Người giúp việc - Chương 34

Chúng tôi ngồi đó trong giây lát, lắng nghe cơn bão gào rú ngoài kia. Tôi nghĩ tới lần đầu cô Skeeter đến nhà tôi, chúng tôi đã ngượng ngùng biết mấy. Giờ đây tôi có cảm giác như chúng tôi đã là ruột thịt.

“Vú có sợ không, Aibileen?” Cô hỏi. “Về những gì có thể xảy đến ấy?”

Tôi quay đi để cô không nhìn thấy đôi mắt mình. “Tôi không sao.”

“Nhiều khi, tôi không biết làm thế có đáng không nữa. Nếu vú có gặp chuyện gì... tôi làm sao sống nổi, khi biết lỗi là do tôi?” Cô áp chặt bàn tay lên mắt, như thể không muốn nhìn thấy những gì sẽ xảy ra.

Tôi vào phòng ngủ và mang ra hộp quà Linh mục Johnson đưa từ lần trước. Cô xé lớp giấy gói và đăm đăm nhìn cuốn sách, nhìn những cái tên ký chi chít trên đó. “Tôi định gửi lên New York cho cô, nhưng tôi nghĩ cô nên nhận luôn bây giờ thì hơn.”

“Tôi không... hiểu,” cô nói. “Cái này là dành cho tôi ư?”

“Phải đấy.” Rồi tôi chuyển lại cho cô nghe lời gửi gắm của Linh mục, rằng cô là một thành viên trong đại gia đình chúng tôi. “Cô phải nhớ rằng, mỗi chữ ký trong số này đều có nghĩa cuốn sách đáng làm lắm.” Cô đọc những lời cảm ơn, những câu nhắn nhủ mọi người viết, ngón tay cô lướt trên dòng mực. Nước dâng đầy mắt cô.

“Chắc Constantine tự hào về cô lắm đấy.”

Cô Skeeter mỉm cười và tôi bỗng nhận ra, cô trẻ quá. Sau ngần ấy câu chuyện chúng tôi đã viết, ngần ấy tiếng đồng hồ mệt mỏi rã rời và lo lắng sợ hãi chúng tôi đã trải qua, vậy mà tôi không hề nhìn thấy cô gái trẻ vẫn sống trong cô suốt thời gian vừa qua.

“Vú có chắc là không sao chứ? Nếu tôi bỏ vú đi, với tất cả những...”

“Lên New York đi, cô Skeeter. Đi tìm cuộc sống cho riêng mình đi.”

Cô mỉm cười, chớp nhanh để nén những giọt lệ dâng trào, và nói, “Cảm ơn vú.”

 

ĐÊM HÔM ĐÓ tôi nằm trên giường ngẫm nghĩ. Tôi mừng cho cô Skeeter quá. Cô ấy sắp bắt đầu một cuộc đời hoàn toàn mới. Nước mắt cứ ứa ra, chảy dài qua thái dương xuống tai tôi, khi nghĩ đến cảnh cô sải bước trên những đại lộ mênh mang tôi từng thấy trên tivi, mái tóc dài buông xoã sau lưng. Một phần trong tôi ước sao mình cũng có một khởi đầu mới. Mục bí quyết tẩy rửa, cái đó mới thật. Nhưng tôi còn trẻ trung gì nữa đâu. Đời tôi như thế kể cũng sắp tận rồi.

Càng cố ngủ, tôi càng biết rõ mình sẽ thức trắng cả đêm nay. Dường như tôi có thể cảm thấy những tiếng xôn xao râm ran khắp thị trấn, tiếng mọi người bàn tán về cuốn sách. Ai mà ngủ nổi với ngần ấy tiếng ong ong trong đầu? Tôi nghĩ đến Flora Lou, nếu ả Hilly không nói với mọi người rằng cuốn sách không phải về Jackson, bà Hester đã tống cổ cô ấy ngay tức khắc rồi. Ôi Minny, tôi thầm nghĩ. Cháu đã làm một việc thật tốt. Cháu lo lắng cho tất cả mọi người, trừ bản thân mình. Ước gì ta có thể bảo vệ cháu.

