đ ào thải. Tuy nhiên cái tình thương,
cái ý tưởng phụng sự mọi người, mọi sinh vật thì bất kỳ thời đại nào
cũng không hề thay đổi, và đó mới là căn bản quan trọng mà con người cần
phải biết. Càng học hỏi cha càng thấy chỉ có những gì có thể tổn tại
được với thời gian mà không thay đổi thì mới đáng gọi là chân lý. Cha
mong các con hãy suy gẫm về vấn đề này, xem đâu là những giá trị có tính
cách trường tồn, bất biến để sống theo đó, thay vì theo đuổi những giá
trị chỉ có tính cách tạm bợ, hời hợt.
Cha biết rằng mọi ý nghĩ, tư
tưởng, hành động đều có những rung động riêng và được lưu trữ lại trong
ta nhu một cuốn sổ. Dĩ nhiên khi sống ở cõi trần, con người quá bận rộn
với sinh kế, những ưu phiền của kiếp nhân sinh, không ý thức gì đến nó
nên nó khép kín lại, nhưng khi bước qua cõi bên này thì nó từ từ mở ra
như những trang giấy phô bầy rõ rệt trước mắt. Nhờ thế mà cha biết rõ
rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều do chính ta tạo ra và lưu trữ trong
mình. Cuốn sổ lưu trữ này là bằng chứng cụ thể của những đời sống đã qua
và chíng nó kiểm soát tần số rung động của mỗi cá nhân. Tùy theo sự
rung động mà mỗi cá nhân thích hợp với nhựng cảnh giới riêng và sẽ sống
tại đó khi bước qua cõi giới bên này. Do đó, muốn được thoải mái ở cõi
bên này, các con phải biết chuẩn bị. Cha mong các con hãy bắt tay vào
việc này ngay. Các con hãy ráng làm những việc lành, từ bỏ những hành vi
bất thiện. Khi làm bất cứ việc gì, các con hãy suy gẫm xem hậu quả việc
đó như thế nào, liệu có gây đau khổ hay tổn thương cho ai không? Đừng
quá bận rộn suy tính những điều hơn lẽ thiệt mà hãy tập quên mình. Đời
người rất ngắn, các con không có nhiều thời giờ đâu.
Khi còn sống,
đã có lúc cha dạy các con phải biết đầu tư thương mại để dành tiền bạc
vào những trương mục tiết kiệm, những bất động sản, những chứng khoán...
nhưng bây giờ cha biết rằng mình đã lầm. Một khi qua đến bên đây, các
con không thể mang những thứ đó theo được. Danh vọng, địa vị, tài sản
vật chất chỉ là những thứ có tính cách tạm bợ, bèo bọt, đến hay đi như
mây trôi, gió thổi, trước có sau không. Chỉ có tình thương mới là hành
trang duy nhất mà các con có thể mang theo mình qua cõi giới bên này một
cách thoải mái, không sợ hư hao mất mát. Tình thương giống như miếng đá
nam châm, nó thu hút những người thương nhau thật sự, để họ tiến lại
gần nhau, kết hợp với nhau. Nó là một mãnh lựv bất diệt, mạnh mẽ, trường
tồn và chính nhờ lòng thương này mà người ta có thể tìm gặp lại nhau
trải qua không gian hay thời gian. Chắc hẳn các con nghĩ rằng người cha
nghiêm nghị đầy uy quyền khi trước đã trở nên mềm yếu chăng? Này các
con, chỉ khi nào buông xuôi tay bước qua thế giới bên này, các con mới
thực sự kinh nghiệm được trạng huống của mình, tốt hay xấu, hạnh phúc
hay đau khổ, thích hợp với cảnh giới thang cao tốt lành hay những nơi
chốn thấp thỏi xấu xa. Hơn bao giờ hết, cha xác định rằng điều cha học
hỏi nơi đây là một định luật khoa học thật đơn giản mà cũng thật huyền
diệu. Nó chính là cái nguyên lý trật tự và điều hòa hằng hiện hữu trong
vũ trụ. Sự lựa chọn để sống trong cảnh giới mỹ lệ đẹp đẽ hay tăm tối u
minh đều do những tần số rung động của mình mà ra cả và chính mình phải
chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình hay lựa chọn những nơi mà mình sẽ
đến.
Khi còn sống cha tin rằng chết là hết, con người chỉ là sự
cấu tạo của các chất hữu cơ hợp lại, nhưng hiện nay cha biết mình đã
lầm. Cha không phân biệt phần xác thân và phần tâm linh. Sự chết chỉ đến
phần thân xác trong khi phần tâm linh vẫn hoạt động như thế từ thuở nào
rồi và sẽ còn tiếp tục mãi mãi. Hiển nhiên cá nhân của cha không phải
là cái thể xác đã bị hủy hoại kia mà là phần tâm linh vẫn tiếp tục hoạt
động này, dó đó cha mới cố gắng liên lạc với các con để hoàn tất điều mà
cha đã hứa với các con khi xưa. Cha nghiệm được rằng sự sống giống như
một giòng nước tuôn chảy không ngừng từ nơi này qua nơi khác, từ hình
thức này qua hình thức khác. Khi trôi chảy qua những môi trường khác
nhau nó sẽ bị ảnh hưởng những điều kiện khác nhau, và tùy theo sự học
hỏi, kinh nghiệm mà nó ý thức được bản chất thiêng liêng thực sự của nó.
Cũng như sóng biển có đợt cao, đợt thấp thì đời người cũng có những lúc
thăng trầm, khi vinh quang tột đỉnh, lúc khốn cùng tủi nhục, nhưng nếu
biết nhìn lại toàn vẹn tiến trình của sự sống thì kiếp người có khác chi
những làn sóng nhấp nhô, lăng xăng trên mặt biển đâu! Chỉ khi nào biết
nhân thức về bản chất thật sự của mình vốn là nước chứ không phải là
sóng thì các con sẽ ý thức được tính cách trường cửu của sự sống. Từ đó
các con sẽ có quan niệm rõ rệt rằng chết chỉ là một diễn tiến tất nhiên,
một sự kiện cần thiết có tính cách giai đoạn chứ không phải một cái gì
ghê gớm như người ta thường sợ hãi. Điều cần thiết không phải là trốn
tránh sự chết hay ghê tởm nó, nhưng là sự chuẩn bị cho một sự kiện tất
nhiên phải đến một cách thoải mái, ung dung vì nếu khi còn sống các con
đã đem hết khả năng và phương tiện của mình để giúp đời, để yêu thương
mọi loài thì lúc lâm chung, các con chẳng có gì phải luyến tiếc hay hổ
thẹn với lương tâm cả. Trước khi từ biệt các con, ba muốn nói thêm rằng
hiện nay ba đang sống một cách thoải mái, vui vẻ và an lạc chứ không hề
khổ sở.
HẾT