Đông Cung - Chương 03 - Phần 01
Chương 3
Bỗng A Độ kéo tay tôi, trỏ về phía cửa sổ.
Tôi lấy làm lạ, bèn mở cửa, thấy có bóng người ngồi trên mái ngói lưu ly ở tòa điện đối diện.
Người đó vận đồ trắng, ngồi chễm chệ trên mái ngói lưu ly đen, rất nổi bật.
Tôi nhận ra kẻ đó, lại là gã Cố Kiếm đó!
Đang phân vân có nên hô: “Có thích khách” hay không thì đột nhiên gã cưỡi gió trượt xuống từ nóc điện như một cánh chim, khẽ khàng đáp xuống bậu cửa sổ ngay trước mặt tôi.
Tôi trợn mắt nhìn gã:
- Huynh muốn làm gì?
Thay vì đáp lời, ánh mắt hắn dán trên mặt tôi. Vừa về đến Đông cung, Vĩnh Nương lập lấy trứng gà luộc xoa cho tôi suốt buổi, thế mà má vẫn in sưng hằn dấu tay đỏ lựng, mãi không chịu tan. Nhưng tôi cũng chẳng thiệt thòi lắm, cái tát kia của tôi đảm bảo sẽ khiến mặt hắn sưng lên, lúc đó tôi đã tát bằng tất cả sức lực, mạnh đến mức tay tê rần không thôi.
Giọng gã thoáng ưu tư, dường như đang gồng mình kìm nén điều gì đó:
- Ai đánh muội thế?
Tôi xoa gò má rồi nói:
- Không sao, tôi cũng đánh trả hắn rồi.
Gã khăng khăng truy hỏi bằng được:
- Là ai?
Tôi hỏi:
- Huynh hỏi làm cái gì?
Mặt hắn lạnh tanh:
- Đi giết hắn!
Tôi hết hồn. Hắn lại hỏi:
- Muội đã là Thái tử phi rồi, ai còn dám đánh muội? Là Hoàng đế? Hay Hoàng hậu? Hoặc kẻ nào khác chăng?
Tôi lắc đầu, nói:
- Huynh đừng hỏi nữa, tôi không nói đâu.
Vậy mà hắn vẫn hỏi:
- Muội bằng lòng đi cùng ta không?
Gã này đúng là quái đản thật! Tôi lắc đầu, định đóng cửa lại, gã giơ tay chặn đứng cánh cửa, hỏi tôi:
- Muội vẫn giận ta ư?
Tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả:
- Sao tôi phải giận huynh?
- Lẽ nào muội không giận ta chuyện ba năm trước?
Tôi đành nói thẳng với gã:
- Quả thực tôi không quen huynh, huynh đừng nửa đêm nửa hôm mò đến đây nói mấy chuyện khó hiểu này nữa. Đây là Đông cung, nếu để người khác biết, họ sẽ tưởng huynh là thích khách rồi bắn chết dưới làn mưa tên thì khổ.
Gã cười vẻ thách thức:
- Đông cung thì sao? Kể cả là Hoàng cung, ta thích thì vào, không thích thì ra, ai làm gì được ta nào!
Tôi trợn tròn mắt nhìn gã, tên này ngông cuồng quá hóa điên rồi. Song với võ công của gã, xem chừng Hoàng cung đúng là nơi “thích thì vào, không thích thì ra” thật. Tôi thở dài:
- Rốt cuộc huynh muốn gì?
- Ta đến thăm muội. - Rồi gã lại hỏi. - Muội bằng lòng đi cùng ta chứ?
Tôi lắc đầu.
Gã tỏ ra tức giận, bỗng nắm chặt tay tôi:
- Muội sống ở đây chẳng vui vẻ gì, cớ sao không chịu đi theo ta?
- Ai bảo tôi sống không vui vẻ? Vả lại huynh là ai, sao cứ bận tâm chuyện tôi sống vui hay không vui thế?
Gã vươn tay kéo tôi, tôi khẽ gắt:
- Bỏ tay ra!
A Độ nhảy vọt lên, nhưng chỉ một cái phẩy nhẹ tay áo của gã, A Độ liền loạng choạng lùi vài bước. Không đợi A Độ kịp trở tay, tôi có cảm giác người nhẹ bẫng như con diều bị gã kéo ra khỏi cửa sổ. Khinh công của gã đúng là không có gì để nói, vác theo tôi mà chẳng khác nào cưỡi mây lướt gió. Tiếng gió không ngừng vỗ bên tai, chẳng mấy chốc dưới chân tôi đã có điểm hạ, hiềm nỗi thay vì mặt đất thì đây lại là mái ngói lưu ly vừa trơn vừa lạnh. Gã bắt cóc tôi phi lên tận nóc chính điện, vốn là nơi cao nhất trong Đông cung. Phóng tầm mắt nhìn quanh, cung khuyết thâm trầm, đền điện trập trùng, đấu củng[27] mái cong, những gờ mái ngói bằng lưu ly, tất thảy dường như đang ẩn mình trong sắc đêm im lìm đen tựa nghiên mực.
[27] Đấu củng: một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ cột trụ chìa ra gọi là củng và những trụ kề hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.
Tôi vùng khỏi tay gã, suýt thì trượt chân, bèn trợn mắt nhìn gã:
- Tóm lại huynh muốn gì?
Gã chỉ xuống cung điện trập trùng ngay dưới chân chúng tôi, nói:
- Tiểu Phong, muội nhìn xem, muội nhìn nơi này mà xem, nơi đây tường cao chót vót, bốn bề kín mít, nơi đây như miệng giếng sâu không thấy được mặt trời, nơi này sao có thể giam giữ muội?
Tôi thấy khó chịu mỗi lần gã gọi tên mình, điều đó khiến tôi có cảm giác bức bối, tôi nói:
- Chẳng mắc mớ gì tới huynh.
Gã bảo:
- Phải làm sao thì muội mới chịu theo ta?
Tôi lườm gã:
- Tôi không theo huynh đâu, huynh đừng tưởng mình có võ là giỏi, tôi mà la lên gọi Vũ lâm quân tới là huynh thành con nhím chỉ sau một phát tên đấy.
Gã cười nhạt, nói:
- Muội quên ta là ai rồi sao? