Người giúp việc - Chương 34

HÔM NAY BỘ ĐỒ BẠC nhà cô Leefolt lấm tấm những đốm mờ nom đến kỳ cục. Chắc là do độ ẩm cao quá. Tôi đi quanh bàn chơi bài, đánh bóng lại từng chiếc dao nĩa, kiểm tra xem có thiếu mất cái nào không. Cu Con đã bắt đầu biết xoáy những món lặt vặt, thìa dĩa rồi tiền xu và cả trâm cài tóc nữa. Nó giấu hết mấy món lủng củng đó vào tã. Nhiều khi, thay tã cho thằng bé cứ như là mở rương kho báu vậy.

Điện thoại đổ chuông, thế là tôi chạy xuống bếp nghe.

“Cháu có tin mới đây,” Minny nói trên điện thoại.

“Cháu nghe được gì?”

“Bà Renfro nói bà ta biết thừa chính mụ Hilly là người đã ăn cái bánh đấy,” Minny cười rinh rích nhưng tim tôi lại đập nhanh gấp mười lần.

“Trời thần ơi, năm phút nữa là cô Hilly sẽ có mặt ở đây. Cô ta nên mau mau dập tắt đám lửa đó đi.” Điên thật, bây giờ thì đâm ra chúng tôi lại cùng phe với cô ta. Tôi thấy đầu óc mình cứ rối tung hết cả lên.

“Cháu gọi cho bà Enerstine què...” Minny đột nhiên im bặt. Chắc cô Celia vừa bước vào.

“Không sao, cô ta đi rồi. Cháu gọi cho bà Enerstine què, bà ấy bảo mụ Hilly gào thét suốt ngày trên điện thoại. Còn bà Clara nữa, bà ta biết về Fanny Amos rồi.”

“Bà ta có đuổi việc Fanny không?” Cô Clara đã giúp đỡ con trai Fanny Amos vào đại học, một trong những câu chuyện vui.

“Không không. Chỉ ngồi há hốc miệng với cuốn sách trong tay thôi.”

“Tạ ơn Chúa. Nếu nghe được tin gì nữa thì gọi ngay cho ta nhé,” tôi nói. “Nếu cô Leefolt nghe máy thì cũng đừng cuống. Cứ bảo cô ấy là cháu báo tin em gái ta đang ốm.” Và này, thưa Chúa, xin Người đừng phạt con vì nói dối chuyện đó nhé. Con chẳng muốn em gái con ốm chút nào cả.

Chúng tôi vừa gác máy được vài phút chuông cửa đã reo inh ỏi, và tôi vờ như không nghe thấy gì. Tôi sợ phải đối mặt với cô Hilly sau những gì cô ta đã nói với cô Skeeter. Tôi không thể tin nổi mình lại nhắc đến vết nứt chữ L kia trong sách. Tôi ra nhà vệ sinh của mình và cứ ngồi nguyên trong đó, lẩn mẩn nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu tôi phải rời xa Mae Mobley. Lạy Chúa, tồi thầm cầu nguyện, nếu con phải rời xa nó, xin Người hãy ban cho nó ai đó tử tế. Đừng bỏ mặc nó một mình với cô Taylor luôn mồm rủa làn da đen của nó thật bẩn thỉu và mụ bà ngoại cứ cấu chí nó không thương tay chỉ để moi lấy vài câu cảm ơn cùng cô Leefolt lạnh lùng thờ ơ. Mai tôi sẽ làm, tôi tự nhủ. Tôi sẽ tạm biệt Mae Mobley, phòng khi.

KHI TRỞ VÀO NHÀ, tôi nghe thấy tiếng các cô đang quây quanh bàn chơi bài nói chuyện. Giọng cô Hilly rất to. Tôi ghé sát tai vào c bếp, chứ không dám ra ngoài đó.

“… không phải Jackson đâu. Cuốn sách đó chỉ là đồ rác rưởi, có thế thôi. Tôi cá tất cả đều do một con mọi đen bịa ra...”

Bỗng dưng có tiếng ghế cọt kẹt, tôi biết ngay cô Leefolt sắp vào đây lùng tôi. Tôi không thể trốn tránh thêm được nữa.