Có vẻ như cô Hilly đang ở trong thế ngàn cân treo sợi tóc mất rồi. Cứ mỗi ngày lại có thêm một người nói họ biết chính cô đã ăn cái bánh đó còn cô Hilly lại lồng lên điên cuồng hơn. Lần đầu tiên trong đời, tôi thực lòng thắc mắc không hiểu ai sẽ thắng trận chiến này. Trước đó, tôi luôn cho là cô Hilly sẽ thắng, nhưng giờ thì tôi không biết nữa. Rất có thể cô Hilly sẽ thua keo này.

Tôi chỉ chợp mắt được vài tiếng trước bình minh. Lạ một điều, khi trở dậy vào lúc sáu giờ, tôi chẳng cảm thấy mệt mỏi chút nào. Tôi mặc bộ đồng phục sạch tinh tươm tôi đã giặt trong bồn tắm tối qua. Vào bếp, tôi uống một hơi hết cốc nước mát lạnh lấy từ vòi. Tôi tắt đèn bếp đi ra cửa, bỗng nhiên chuông điện thoại đổ dồn. Trời thần ơi, còn sớm thế kia mà.

Tôi nhấc máy và nghe thấy tiếng rền rĩ.

“Minny? Cháu phải không? Có...”

“Tối qua chúng nó đuổi việc Leroy rồi! Lúc Leroy hỏi tại sao, lão chủ nói ông William Holbrook bảo lão làm thế. Gã Holbrook bảo lão ấy rằng chính mụ vợ mọi đen của Leroy là lý do hắn bị đuổi, thế là Leroy lao về nhà, hắn đã định tự tay giết cháu!” Minny thở hổn hển. “Hắn ném bọn trẻ ra sân rồi giam cháu trong nhà vệ sinh và bảo sẽ châm lửa đốt trụi cả nhà luôn!”

Trời thần ơi, nó xảy ra thật rồi. Tôi bịt chặt miệng, cảm thấy như mình đang rơi xuống cái lỗ đen su hút chúng tôi đã tự đào cho mình. Suốt những tuần qua, lúc nào nghe giọng Minny cũng tự tin là thế, vậy mà giờ đây...

“Con phù thủy khốn nạn,” Minny gầm lên. “Vì nó mà hắn sắp giết cháu!”

“Cháu đang ở đâu, Minny, bọn trẻ đâu rồi?”

“Trạm xăng, cháu phải chạy chân đất ra đây! Bọn trẻ lánh sang nhà hàng xóm rồi…” Cô thở hổn hển, và nấc, và gầm gào. “Octavia đang đến đón mấy mẹ con. Nó nói nó sẽ lái xe nhanh hết mức có thể.”

Nhà Octavia ở Canton, cách nhà cô Celia hai mươi phút xe đi về phía bắc. “Minny, cô sẽ chạy đến đấy ngay đây...”

“Đừng, cô đừng dập máy, cháu xin cô. Cô cứ giữ máy với cháu đến khi nào Octavia tới đây nhé.”

“Cháu có sao không? Cháu có bị thương không?”

“Cháu không thể chịu đựng thêm được nữa đâu, cô Aibileen ơi. Cháu không thể...” Cô òa lên khóc nức nở trên điện thoại.

Đây là lần đầu tiên tôi nghe Minny nói thế. Hít một hơi thật sâu, tôi biết mình phải làm gì. Từng câu từng chữ vang lên trong đầu tôi rất rõ ràng và ngay bây giờ là cơ hội duy nhất của tôi để cô thực sự nghe tôi, khi cô đã hoàn toàn trắng tay, đầu trần chân đất đứng bơ vơ giữa bốt điện thoại trạm xăng. “Minny, nghe ta nói đây. Cháu sẽ không bao giờ mất việc ở chỗ cô Celia. Chính miệng ông Johnny đã nói thế. Và vẫn còn thêm tiền nhuận bút từ cuốn sách nữa, tối qua cô Skeeter vừa mới biết tin. Minny, nghe ta nói đây, Cháu không phải chịu đòn của Leroy thêm một giấy một phút nào nữa.”

Minny nấc lên.

