Người giúp việc - Chương 22-P1

CHƯƠNG 22

“HÔM NAY CON BAO NHIÊU TUỔI, bé lớn?”

Mae Mobley vẫn còn nằm trên giường. Nó giơ hai ngón tay ngái ngủ lên và đáp, “Mae Mo Hai Tuổi.”

“Không không, hôm nay mình lên ba rồi!” Tôi kéo thêm một ngón tay của nó lênngâm nga bài hát bố vẫn tặng tôi vào mỗi ngày sinh nhật, “Ba chú lính nhỏ, đi săn hươu rừng, hai chú bảo dừng, một chú cứ tiến.”

Bây giờ con bé đã chuyển sang nằm giường lớn vì cũi đang được sửa lại cho đứa em sắp ra đời. “Năm sau, mình sẽ hát bài bốn chú lính nhỏ, đi tìm thức ăn nhé.”

Mũi con bé chun lại vì giờ nó sẽ phải nhớ để trả lời nó là Mae Mobley Ba Tuổi, trong khi trong suốt phần đời nó còn nhớ đưc, nó luôn bảo mọi người rằng mình là Mae Mobley Hai Tuổi. Lúc bạn còn nhỏ, người ta chỉ hỏi bạn có hai câu, một: tên con là gì, hai: con bao nhiêu tuổi; tốt hơn hết là nên đáp cho chuẩn.

“Con là Mae Mobley Ba Tuổi,” nó nói rồi bò ra khỏi giường, cái đầu xù lên như tổ quạ. Vết hói nó có hồi còn bé tí xíu giờ đã quay lại. Bình thường tôi có thể chải tóc phủ lên, che nó đi trong vài phút, nhưng cũng chẳng được lâu. Tóc con bé mỏng và càng lúc càng mất độ xoăn. Cứ đến cuối ngày là các lọn duỗi hết ra. Tôi chẳng phiền gì vì con bé không được xinh, nhưng tôi luôn cố trau chuốt cho nó sáng sủa hết mức có thể để mẹ nó vừa lòng.

“Vào bếp đi,” tôi rủ. “Mình sẽ làm một bữa sáng sinh nhật cho con nhé.”

Cô Leefolt đã ra tiệm làm đầu. Cô không màng gì đến chuyện có mặt trong buổi sáng đứa con lớn của mình thức dậy vào ngày sinh nhật đầu tiên nó có thể nhớ được. Nhưng ít ra cô Leefolt cũng mua cho Bé Con thứ nó muốn. Cô dẫn tôi vào phòng ngủ và chỉ chiếc hộp to kềnh ngồi chình ình trên sàn.

“Chắc con bé sướng lắm nhỉ?” Cô Leefolt nói. “Nó biết đi, biết nói, biết cả khóc nữa.”

Còn phải nói, đó là một chiếc hộp bọc giấy chấm bi nền hồng. Mặt trước dán những dải giấy bóng kính, và bên trong là một con búp bê cao bằng Mae Mobky. Tên là Allison. Nó có mái tóc xoăn vàng óng và đôi mắt xanh biếc. Váy hồng xếp nếp. Mỗi lần trên tivi phát quảng cáo, Mae Mobley cuống quít chạy ra rồi dang tay ôm cứng lấy chiếc hộp biết nói ấy, mắt nó dí sát vào màn hình, nhìn chằm chằm ra bộ nghiêm trọng lắm. Nhìn thấy món đồ chơi ấy, trông cô Leefolt cứ như sắp phát khóc. Tôi đồ là hồi cô còn bé, bà mẹ già keo kiệt nhà cô chẳng bao giờ mua cho con gái những thứ cô ao ước.

Vào đến bếp, tôi quấy ít cháo yến mạch nhạt, rồi rải một lớp kẹo dẻo của trẻ con lên trên. Tôi bỏ cả vào lò nướng, làm thế ăn sẽ giòn giòn. Sau đó tôi trang trí bằng một quả dâu đã cắt nhỏ. Đấy, cháo yến mạch là thế, chỉ là phương tiện. Nấu món gì thì món, phải khiến người ta có cảm giác muốn ăn

Ba chiếc nến hồng tôi mang từ nhà đi đã chờ sẵn trong túi. Tôi lấy ra, bóc lớp giấy sáp bọc xung quanh để nến không bị vẹo. Châm lửa xong, tôi mang đĩa cháo ra chỗ chiếc bàn phủ vải sơn trắng ở giữa phòng, đặt ngay trước mặt cái ghế cao của con bé.