Tôi mở cửa ra, tay bưng khay trà đá. Tôi đi vòng quanh bàn, mắt dán chặt xuống giày.

“Tôi nghe nói nhân vật Betty có thể là Charlene đấy,” cô Jeanie nói, hai mắt trố ra thô lố. Bên cạnh cô, mắt cô Lou Anne lộ vẻ lãnh đạm như thể dù có thế nào đi nữa thì cô cũng chẳng lấy làm bận tâm. Tôi ước sao mình có thể vỗ lên vai cô. Tôi ước sao mình có thể nói để cô biết chỉ riêng việc cô là bà chủ của Louvenia cũng khiến tôi lấy làm sung sướng lắm, nhưng tôi biết mình không thể. Và tôi cũng không hiểu ý tứ của cô Leefolt ra sao nữa, vì cô chỉ cau mày như mọi khi. Nhưng mặt cô Hilly thì tím ngắt như một quả mận.

“Còn bà giúp việc ở Chương Bốn ấy?” Cô Jeanie lại tiếp lời. “Tôi nghe chị Sissy Tucker bảo...”

“Đã bảo không phải Jackson cơ mà!” Cô Hilly gần như gào lên khiến tôi đang dở tay rót trà cũng phải giật bắn mình. Một giọt nước vô tình rót xuống chiếc đĩa không của cô Hilly. Cô ngẩng lên nhìn tôi và cứ như có nam châm, mắt tôi cũng bị hút chặt vào mắt cô.

Bằng giọng trầm và lạnh lẽo, cô nói, “Aibileen, vú làm rớt nước rồi đấy.”

“Tôi xin lỗi, tôi...”

“Lau đi.”

Tôi lẩy bẩy lấy chiếc khăn đang lót quai khay nước chùi sạch cái đĩa.

Cô nhìn xoáy vào mặt tôi, đến độ tôi phải cụp mắt xuống. Tôi có thể cảm thấy cái bí mật nóng bỏng chen giữa hai chúng tôi. “Lấy cho tôi cái đĩa khác. Cái nào chưa dính nùi giẻ bẩn thỉu của vú ấy.”

Tôi lấy cho cô cái đĩa khác. Cô săm soi nó rồi khịt mũi rất to, đoạn quay sang cô Leefolt và nói, “Cái lũ này đến chuyện làm thế nào cho sạch sẽ cũng không thể dạy nổi.”

TÔI PHẢI Ở LẠI đến tối muộn hôm ấy vì cô Leefolt. Mae Mobley ngủ rồi, tôi bèn lấy cuốn sổ cầu nguyện ra và lên damừng cho cô Skeeter lắm. Sáng nay cô ấy đã gọi cho tôi và bảo là sẽ nhận việc. Một tuần nữa thôi, cô sẽ lên New York! Nhưng trời đất, cứ hễ nghe thấy tiếng động nào là tôi lại giật bắn mình, chỉ sợ cô Leefolt bất thình lình bước vào và nói rằng cô đã biết hết sự thật. Đến lúc về tới nhà, bụng dạ tôi vẫn còn nhộn nhạo, có lên giường chắc cũng chẳng ngủ nổi. Tôi mò mẫm đi xuyên qua màn đêm tối đen như mực, lần đến cửa hậu nhà Minny. Cô đang ngồi bên bàn đọc báo. Đây là khoảng thời gian duy nhất trong ngày mà Minny không phải chạy đôn chạy đáo khắp nơi để lau chùi một thứ gì đó, hay cho ai đó ăn hoặc uốn nắn ai đó làm ăn cho tử tế. Căn nhà im ắng đến mức tôi đồ rằng đã có chuyện chẳng lành. “Mọi người đâu cả rồi?”

Cô nhún vai, “Đi ngủ hoặc đi làm hết rồi.”

Tôi kéo một chiếc ghế ra và ngồi xuống. “Ta chỉ muốn biết điều gì sẽ xảy ra,” tôi nói. “Ta biết lẽ ra phải mừng vì mọi thứ chưa nổ tung ngay trước mặt mình, nhưng cứ chờ đợi mãi thế này thì ta đến phát điên mất.”