“Đến lúc rồi, Minny. Cháu có nghe ta nói không? Cháu tự dorồi.”

Dần dần, tiếng khóc của Minny dịu bớt. Cho đến khi cô im hẳn. Nếu không nghe thấy tiếng cô thở, chắc tôi phải tưởng cô đã gác máy. Cố lên, Minny, tôi thầm nghĩ. Hãy tận dụng cơ hội này mà thoát ra.

Cô hít vào một hơi thật sâu, run rẩy, rồi khẽ nói. “Cháu nghe cô, Aibileen.”

“Để ta ra trạm xăng chờ cùng cháu. Ta sẽ nhắn cô Leefolt ta đến muộn.”

“Thôi,” cô nói. “Em cháu... sắp đến rồi đây/ Tối nay sẽ ở nhà nó.”

“Minny, chỉ tối nay hay...”

Cô thở hắt ra một hơi dài vào điện thoại. “Không,” cô nói. “Cháu không thể. Cháu chịu đựng thế là đủ lắm rồi.” Và tôi bắt đầu thấy Minny Jackson trở lại với chính mình. Giọng cô vẫn còn run run, tôi biết cô đang sợ lắm, nhưng cô nói, “Chúa giúp hắn, nhưng Leroy không biết Minny Jackson sắp biến thành thứ gì đâu.”

Tim tôi giật thót. “Minny, đừng giết hắn. Nếu không cháu sẽ phải vào tù đúng như mụ Hilly muốn.”

Trời ơi, khoảng im lặng tiếp theo đó thật dài đặc và khủng khiếp.

“Cô Aibileen, cháu sẽ không giết hắn đâu. Cháu hứa đấy. Mẹ con cháu sẽ ở với Octavia cho đến khi nào tìm được chỗ ở mới.”

Tôi thở phào.

“Em cháu đến rồi,” cô nói. “Tối nay cháu sẽ gọi cho cô.”

KHI TÔI ĐẾN NHÀ CÔ LEEFOLT, cả căn nhà vắng lặng lạ thường. Chắc Cu Con vẫn đang ngủ. Mae Mobley đã đi học. Tôi bỏ túi trong phòng giặt là. Cánh cửa xoay mở ra phòng ăn đã đóng kín và gian bếp còn lại là một ô vuông mát rượi.

Tôi đặt ấm cà phê và cầu nguyện cho Minny. Cô ấy có thể ở nhờ nhà Octavia một thời gian. Octavia có một trang trại khá rộng rãi, tôi biết thế vì đã nghe Minny kể. Minny đi làm sẽ gần hơn, nhưng chỗ đấy lại hơi xa trường của bọn trẻ. Nhưng quan trọng là Minny tránh xa được Leroy. Tôi chưa từng nghe thấy cô nói sẽ bỏ Leroy, dù chỉ một lần, và Minny chẳng bao giờ nói hai lời. Nếu đã định làm gì, cô sẽ làm ngay.

Tôi pha một bình sữa cho Cu Con và hít một hơi thật sâu. Tôi có cảm giác như đã hết ngày, mặc dù lúc ấy mới là tám giờ sáng. Nhưng tôi vẫn không mệt mỏi chút nào, không hiểu tại sao.

Tôi đẩy cửa ra. Và cô Leefolt với cô Hilly ngồi đó, ở cùng một bên bàn ăn, cả hai cùng nhìn tôi trân trân.

Trong một giây, tôi đứng sững lại, tay siết chặt bình sữa. Cô Leefolt vẫn cuốn lô đầy đầu và mặc chiếc áo choàng tắm thêu màu xanh lơ. Nhưng cô Hilly thì ăn mặc chỉnh tề trong bộ âu phục kẻ carô xanh, vết bầm đỏ au kinh khủng vẫn còn nguyên trên khoé môi cô

“Chào các cô,” tôi nói và dợm bước vào nhà trong.

“Ross vẫn còn đang ngủ,” cô Hilly nói. “Không cần phải vào đấy làm gì.”

Tôi dừng lại tại chỗ và nhìn sang cô Leefolt, nhưng cô đang cắm mắt nhìn xuống vết nứt hình chữ L kỳ khôi trên bàn ăn nhà mình.