Tôi nói, “Chúc mừng sinh nhật con, Mae Mobley Hai Tuổi!”

Nó cười khanh khách và chữa, “Con là Mae Mobley Ba Tuổi!”

“Đúng rồi! Giờ Bé Con thổi nến đi nào. Không thì sáp rơi hết vào cháo mất.”

Nó chăm chú ngắm những ngọn lửa bé xinh, miệng cười toe toét.

“Kìa, bé lớn, thổi đi con.”

Con bé thổi phù, nến tắt sạch. Nó mút hết cháo dính trên chân nến rồi mới bắt đầu xúc ăn. Một lúc sau, nó nghếch mặt lên cười với tôi và hỏi, “Bác bao nhiêu tuổi rồi?”

“Aibileen năm mươi ba tuổi.”

Mắt nó trố ra. Cứ như tôi đã ngàn tuổi rồi ấy.

“Bác có... sinh nhật không?”

“Có.” Tôi cười. “Khổ thế đấy. Sinh nhật bác vào tuần sau.” Không thể tin nổi, tôi sắp sang tuổi năm tư cơ đấy. Rồi tôi sẽ đi về đâu nhỉ?

“Bác có con không?” Nó hỏi.

Tôi cười. “Bác có mười bảy đứa.”

Con bé chưa đếm được đến số mười bảy, nhưng nó cũng biết đó là một số to lắm.

“Ngần ấy đứa mà đứng hết trong bếp này thì chật kín luôn ấy chứ.”

Đôi mắt nâu của nó trố ra, to và tròn xoe. “Thế con bác đâu?”

“Ở khắp thị trấn này. Tất cả những em bé bác từng nuôi đấy.”

“Sao các bạn ý không đến chơi với cháu?”

“Vì chúng nó lớn cả rồi. Nhiều đứa còn có con rồi cơTrời đất, trông con bé mới ngơ ngác chứ. Nó xòe tay tính, như thể đang cố cộng hết tất cả số trẻ con kia vậy. Cuối cùng tôi nói, “Con cũng là một trong số đó. Tất cả những đứa bé bác từng nuôi, bác đều coi như con đẻ của bác.”

Nó gật đầu, khoanh tay lại.

Tôi quay sang rửa bát đĩa. Tiệc sinh nhật tối nay sẽ chỉ tổ chức trong gia đình, tôi sẽ phải lo phần bánh trái. Trước hết, tôi sẽ làm một cái bánh dâu phủ kem lạnh vị dâu. Nếu được chọn, tất cả mọi bữa ăn của Mae Mobley sẽ đều có dâu hết. Sau đó tôi sẽ làm đến cái bánh kia.

“Ta làm bánh sô-cô-la đi,” cô Leefolt bảo, vừa mới hôm qua. Cô đã chửa đến tháng thứ Bảy và cô thèm ăn bánh sô-cô-la ghê lắm.

Tôi đã lên kế hoạch từ tuần trước. Nguyên liệu cũng đã sẵn sàng hết rồi. Một dịp quan trọng như thế, tôi đâu thể chờ nước đến chân mới nhảy. “Thế. Bánh dâu thì sao? Đấy là món khoái khẩu của Mae Mobley mà.”

“Không không, nó thích bánh sô-cô-la đấy. Hôm nay tôi sẽ ra cửa hàng mua mọi thứ cần dùng nhé.”

Sô-cô-la cái đầu tôi đây này. Thế là tôi nghĩ bụng, thôi, đành làm cả hai cái vậy. Ít ra bé con cũng được thổi nến hai lần.

Tôi rửa đĩa cháo rồi rót cho con bé ít nước nho. Nó đang ngồi ôm con búp bê cũ trong bếp, con tên là Claudia, với mái tóc vẽ bằng sơn và đôi mắt luôn nhắm nghiền. Mỗi lần bị đánh rơi xuống sàn, cô nàng biết ré lên một tiếng thảm thiết lắm.

“Con của con đây này,” tôi nói và con bé vỗ vỗ lưng con búp bê như đang muốn cho nó ợ hơi, và gật đầu.