“Nó sẽ xảy ra. Sớm thôi mà,” Minny nói, cứ như chúng tôi đang bàn về loại cà phê mình uống vậy.

Cô nhìn tôi, tay đặt lên chiếc bụng đã bắt đầu nhô cao chỉ sau có hai tuần vừa rồi. “Cô biết bà Chotard, cái bà mà Willie Mae giúp việc không? Hôm qua bà ta hỏi Willie Mae là bà ta có đối với cô ấy tệ như mụ chủ độc ác trong sách không.” Minny khụt khịt. “Willie Mae đáp bà ta vẫn còn nhiều điểm cần khắc phục nhưng được cái không đến nỗi tệ bạc lắm.”

“Bà ta hỏi chị ấy thế thật ư?”

“Sau đó Willie Mae ngồi kể hết tất cả mấy bà cô da trắng đã đối xử với cô ấy như thế nào, cả người tốt lẫn người xấu, thế mà cái bà kia chịu nghe đấy. Willie Mae bảo cô ấy đã vào cửa cái nhà đấy những ba mươi mốt năm trời, nhưng đây là lần đầu tiên họ ngồi cùng một bàn.”

Ngoài Louvenia, đây là tin tốt đầu tiên chúng tôi được nghe. Tôi cố gắng tận hưởng nó rồi lập tức quay về với hiện tại. “Cô Hilly thì sao? Còn những chuyện cô Skeeter nói nữa? Minny, chả lẽ cháu không thấy lo lắng tí gì ư?”

Minny đặt tờ báo xuống. “Cô nghe này, Aibileen, cháu không nói dối cô làm gì. Cháu sợ Leroy sẽ giết cháu nếu hắn biết chuyện, cháu sợ mụ Hilly sẽ đốt trụi nhà cháu. Nhưng,” cô lắc đầu, “cháu cũng không cắt nghĩa được. Tự nhiên cháu có linh cảm. Rằng có lẽ mọi sự đang diễn ra theo đúng cách nó phải thế.”

“Thật ư?”

Minny gần như bật cười. “Trời đất, giọng lưỡi của cháu bắt đầu giống hệt cô rồi nhỉ? Chắc cháu già rồi.”

Tôi giơ chân đá nhẹ cô. Nhưng tôi đang cố hiểu Minny dựa vào đâu mà suy nghĩ thế. Chúng tôi đã làm được một việc rất dũng cảm, rất tốt. Và có lẽ Minny chẳng muốn bị cướp mất bất cứ thứ gì dính dáng đến dũng cảm và tốt. Kể cả xấu. Nhưng tôi không tài nào lý giải nổi thái độ bình thản của cô lúc này.

Minny lại nhìn xuống tờ báo nhưng chỉ một lát sau, tôi đã nhận ra ngay cô không hề đọc. Cô chỉ đăm đăm nhìn những dòng chữ, còn đầu lại nghĩ chuyện khác. Chớt cửa xe ai đó bên nhà hàng xóm bất thình lình sập lại khiến người cô giật bắn lên. Và tôi bỗng thấy cô đang lo sợ lắm, song vẫn cố giấu. Nhưng tại sao? Tôi tự hỏi. Sao cô lại giấu tôi chuyện đó?

Ngẫm nghĩ một hồi, tôi chợt hiểu chuyện gì đang xảy ra, hiểu điều Minny đã làm. Tôi không biết tại sao đến giờ mình mới ngộ ra. Minny ép chúng tôi đưa chuyện chiếc bánh vào sách để bảo vệ chúng tôi. Không phải để bảo vệ bản thân cô, mà là bảo vệ tôi và những người khác. Cô biết nó sẽ chỉ khiến mối thù giữa cô và Hilly thêm sâu nặng. Nhưng cô vẫn làm, vì tất cả những người khác. Cô không muốn ai thấy cô đang sợ hãi đến mức nào.

Tôi vươn tay ra và siết chặt tay cô. “Cháu là một người cao thượng, Minny ạ.”