“Aibileen,” cô Hilly cất lời và liếm môi. “Lúc vú mang trả mấy bộ đồ bạc của tôi hôm qua, trong bọc vải thiếu ba món. Một cái nĩa bạc và hai cái thìa bạc.”

Tôi hóp lấy một hơi không khí. “Để... để tôi vào bếp tìm xem, có khi tôi bỏ sót mấy thứ cũng nên.” Tôi nhìn cô Leerolt, xem có phải cô cũng muốn tôi làm thế không, nhưng cô vẫn dán mắt lên vết nứt. Tôi bỗng sởn gai ốc.

“Vú thừa biết mấy cái thìa dĩa đấy không hề có trong bếp,” cô Hilly nói.

“Cô Leefolt, cô đã kiểm tra giường Ross chưa? Thằng bé vẫn hay nhón trộm đồ và giấu trong...”

Cô Hilly ho hắng rất to. “Cậu nghe bà ta nói gì chưa, Elizabeth? Bà ta lại còn định đổ tội cho một đứa con nít nữa chứ.”

Đầu óc tôi quay cuồng. Tôi cố nhớ xem mình đã đếm lại số dao nĩa trước khi gói chúng vào bọc vải chưa. Tôi nghĩ mình đã làm rồi. Lúc nào tôi cũng nhớ làm mà.. Trời ơi, xin hãy nói cho tôi biết, không phải cô ta đang nói điều tôi nghĩ đấy chứ...

“Cô Leefolt, cô đã kiểm tra bếp chưa? Hoặc trong tủ đựng đồ bạc ấy? Cô Leefolt?”

Nhưng cô Leefolt vẫn không chịu nhìn tôi, khiến tôi chẳng biết phải làm thế nào nữa. Tôi vẫn chưa biết chuyện này tệ đến mức nào. Có lẽ nó chẳng liên quan gì đến dao nĩa cả, có khi vấn đề thực sự lại chính là cô Leefolt và chương Hai cũng nên...

“Aibileen,” cô Hilly nói, “vú có thể trả lại tôi mấy chiếc thìa dĩa đó trong hôm nay, nếu không Elizabeth sẽ đi báo cảnh sát.”

Cô Leefolt nhìn cô Hilly và hớp một hơi, hình như chính cô cũng ngạc nhiên. Và tôi bỗng tự hỏi vụ này là “sáng kiến” của ai, cả hai người bọn họ hay chỉ mình cô Hilly thôi?

“Cô Leefolt, tôi không hề ăn cắp thứ gì cả,” tôi nói, và chỉ riêng mấy chữ đó cũng đủ khiến tôi muốn co giò mà chạy.

Cô Leefolt khẽ nói, “Vú ấy nói không lấy mà, Hilly.”

Cô Hilly còn không thèm vờ như mình cũng nghe thấy. Cô nhướng chân mày lên nhìn tôi và nói, “Vậy thì tôi có nhiệm vụ phải báo với vú, Aibileen, rằng vú đã bị đuổi việc.” Cô Hilly khịt mũi. “Tôi sẽ báo cảnh sát. Họ biết tôi quá rõ rồi.”

“Mẹẹ ơii... mẹẹẹẹ ơiiii,” Cu Con đang ở trong cũi bỗng gào toáng lên. Cô Leefolt ngoái lại nhìn sau lưng, rồi lại nhìn sang cô Hilly, hình như cô không biết mình phải làm thế nào. Tôi đồ rằng ngay giây phút này đây, cô đang tưởng tượng ra đời mình sẽ ra sao nếu không còn ai hầu hạ dạ vâng nữa.

“Aaai-beee,” Cu Con lại gọi, thằng bé bắt đầu khóc mếu.

“Aai-bee,” lại một tiếng trẻ con khác vang lên, tôi bỗng nhận ra Mae Mobley đang ở nhà. Chắc hôm nay nó không đến trường. Tôi ép chặt tay lên lồng ngực. Chúa ơi, xin Người đừng để con bé thấy cảnh này. Xin Người đừng để nó nghe thấy những gì cô Hilly nói về con. Phía cuối hành lang, cánh cửa bật mở và Mae Mobley bước ra. Con bé chớp mắt liên tục và ho sù sụ.