Rồi nó nói, “Aibee, bác là mẹ thật của con.” Nó còn không nhìn tôi, chỉ buông lời nhẹ tênh như đang nói chuyện nắng mưa.

Tôi khuỵu chân quỳ xuống chỗ con bé đang ngồi chơi. “Mẹ con đi ra tiệm làm đầu rồi. Bé Con à, con biết mẹ con là ai mà.”

Nhưng nó lắc đầu lia lịa, tay siết chặt con búp bê vào lòng. “Con là con bác,” nó nói.

“Mae Mobley, con biết là bác chỉ nói đùa thôi, lúc bác bảo bác có mười bảy đứa con ấy? Thật ra có phải thế đâu. Bác chỉ có mỗi một đứa con thôi.”

“Con biết rồi,” nó đáp. “Con là con thật của bác. Mấy đứa bác nói vừa nãy là giảờ.”

Tôi đã từng gặp vài ca như thế. John Green Dudley, từ đầu tiên rời miệng thằng bé là Mẹ, lúc ấy nó nhìn thẳng vào mắt tôi. Nhưng chẳng bao lâu sau, nó đã gọi tất cả mọi người, kể cả chính nó, là mẹ, và gọi luôn bố nó là mẹ. Chuyện đó tiếp diễn một thời gian dài. Chẳng ai thèm bận tâm. Thế nhưng, khi thằng bé bắt đầu tập tọng chơi trò ăn diện với mấy chiếc váy xòe Jewel Taylor của chị nó và xịt nước hoa Chanel No. 5, tất cả mọi người đều cảm thấy ít nhiều lo lắng.

Tôi giúp việc cho gia đình Dudley lâu lắm, những sáu năm. Ông bố thường xách thằng bé ra gara rồi lấy ống nước cao su quất nó tơi bời, sao cho tiệt cái “nọc mái” trong người nó, đến mức tôi không thể chịu đựng nổi nữa. Treelore dở chết ngạt mỗi bữa tôi về nhà và siết cưng nó vào lòng. Khi chúng tôi bắt đầu viết tập truyện, cô Skeeter hỏi tôi ngày đau buồn nhất tôi còn nhớ khi làm nghề giúp việc là ngày nào. Tôi đáp đó là lúc một đứa trẻ chết non. Nhưng thực ra không phải. Đó là mỗi ngày kể từ năm 1941 đến năm 1947, ngồi ngoài cửa chờ những trận đòn roi kết thúc. Tôi ước sao mình có cơ hội nói với thằng John Green Dudley rằng nó sẽ không phải xuống địa ngục. Rằng nó không phải là một đứa quái thai lộn giống vì nó thích con trai. Tôi ước sao mình có cơ hội rót vào tai nó những lời khích lệ ngọt ngào như tôi đang cố làm với Mae Mobley. Thay vào đó, tôi chỉ ngồi đờ đẫn trong bếp, chờ tới lúc thoa thuốc lên những lằn roi sưng tấy.

Đúng lúc đó hai bác cháu nghe tiếng cô Leefolt đánh xe vào gara. Tôi hơi lo, không biết cô Leefolt sẽ phản ứng ra sao nếu cô tình cờ nghe được mấy chuyện mẹ con này. Mae Mobley cũng sợ lắm. Nó huơ huơ hai cánh tay liên hồi như con gà con vỗ cánh. “Suỵt! Bác đừng nói gì nhé!” Nó nói. “Không mẹ đánh chết.”

Vậy là con bé đã có lần nói với mẹ nó rồi. Và cô Leefolt rõ ràng không hài lòng chút nào.

Khi cô Leefolt bước vào nhà với mái tóc mới, Mae Mobley còn không chào mẹ lấy một câu, nó chạy ù về phòng. Hình như nó sợ mẹ nó có thể nghe thấy những gì nó đang nghĩ trong đầu.

* * *

BỮA TIỆC SINH NHẬT MAE MOBLEY diễn ra suôn sẻ, ít ra đó là những gì cô Leefolt nói với tôi vào ngày hôm sau. Sáng thứ Sáu, tôi đi làm, thấy ba phần tư cái bánh sô-cô-la còn nằm trên mặt quầy. Bánh dâu đã hết sạch. Chiều hôm đó, cô Skeeter ghé qua để đưa cô Leefolt ít giấy tờ. Cô Leefolt vừa lạch bạch lê vào nhà vệ sinh, cô Skeeter bèn lẻn ngay xuống bếp.