Cô trợn mắt, lè lưỡi, cứ như tôi vừa đưa cho cô một đĩa bánh quy cho chó ấy. “Cháu biết ngay cô lẩm cẩm rồi mà.” Cả hai cô cháu cùng cười. Bấy giờ đã muộn và chúng tôi cùng mệt rã rời, nhưng cô vẫn đứng dậy rót thêm một cốc cà phê khác và pha cho tôi một tách trà, tôi nhấm nháp thật chậm rãi. Chúng tôi hàn huyên đến tận khuya.

HÔM SAU, THỨ BẢY, tất cả chúng tôi đều ở nhà, cả gia đình cô Leefolt cộng với tôi. Ngay cả ông Leefolt hôm nay cũng ở nhà. Cuốn sách của tôi không còn nằm trên chiếc táp đầu giường nữa. Tôi không biết cô đã cất vào đâu. Sau đó tôi trông thấy chiếc túi xách của cô Leefolt trên ghế sofa, cô đã bỏ nó vào trong túi. Nghĩa là cô vừa cầm nó theo đi đâu đó, tôi nhòm vào thì thấy tấm thẻ đánh dấu đã không còn ở đó.

Tôi muốn nhìn thẳng vào mắt cô để xem cô biết những gì, nhưng cô Leefolt cứ lúi húi trong bếp suốt để làm bánh trái gì đó. Cô nhất định không cho tôi vào giúp. Cô bảo cái bánh này không giống những loại bánh tôi vẫnàm, đó là công thức gì cầu kỳ lắm mà cô lấy tận trên tạp chí Gourmet về. Ngày mai cô sẽ thết tiệc buổi trưa cho cả nhà thờ và phòng ăn đã la liệt những bát đĩa dao dĩa để phục vụ cho dịp này. Cô đã mượn những ba chiếc lò hâm bên nhà cô Lou Anne cùng tám bộ dao nĩa của cô Hilly vì sẽ có tới mười bốn người khách và Chúa cấm tiệt các con chiên đi nhà thờ không được ăn bằng mấy cái nĩa kim loại dùng trong bữa ăn ngày thường.

Cu Con ở trong phòng Mae Mobley chơi với chị. Còn ông Leefolt cứ lượn đi lượn lại khắp nhà như cái đèn cù. Thỉnh thoảng ông lại dừng trước cửa phòng Bé Con, rồi lại đi liếp. Có lẽ ông ấy nghĩ mình nên vào chơi với con, hôm nay thứ Bảy mà, nhưng tôi đồ là ông không biết chơi làm sao.

Thành ra tôi chẳng còn mấy chỗ để đi. Khi ấy mới là hai giờ chiều, nhưng tôi đã lau chùi sạch sẽ khắp mọi ngóc ngách xó xỉnh của căn nhà, cọ xong nhà vệ sinh, giặt hết quần áo. Tôi còn ủi phẳng lù tất tật những cái gì na ná vết nhăn. Tôi đã bị cấm cửa không cho vào bếp, mà tôi lại không thích ông Leefolt nghĩ rằng tôi chỉ biết mỗi trò ngồi quanh ngồi quẩn rồi chơi nhởn với bọn trẻ. Cuối cùng tôi cũng lại thơ thẩn đi quanh nhà.

Khi ông Leefolt chuyển sang tuần tiễu phòng ăn, tôi hé mắt nhòm vào và thấy Mae Mobley cầm tờ giấy trong tay, nó đang dạy thằng Ross cái gì đó. Con bé thích chơi trò cô giáo học sinh với thằng em nó lắm.

Tôi vào phòng khách, bắt tay vào phủi bụi giá sách lần thứ nhì, với ngần ấy người lảng vảng xung quanh thế này, chắc hôm nay tôi không thể nói lời tạm biệt phòng hờ với con bé được mất.

“Bây giờ mình chơi trò này nhé,” tôi bỗng nghe Mae Mobley bảo em nó. “Em ngồi ở quầy này nhé vì em đang ở tiệm Woolworf, với cả em là người da màu. Chị có làm gì thì em vẫn phải ngồi yên ở đấy, không thì em sẽ bị bắt vào tù ngay.”

Tôi lao vào phòng nó nhanh hết mức có thể, nhưng ông Leefolt đã đứng lù lù ở đó nhìn cánh cửa. Tôi đứng lại sau ông.