“Bác Aibee ơi, ngọng con đau quá.”

“Bác... bác vào với con ngay đây.”

Mae Mobley lại ho rũ rượi, nghe phát sợ, hệt như tiếng chó sủa, thế là tôi dợm bước ra hành lang, nhưng cô Hilly đã lên tiếng, “Aibileen, vú cứ đứng đấy cho tôi, Elizabeth tự lo cho con cô ấy được.”

Cô Leefolt nhìn cô Hilly như muốn nói, Tớ phải lo cả ư?Nhưng rồi cô đứng dậy và uể oải lê bước xuống cuối hành lang. Cô dắt Mae Mobley vào phòng Cu Con rồi đóng cửa lại. Bấy giờ chỉ còn lại hai người chúng tôi, tôi và cô Hilly.

Cô Hilly ngả người lên lưng ghế, nói, “Tôi sẽ không bao giờ dung tha lũ dối trá.”

Đầu tôi ong ong. Tôi chỉ muốn ngồi thụp xuống. “Cô Hilly, thật sự là tôi không ăn cắp cái thìa cái nĩa nào hết.”

“Tôi không nói đến thìa dĩa,” cô ta nói, đoạn nghiêng người về phía trước. Cô ta rít lên những tiếng rất nhỏ để cô Leefolt khỏi nghe thấy. “Tôi nói tới những thứ vú viết về Elizabeth kia. Cô ấy không hề biết Chương Hai viết về mình còn tôi là một người bạn quá tử tế để nói cho cô ấy biết. Và có lẽ tôi không thể tống vú vào tù vì vú đã viết về Elizabeth, nhưng tôi dư sức tống vú vào tù với tội trộm cắp.”

Tôi sẽ không vào tù vào ngục nào hết. Quyết không thể, đó là tất cả những gì tôi còn nghĩ được.

“Còn con bạn của vú, con Minny ấy? Nó sắp được nhận một bất ngờ thú vị lắm đấy. Tôi sẽ gọi cho Johnny Foote và bảo anh ấy phải đuổi việc nó ngay lập tức.”

Cả căn phòng trở nên mờ nhòe. Tôi lắc đầu lia lịa và hai nắm tay tôi siết cứng lại.

“Tôi quá thân thiết với Johnny Foote rồi mà. Chả có cái gì tôi bảo mà anh ấy không...”

“Cô Hilly.” Tôi nói thật to và rõ. Cô ta im bặt. Tôi cá suốt chục năm nay cô Hilly chưa từng bị một ai ngắt lời.

Tôi nói, “Tôi vẫn biết vài điều về cô, xin cô chớ có quên.”

Cô ta nheo mắt nhìn tôi. Nhưng cô không nói năng gì.

“Và tôi nghe nói, trong tù có vô khối thời gian để viết thư.” Tôi run lên. Hơi thở nóng bỏng như lửa đốt. “Thời gian để viết thư cho từng người một ở Jackson, kể lại sự thật về cô. Thời gian có thừa mà giấy thì lại miễn phí nữa chứ.”

“Chẳng ai thèm tin những gì bà viết đâu, đồ mọi đen.”

“Tôi không biết. Có người từng khen tôi viết hay lắm đấy.”

Cô ta thè lưỡi ra và chấm lên vết bầm kia. Rồi mắt cô ta rời mắt tôi.

Nhưng cô ta chưa kịp nói gì khác thì cánh cửa cuối hành lang mở bung. Mae Mobley mặc nguyên chiếc váy ngủ chạy bổ ra và con bé đứng khựng lại ngay trước mặt tôi. Nó vừa khóc mếu vừa nấc lên, chiếc mũi bé tí đỏ au như một bông hồng. Chắc mẹ nó đã báo tin tôi sắp nghỉ việc.

Lạy Chúa, tôi thầm cầu khẩn, xin hãy nói với con rằng nó sẽ không nhắc lại những lời dối trá của cô Hilly.

Bé Con túm lấy chân váy đồng phục của tôi và nhất định không buông ra. Tôi đặt tay lên trán nó, người nó nóng bỏng vì sốt.

“Cưng à, con phải về giường nằm ngay đi.”

“Khônggg,” nó nức nở. “Bác đừng điiiii, Aibee.”

Cô Leefolt bước ra khỏi phòng ngủ, mặt cau có, tay cô bồng Cu Con.

“Aibee!” Thằng bé gọi tướng lên, miệng cười toe toét.

“Cu... Con à,” tôi khẽ nói. Tôi mừng vì nó chưa hiểu được chuyện gì đang diễn ra. “Cô Leefolt, xin cô để tôi đưa con bé xuống bếp cho nó uống thuốc. Nó sốt cao quá.”

Cô Leefolt liếc sang cô Hilly, nhưng cô ta chỉ khoanh tay ngồi trơ đó. “Thôi được, vú đi đi,” cô Leefolt nói.

Tôi cầm bàn tay bé xíu nóng giãy của Bé Con và dắt nó vào bếp. Bé Con lại thở ra một tràng ho rũ rượi ghê người. Tôi bèn lấy thuốc aspirin cùng xi rô chống ho cho nó. Chỉ ở đây cùng tôi cũng khiến nó nguôi ngoai ít nhiều, nhưng nước mắt vẫn chảy đầm đìa trên hai má nó.

Tôi bế nó đặt lên quầy và nghiền một viên thuốc hồng nhỏ xíu, rồi pha với nước táo và cho nó uống một thìa đầy. Con bé gân cổ nuốt, tôi biết nó đang đau lắm. Tôi vuốt tóc nó. Mảng tóc nó đã cắt trụi bằng chiếc kéo thủ công giờ đã mọc trở lại, những sợi cứng đâm lên tua tủa. Hẳn gần đây cô Leeoflt chẳng thèm để mắt đến nó mấy.

“Bác đừng đi, Aibee,” nó lại nức nở.

“Bác phải đi, cưng ạ. Bác xin lỗi con.” Nói đến đây, tôi cũng bật khóc. Tôi rất không muốn, vì làm thế chỉ khiến con bé khổ sở thêm, nhưng tôi không nén nổi.

“Tại sao? Tại sao bác không muốn chơi với con nữa? Bác sẽ đi chăm đứa bé khác phải không?” Trán con bé nhăn nhúm cả lại, y hệt mặt mẹ nó mỗi lần nổi điên với nó. Trời thần ơi, tôi có cảm tưởng như tim mình sắp rỉ máu đến chết mất.

Tôi ấp mặt con bé trong hai bàn tay mình, cảm thấy hơi nóng ghê người tỏa ra từ đôi má nó. “Không phải vì thế đâu cưng. Bác có muốn rời con đâu, nhưng...” Tôi biết nói thế nào đây? Tôi không thể bảo mình bị đuổi việc được. Tôi không muốn nó đổ lỗi cho mẹ nó, làm thế, tình cảm giữa hai mẹ con chỉ thêm sứt mẻ. “Đến lúc bác phải nghỉ ngơi rồi. Con là em bé cuối cùng của bác,” tôi nói vậy, vì đó là sự thật, chứ không phải lựa chọn của riêng tôi.

Tôi để nó khóc thổn thức trên ngực mình một lát nữa và rồi lại khum bàn tay nâng mặt con bé lên. Tôi hít một hơi thật sâu và bảo Bé Con

“Bé Con,” tôi nói. “Bác muốn con ghi nhớ tất cả những gì bác đã nói với con. Con còn nhớ bác nói gì không?” Nó vẫn khóc tỉ ti, nhưng không còn nấc nữa. “Đi ị xong phải chùi sạch đít ạ?”

“Không, cưng à, chuyện kia cơ. Về bản thân con ấy.”

Tôi nhìn sâu vào đôi mắt nâu thăm thẳm của nó và nó cũng nhìn vào mắt tôi. Trời thần ơi, con bé có đôi mắt già đời quá, cứ như nó đã sống đến cả ngàn tuổi vậy. Và tôi thề rằng tôi nhìn thấy tận trong đáy mắt, người phụ nữ mà sau này nó sẽ trở thành. Một viễn ảnh thoáng qua từ tương lai. Người nó dong dỏng cao, dáng đứng thẳng thớm. Mái tóc tỉa rất khéo. Và nó vẫn ghi nhớ từng từ tôi thì thầm vào tai nó. Vẫn ghi nhớ ngay cả khi đã là một phụ nữ trưởng thành.

Và rồi con bé nói ra, y như tôi mong mỏi. “Con tốt bụng,” nó nói, “con thông minh. Con quan trọng.”

“Ôi trời thần ơi.” Tôi ôm siết cả cái cơ thể bé nhỏ nóng bỏng ấy vào lòng mình. Tôi có cảm giác Bé Con vừa tặng tôi một món quà quý giá vô ngần. “Cảm ơn con.”

“Không có gì ạ,” nó đáp, đúng phép tôi đã dạy. Nhưng rồi nó lại gục đầu lên vai tôi và hai bác cháu cứ khóc nức nở như thế một lúc, cho đến khi cô Leefolt bước vào bếp.

“Aibileen,” cô Leefolt lên tiếng rất khẽ.

“Cô Leefolt, cô có chắc... cô muốn...” Cô Hilly đã nối gót cô bước tới, mắt gườm gườm nhìn tôi. Cô Leefolt gật đầu, trông cô có vẻ cắn rứt lắm.

“Aibileen, tôi rất tiếc. Hilly, cậu muốn... báo cảnh sát thì tuỳ.”

Cô Hilly khịt mũi và nói, “Tớ chẳng thừa thì giờ cho ba cái việc lặt vặt đấy.”

Cô Leefolt thở phào, dường như chính cô cũng thấy nhẹ lòng. Trong giây lát, mắt chúng tôi chạm nhau và tôi nhận ra cô Hilly nói đúng. Cô Leefolt không hề có một ý niệm gì rằng Chương Hai viết về cô. Kể cả nếu có lờ mờ nhận ra, cô sẽ không bao giờ thừa nhận với chính mình đó là sự thật.

Tôi đẩy Mae Mobley ra thật nhẹ nhàng và nó nhìn tôi, rồi nhìn sang mẹ nó với đôi mắt lờ đờ vì ngái ngủ và sốt. Trông con bé như thể đang hãi hùng lắm khi tưởng tượng đến mười lăm năm tiếp theo của mình, nhưng rồi nó chỉ thở dài, hình như nó đã quá mệt để nghĩ ngợi thêm nữa. Tôi hạ nó xuống đất, hôn lên tr, nhưng rồi con bé lại vươn tay ra đòi ôm tôi. Tôi phải lùi lại.

Tôi xuống phòng giặt, lấy áo khoác và túi của mình.

Tôi bước ra khỏi cửa hậu, bỏ lại sau lưng tiếng khóc xé ruột xé gan của Mae Mobley. Tôi đặt chân xuống đường xe vào nhà, mắt nhòe nước. Tôi biết mình sẽ nhớ Mae Mobley lắm, tôi ước sao mẹ nó có thể dành cho nó nhiều tình yêu thương hơn. Nhưng cùng lúc đó, tôi bỗng có cảm giác mình đã tự do, như Minny. Tự do hơn cả cô Leefolt, kẻ bị giam cầm trong chính suy nghĩ của mình, đến nỗi không nhận ra bản thân mình khi đọc sách. Và tự do hơn cả cô Hilly. Mụ đàn bà đó sẽ phải mất cả đời này kiếp này để thuyết phục mọi người rằng kẻ ăn cái bánh kia không phải là mình. Tôi nghĩ đến Yule May đang ngồi trong tù. Vì cô Hilly, cô ta cũng chết rữa trong tù ngục của riêng mình, song khác chăng, đó là một cái án chung thân.

Tôi đi trên vỉa hè nóng như rang vào lúc tám rưỡi sáng, tự hỏi không biết mình sẽ làm gì trong suốt phần ngày còn lại. Trong suốt phần đời còn lại. Tôi vừa khóc vừa run lẩy bẩy, một phụ nữ da trắng đi ngang qua cau mày nhìn tôi. Tòa soạn sẽ trả tôi mười đô-la một tuần, còn cả tiền nhuận bút cho cuốn sách và thêm một khoản nữa sắp tới. Nhưng thế vẫn chưa đủ để tôi sống nốt những ngày tháng cuối cùng. Tôi sẽ không thể giúp việc một nhà nào nữa với tội ăn cắp mà cô Leefolt và cô Hilly chụp lên đầu tôi. Mae Mobley là đứa bé da trắng cuối cùng của tôi. Trớ trêu một nỗi, tôi lại vừa mua bộ đồng phục mới tinh này nữa chứ.

Mặt trời đổ nắng chói chang nhưng mắt tôi vẫn mở to. Tôi đứng ở bến xe buýt như tôi vẫn từng làm thế suốt bốn chục năm có lẻ vừa qua. Chỉ trong vỏn vẹn ba mươi phút, cuộc đời tôi đã... bế mạc. Có lẽ tôi phải tiếp tục viết, không chỉ cho báo, mà viết một thứ gì đó khác, về tất cả những người tôi quen biết và những gì tôi đã thấy, đã làm. Có lẽ mình chưa quá già để bắt đầu lại từ đầu, tôi thầm nghĩ, tôi không khỏi dở khóc dở cười trước ý nghĩ ấy. Bởi chỉ mới đêm qua thôi, tôi đã tin chắc rằng đời mình chẳng hòng mong có cái gì mới nữa.

 

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Amy Einhorn, biên tập viên của tôi, nếu không có chị, dự án giấy nhớ sẽ không thể có được thành công như ngày hôm nay. Amy, chị quả là một bộ óc thông thái. Tôi thật may mắn vì được làm việc với chị.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới diện của tôi, Susan Ramer, vì đã cho tôi cơ hội và đã rất kiên nhẫn với tôi; Alexandra Shelly vì kĩ năng biên tập tuyệt vời và những lời khuyên vô cùng chí lý; nhóm thảo luận phố Jane vì đã là những cây viết thật tài năng, Ruth Stockett, Tate Taylor, Brunson Green, Laura Foote, Octavia Spencer, Nicole Love, và Justin Story vì đã đọc và đã cười, ngay cả với những đoạn không buồn cười đến thế. Cảm ơn ông nội, Sain, Barbara, và Robert Stockett vì đã giúp tôi nhớ lại những ngày xưa ở Jackson. Và lời cảm ơn sâu sắc nhất tôi xin dành cho Keith Rogers và Lila thân yêu của tôi, vì tất cả.

Cảm ơn tất cả mọi người ở Putnam vì lòng nhiệt tình và tận tụy. Có một số chi tiết tôi sử dụng không thật xác thực về mặt thời gian, tôi đã dùng bài hát “The Times They Are A-Changin,” mặc dù phải đến năm 1965 nó mới ra đời, và Shake ’n Bake, cũng phải tới năm 1965 sản phẩm này mới được ra mắt. Các điều luật Jim Crows được nhắc đến trong cuốn sách đã được rút gọn và trích dẫn từ những bộ luật có thực, tồn tại ở những thời điểm khác nhau trên khắp các bang miền Nam. Tôi rất, rất cảm ơn Dorian Hastings và Elizabeth Wagner, hai biên tập viên vô cùng cầu toàn, đã chỉ ra những điểm chưa chính xác trên, giúp tôi thấy rõ sự thiếu nhất quán đáng phê bình của mình, và giúp tôi sửa chữa rất nhiều chi tiết khác.

Tôi xin cảm ơn Susan Tucker, tác giả cuốn sách Ký ức qua lời kể của những phụ nữ miền Nam (Telling Memories Among Southern Women), chính những lời thuật miệng khúc chiết rõ ràng của những người giúp việc da màu và người chủ da trắng đã đưa tôi trở lại một thời dĩ vãng đã xa.

Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn muộn màng đến Demetrie McLorn, người đã tự tay bế cả mấy anh chị em chúng tôi ra từ bệnh viện khi chúng tôi còn đỏ hỏn và dành cả cuc đời mình cho chúng tôi ăn, coi sóc chúng tôi, yêu thương chúng tôi, và, cảm ơn Chúa, tha thứ cho chúng tôi nữa.