“Tối nay ta làm tiếp chứ?” Tôi hỏi

“Có. Tôi sẽ đến.” Kể từ hồi cô Skeeter và cậu Stuart trục trặc, cô chẳng mấy khi nở nụ cười. Tôi nghe cô Hilly và cô Leefolt bàn tán về chuyện đó nhiều lắm.

Cô Skeeter tự lấy cho mình một chai Co-Cola trong tủ đá, và nói nhỏ. “Tối nay chúng ta kết thúc phần phỏng vấn Winnie rồi cuối tuần này tôi sẽ viết thành bản hoàn chỉnh. Nhưng sau đó tôi sẽ không gặp vú được cho đến tận thứ Năm. Tôi đã hứa với mẹ sẽ đưa mẹ xuống Natchez thứ Hai này để giải quyết việc của DAR.” Cô Skeeter gần như nheo mắt lại, cô hay làm thế khi đang nghĩ tới việc gì hệ trọng lắm. “Tôi sẽ đi vắng ba ngày đấy nhé?”

“Tốt,” tôi nói. “Cô cần được nghỉ ngơi một chút.”

Cô đi ra phòng ăn, nhưng rồi ngoái đầu lại, nhắc, “Nhớ nhé. Tôi sẽ lên đường vào sáng thứ Hai và đi liền ba ngày luôn đấy.”

“Vâng, thưa cô,” tôi đáp, không hiểu sao cô ấy thấy cần phải nhắc đi nhắc lại như thế nhỉ.

MỚI TÁM RƯỠI SÁNG THỨ HAI nhưng điện thoại nhà cô Leefolt đã réo hàng tràng chuông đổ nhà đổ cửa.

“Nhà cô Lee...”

“Đưa điện thoại cho Elizabeth mau!”

Tôi chạy đi báo cô Leefolt. Cô bò ra khỏi giường, lệt bệt chạy ra chỗ cái điện thoại, đầu vẫn cuốn đầy lô và trên người còn mặc nguyên bộ áo ngủ. Cô Hilly gào lên như đang nói vào loa chứ chẳng phải điện thoại. Tôi nghe từ nào từ nấy rõ mồn một.

“Cậu đi qua nhà tớ chưa?”

“Sao cơ? Cậu đang nói về...?”

“Cô ta đã đưa nó vào mục sáng kiến vệ sinh trên báo hội. Tớ đã thông báo rõ là áo khoác cũ sẽ được tập kết tại nhà tớ chứ không phải...”

“Để tớ đi lấy... thư đã, tớ chẳng hiểu cậu đang...”

“Tớ mà tóm được, tớ sẽ tự tay giết chết cô ta.”

Đường dây ngắt tịt ngay bên tai cô Leefolt. Cô đứng đó bần thần nhìn trong giây lát, rồi vội vã choàng chiếc áo khoác mặc nhà bên ngoài áo ngủ. “Tôi phải đi đây,” cô vừa nói vừa ngó quanh để tìm chìa khóa xe. “Tôi sẽ quay lại ngay.”

Cứ thế cô ôm cái bụng kềnh càng chạy ra cửa và khệ nệ ngồi vào xe phóng đi. Tôi nhìn xuống Mae Mobley, còn con bé ngước lên nhìn tôi.

“Đừng hỏi bác, Bé Con. Bác cũng chẳng biết gì đâu.”

Có một điều tôi biết, đó là cô Hilly cùng cả gia đình mới về sáng nay sau mấy ngày cuối tuần nghỉ ở Memphis. Mỗi lần cô Hilly đi vắng, cô Leefolt chỉ lải nhải mỗi một chuyện cô ta đang ở đâu và bao giờ cô ta quay lại.

“Đi nào, Bé Con,” một lát sau tôi rủ. “Bác cháu mình đi bộ nhé, xem có chuyện gì nào.”

Chúng tôi đi dọc phố Devine, rẽ trái, rồi lại rẽ trái một lần nữa, và thẳng lên phố nhà cô Hilly, phố Myrtle. Mặc dù khi ấy đang là tháng Tám, nhưng quãng đường cuốc bộ dễ chịu lắm, vì trời chưa đổ nóng nhiều. Chim chóc hót ríu ran khắp nơi. Mae Mobley cầm tay tôi và hai bác cháu hớn hở dung dăng dung dẻ với nhau. Hôm nay có bao nhiêu là xe đi qua chúng tôi, lạ thật, Myrtle vốn là đường cụt mà.

Chúng tôi đi vào con ngõ dẫn đến ngôi nhà son trắng bề thế của cô Hilly. Và chúng ở đó.

Mae Mobley chỉ tay và cười khanh khách. “Nhìn kìa. Aibee nhìn kìa!”

Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tôi chưa từng chứng kiến cảnh tượng nào như thế. Hơn ba chục cái. Bệ xí. Đứng la liệt trên bãi cỏ nhà cô Hilly. Mỗi cái lại có một màu sắc, hình dáng, kích cỡ khác nhau. Cái màu xanh, cái màu hồng, cái màu trắng. Vài cái mất bệ ngồi, vài cái mất két nước. Cũ có, mới có, đây thì dây giật nước lắp trên đầu, kia thì xả bằng cần gạt. Có cái nắp mở tênh hênh như đang buôn chuyện, cái khác nắp đóng im ỉm như đang dỏng tai lắng nghe, nom hệt như một đám người lố nhố.

Hai bác cháu đi men vào đường rãnh thoát nước, vì xe cộ bắt đầu dồn ứ lại trên con ngõ bé tí. Mọi người ùn ùn lái tới, vây quanh ốc đảo cỏ nhỏ bé nằm cuối đường, cửa kính xe đều kéo tịt xuống. Ai nấy cười rộ lên và bảo nhau. “Xem nhà Hilly kìa,” “Nhìn kìa.” Và săm soi mấy cái bồn cầu như thể đời họ chưa từng thấy bao giờ vậy.

“Một, hai, ba,” Mae Mobley bắt đầu đếm. Nó đếm đến mười hai thì tôi phải tiếp lời. “Hai mươi chín, ba mươi, ba mươi mốt. Ba mươi hai cái bồn cầu, Bé Con ạ.”

Chúng tôi tiến lại gần hơn, giờ tôi mới nhìn ra, không phải chỉ có trên bãi cỏ thôi đâu. Những chiếc bồn cầu đứng sóng đôi trên đường xe vào nhà, như những cặp vợ chồng. Có một chiếc đứng hiên ngang trên bậc thềm trước nhà, cứ như nó đang chờ cô Hilly ra mở cửa vậy.

“Cái kia trông buồn cười nhỉ...”

Nhưng Bé Con đã dứt khỏi tay tôi. Nó chạy thẳng ra sân, đến trước một cái bồn cầu màu hồng và lật nắp lên. Chỉ trong chớp mắt, con bé đã kịp tụt quần và tè vào đó còn tôi cuống quít đuổi theo nó, bỏ lại sau lưng hàng chục tiếng còi xe rú inh ỏi và một người đàn ông đội mũ đang cắm cúi chụp ảnh.

Xe của cô Leefolt đỗ trên đường dẫn vào nhà, ngay sau đuôi xe cô Hilly, nhưng tôi không thấy tăm hơi hai người đâu cả. Chắc họ đang ở trong nhà, gào rú không biết phải làm gì với đống hổ lốn này đây. Rèm cửa đã được buông kín, tịnh không có chút động tĩnh nào. Tôi thầm khấn trong bụng, mong sao họ không bắt quả tang Bé Con ngồi tè ngay trước mặt cả nửa dân số Jackson. Đến lúc về nhà rồi đây.

Trên cả quãng đường về, Bé Con cứ hỏi mãi về mấy chiếc bồn cầu. Sao chúng lại ở đấy? Chúng từ đâu ra? Nó đến thăm Heather và chơi với lũ bồn cầu một lúc nữa được không?

Khi tôi quay lại nhà cô Leefolt, chuông điện thoại reo inh ỏi không dứt suốt buổi sáng hôm đó. Tôi không nghe máy. Tôi chờ đến lúc chuông dừng đủ lâu để gọi cho Minny. Nhưng khi cô Leefolt vừa xông vào bếp, cô lập tức chạy bổ tới chỗ cái điện thoại với vận tốc phải đến hàng triệu dặm một giờ. Chỉ ít phút sau tôi đã ráp nối xong toàn bộ sự việc.