Ông Leefolt khoanh cánh tay lại trên ngực áo sơ mi trắng. Đầu ông nghển sang một bên. Tim tôi đập thình thình với tốc độ cả ngàn dặm một giờ. Tôi chưa từng nghe thấy Mae Mobley nhắc đến câu chuyện bí mật của hai bác cháu với một ai khác ngoài tôi. Và chỉ khi nào mẹ nó không có ở nhà và xung quanh chẳng còn ai, ngoại trừ căn nhà, nghe thấy. Nhưng con bé quá mải mê với trò chơi của mình nên không biết bố nó đang lắng tai nghe.

“Được rồi,” Mae Mobley nói, đoạn con bé đỡ thân hình mũm mĩm của thằng em lên ghế. “Ross, em phải ngồi yên ở quầy ăn tiệm Woolworf nghe chưa. đứng dậy đấy.”

Tôi muốn lên tiếng, nhưng không thể đẩy nổi từ gì ra khỏi miệng. Mae Mobley rón rén vòng ra sau lưng Ross, rồi dốc cả hộp bút sáp màu xuống đầu thằng bé, chúng đua nhau rơi loảng xoảng. Cu Con nhăn nhó, nhưng con bé nghiêm mặt nhìn nó, bảo, “Em không được động đậy. Dũng cảm lên. Mà cấm đánh trả đấy nhá.” Rồi con bé lè lưỡi giễu thằng em và bắt đầu cầm giày của búp bê ném vào nó còn Cu Con nhìn chị như muốn hỏi Sao em lại phải chịu đựng ba cái trò ngớ ngẩn này? Rồi nó lồm cồm bò xuống khỏi ghế, miệng rền rĩ khổ sở.

“Em thua rồi!” Con bé kêu ầm lên. “Nào, giờ ta sẽ chơi trò Cuối Xe Buýt và tên em là Rosa Parks.”

“Ai dạy con mấy thứ này, Mae Mobley?” Ông Leefolt bỗng cất tiếng hỏi và Bé Con quay ngoắt lại, ánh mắt thảng thốt như vừa nhìn thấy một bóng ma.

Tôi cảm thấy xương cốt mủn hết ra. Từng tế bào trên cơ thể đều thúc giục tôi vào trong đó. Để cứu con bé khỏi rắc rối, nhưng tôi còn không thở đủ để cất nổi bước chân. Bé Con nhìn thẳng vào tôi, lúc ấy đang đứng sau lưng bố nó. Ông Leefolt ngoái lại thấy tôi, bèn quay về nhìn con.

Mac Mobley ngước mắt lên nhìn bố nó trân trân. “Con không biết.” Rồi mắt nó nhìn lảng xuống bộ đồ chơi đang nằm lăn lóc trên sàn, như thể nó đang tính chơi món này. Tôi đã từng thấy nó làm thế và biết tỏng nó đang nghĩ gì. Nó cho rằng nếu nó chú tâm vào một thứ khác và tảng lờ bố nó, có lẽ ông ta sẽ bỏ đi.

“Mae Mobley, bố đang hỏi con kia mà. Con học mấy thứ đó ở đâu?” Ông cúi xuống sát mặt con bé. Tôi không nhìn thấy mặt ông, nhưng tôi biết ông đang tươi cười vì Mae Mobley nom ngượng nghịu lắm, đứa bé gái nào mà chẳng yêu bố. Và rồi nó đáp thật to, thật rõ:

“Cô Taylor ạ.”

Ông Leefolt đứng phắt dậy. Ông đi thẳng xuống bếp còn tôi tất tả bám theo. Ông nắm vai cô Leefolt mà xoay lại và nói: “Ngày mai. Em phải đến trường và chuyển ngay Mae Mobley sang lớp khác cho anh. Không có cô Taylor Tay Liếc gì nữa.”

“Sao cơ? Làm sao em đổi cô giáo của nó được...”

Tôi nín thở, thầm cầu nguyện, Có, cô làm được. Xin cô.

“Làm ngay đi.” Ví như mọi người đàn ông khác, ông Raleigh Leefolt bước thẳng ra cửa, đến nơi ông không phải mất công đôi co với bất cứ ai về bất cứ

CẢ NGÀY CHỦ NHẬT, tôi không thể ngừng cảm ơn Chúa vì đã cứu Bé Con khỏi bàn tay của cô Taylor. Hàng tràng Tạ ơn Chúa, tạ ơn Chúa, tạ ơn Chúa ngân lên trong đầu tôi như một khúc ca. Sáng thứ Hai, cô Leefolt sắm sửa quần áo chỉnh tề để đến trường của Mae Mobley, và tôi không khỏi mỉm cười vì thừa biết cô đi vì việc gì.

Trong khi cô Leefolt đi, tôi bắt tay vào chùi rửa bộ dao nĩa của cô Hilly. Sau bữa tiệc trưa hôm qua, cô Leefolt đã nhặt lại hết và sắp cả ra bàn bếp. Tôi rửa sạch từng cái và dành cả giờ đồng hồ tiếp theo để đánh bóng, bụng cứ thắc mắc không hiểu bà Ernestine què tay làm việc này kiểu gì. Đánh bóng đồ bạc kiểu Grand Baroque, với ngần ấy đường cuộn và xoắn, là công việc phải huy động cả hai tay.

Khi cô Leefolt về đến nhà, cô bỏ chiếc xắc tay lên bàn và chắt lưỡi. “Ấy, tôi đã định mang trả bộ dao nĩa từ sáng nay nhưng lại phải đến trường của Mae Mobley và tôi mới biết con bé bị cảm vì nó đã hắt hơi suốt cả sáng, mà giờ đã gần mười giờ rồi...”

“Mae Mobley bị ốm ư?”

“Chắc thế.” Cô Leefolt đảo mắt. “Ôi, tôi trễ cái hẹn làm tóc mẩt. Khi nào vú lau chùi xong thì mang luôn sang nhà Hilly giúp tôi. Tôi sẽ về sau giờ ăn trưa.”

Làm xong, tôi gói ghém tất cả bộ dao nĩa của cô Hilly trong một tấm vải xanh rồi đi đánh thức Cu Con. Thằng bé vừa tỉnh dậy sau giấc ngủ trưa, nó hấp háy mắt nhìn tôi và cười toe toét.

“Nào, Cu Con, bác thay tã mới cho con nhé.” Tôi đặt nó lên bàn thay tã và cởi chiếc tã ướt ra, lạy Chúa, thế nào mà chả có ba mảnh gỗ ghép và một cái trâm cài tóc của cô Leefolt trong đó. Nhưng ơn trời, chỉ có tã ướt, chứ tuyệt không thấy mấy món kia.

“Trời đất,” tôi cười, “con cứ như kho bạc Fort Knox vậy.” Thằng bé toét miệng và cười khanh khách. Nó chỉ tay vào cũi và tôi ra xem thì thấy cái chăn đắp lổn nhà lổn nhổn và y như rằng, ở đó có hẳn một cái lô cuốn tóc, một cái thìa đong, và một chiếc khăn ăn. Trời thần ơi, tôi phải xử lý mấy thứ này mới được. Nhưng không phải bây giờ. Tôi phải qua nhà cô Hilly trước đã.

Tôi đặt Cu Con vào xe nôi và đẩy nó dọc con phố dẫn đến nhà cô Hilly. Ngoài trời nóng hầm hập, nắng đổ chói chang và yên tĩnh lắm. Hai bác cháu vừa đi lên đường xe vào nhà thì Ernestine đã mở sẵn cửa. Một cái u nhỏ xương xẩu màu nâu nhô lên bên ống tay áo trái của bà ta. Tôi không quen bà ta lắm, chỉ biết bà ta cũng là người hay chuyện. Bà ta đi nhà thờ Hội Giám Lý.

“Chào chị, Aibileen,” bà ta nói.

“Chào chị, Ernestine, chắc chị thấy tôi đến từ ngoài kia phải không.”

Bà ta gật đầu và nhìn xuống Cu Con. Thằng bé đang chăm chú nhìn cái tay cụt, hình như nó sợ thứ kia sẽ bắt mình.

“Tôi phải ra đây trước khi cô ta kịp ra,” Ernestine thì thào và rồi bà ta nói, “chắc chị cũng nghe nói rồi nhỉ.”

“Nghe gì cơ?”

Ernestine quay ra ngó sau lung, rồi hơi cúi xuống. “Bà chủ của Flora Lou, bà Hester ấy? Bà ta vừa nổi trận lôi đình với Flora Lou sáng nay.”

“Bà ta đuổi cô ấy à?” Flora Lou đã tiết lộ vài chuyện chẳng hay ho gì. Cô ấy bất bình lắm. Cái bà Hester mà ai cũng tưởng là dịu dàng tốt bụng lắm ấy, bà ta đưa Flora một chai “nước rửa tay” đặc biệt để cô ấy dùng mỗi sáng. Hóa ra đó là một loại thuốc tẩy cực mạnh. Flora từng cho tôi xem vết sẹo bỏng.

Ernestine lắc đầu. “Bà Hester lôi cuốn sách ra và gào lên, ‘Đấy là tôi phải không? Cô viết về tôi đúng không?’ và Flora Lou đáp, ‘Không thưa bà, tôi thì làm sao viết nổi sách. Tôi còn chưa học hết lớp năm cơ mà’ nhưng bà Hester lồng lộn hết cả lên, bà ta bảo, ‘Tôi làm sao biết Clorox làm bỏng da, tôi làm sao biết lương tối thiểu là một đô hai nhăm xu, nếu Hilly không bảo tất cả mọi người đó không phải là Jackson thì tôi đã đuổi cô thẳng cánh rồi,’ thế là Flora Lou nói, ‘Ý bà là tôi không bị đuổi phải không?’ và bà Hester rú lên, ‘Đuổi ư? Tôi không thể đuổi cô được, nếu thế mọi người sẽ biết tôi là Chương Mười mất. Cô sẽ phải làm việc ở đây đến hêt phần đời còn lại thì thôi.’ Nói xong bà Hester gục mặt xuống bàn và sai Flora Lou đi rửa nốt bát đĩa.”

“Trời thần ơi,” tôi nói, cảm thấy đầu ong ong. “Tôi hy vọng... mọi chuyện đều được tốt đẹp như thế.”

Trong nhà vọng ra tiếng cô Hilly réo tên Ernestine. “Tôi chẳng dám chắc đâu,” Ernestine thì thào. Tôi đưa Ernestine bọc vải nặng trĩu những dao nĩa. Bà ta vươn cánh tay lành ra đỡ, và tôi đoán do thói quen, cái tay cụt cũng vươn ra theo.

ĐÊM HÔM ẤY, một cơn bão khủng khiếp tn về. Sấm chớp nổ đùng đùng còn tôi ngồi bên bàn bếp, mồ hôi túa ra ướt đầm đìa. Người tôi run bần bật, tôi cố viết ra những lời cầu nguyện của mình. Flora Lou đã gặp may, nhưng chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo? Còn quá nhiều điều chưa biết, quá nhiều điều phải lo lắng và...

Thình thình thình. Bỗng ai đó đập lên cửa nhà tôi.

Ai thế? Tôi ngồi dựng đứng lên. Chiếc đồng hồ đặt trên lò nướng chỉ tám giờ ba mươi lăm phút. Ngoài trời, mưa quất ràn rạt từng đợt. Bất kỳ ai thân quen với tôi ắt sẽ dùng cửa hậu.

Tôi nhón chân đi ra trước nhà. Họ lại đấm cửa lần nữa, còn tôi suýt nữa nhảy bắn ra khỏi giày.

“Ai... ai đấy?” Tôi hỏi và kiểm tra, cửa vẫn khóa.

“Tôi đây.”

Trời thần ơi. Tôi thở hắt ra và mở cửa. Cô Skeeter đứng đó, ướt như chuột lột và run lẩy bẩy. Chiếc túi đỏ của cô gồ lên dưới áo mưa.

“Lạy Chúa lòng lành...”

“Tôi không vòng ra cửa sau được. Bùn ngoài sân dày quá, tôi chịu không lội qua nổi.”

Cô đi đất, đôi giày bê bết bùn đất cầm trên tay. Tôi vội đóng cánh cửa lại sau lưng cô. “Có ai nhìn thấy cô không?”

“Không thể nhìn ra nổi cái gì ngoài kia. Lẽ ra tôi định gọi điện trước cơ, nhưng bão lớn quá nên đường dây hỏng mất rồi.”

Tôi đã biết ắt phải có chuyện gì đó xảy ra, nhưng được thấy mặt cô trước khi cô lên New York, tôi mừng quá. Chúng tôi chưa gập nhau phải đến sáu tháng nay rồi. Tôi ôm siết lấy cô thật chặt.

“Trời thần ơi, cho tôi xem mái tóc cô nào.” Cô Skeeter bèn kéo chiếc mũ xuống, rũ tung mái tóc dài quá bờ vai.

“Đẹp lắm,” tôi nói và thật lòng nghĩ vậy.

Cô cười vẻ e thẹn và thả chiếc túi xuống sàn. “Mẹ tôi ghét lắm.”

Tôi bật cười rồi hít vào một hơi thật dài, cố gắng lên dây cót cho bản thân để đón nhận bất cứ tin xấu nào cô sắp phải nói với tôi.

“Aibileen, các cửa hiệu đang đặt thêm sách nữa đấy. Chiều nay bà Stein vừa gọi cho tôi.” Cô nắm chặt tay tôi. “Họ sẽ in nối bản. Thêm năm ngàn cuốn nữa.”

Tôi chỉ nhìn cô chòng chọc. “Tôi… tôi còn không biết họ có thể làm thế,” tôi nói và đưa tay lên bịt chặt miệng. Cuốn sách của chúng tôi đang có mặt trong năm ngàn ngôi nhà, trên giá sách, cạnh táp đầu giường, sau két nước bồn cần ư?

“Sẽ có thêm nhuận bút. Ít nhất là một trăm đô-la cho mỗi người. Và ai mà biết được? Có khi sẽ còn nhiều tiền nữa.

Tôi đặt tay lên tim mình. Tôi đã tiêu xu nào trong món tiền sáu mươi mốt đô-la nhận đợt trước đâu, thế mà cô lại bảo còn nữa ư?

“Còn một việc nữa.” Cô Skeeter nhìn xuống chiêc túi. “Hôm thứ Sáu tôi đã đến tòa báo và thôi không đứng mục cô Myrna nữa.” Cô hít một hơi thật dài. “Và tôi bảo ông Golden, tôi nghĩ cô Myrna tiếp theo nên là vú.”

“Tôi ư?”

“Tôi bảo ông ấy suốt bấy lâu nay chính vú là người cho tôi câu trả lời. Ông ấy nói sẽ suy nghĩ rồi hôm nay ông ấy gọi cho tôi và nói đồng ý, miễn là vú không tiết lộ với ai và phải viết bài trả lời giống hệt cô Myrna.”

Cô lôi từ trong túi ra một cuốn sổ bìa bọc vải xanh rồi đưa cho tôi. “Ông ấy nói sẽ trả công vú bằng tôi, mười đô-la một tuần.”

Tôi? Viết bài cho báo của người da trắng ư? Tôi ngồi xuống ghế sofa rồi mở cuổn sổ ra, và thấy tất cả những lá thư cùng các bài viết từ trước đến nay. Cô Skeeter bèn ngồi xuống cạnh tôi.

“Cảm ơn cô, cô Skeeter. Vì cái này, vì tất cả.”

Cô ấy mỉm cười và hít một hơi thật dài như muốn cố kìm lại những giọt nước mắt.

“Tôi không thể tin nổi mai cô đã trở thành người New York rồi,” tôi nói.

“Thật ra, tôi sẽ lên Chicago trước. Chỉ một đêm thôi. Tôi muốn đến thăm Constantine, thăm mộ bác ấy.”

Tôi gật đầu. “Tôi mừng cho cô.”

“Mẹ cho tôi xem tờ cáo phó rồi. Nghĩa trang ở ngay ngoại ô thành phố thôi. Xong xuôi tôi sẽ lên đường đến New York vào sáng hôm sau.

“Cô gửi lời chào chị Constantine hộ tôi nhé.”

Cô cười. “Tôi hồi hộp quá. Tôi chưa bao giờ đến Chicago với New York. Tôi còn chưa từng đặt chân lên máy bay lần nào.”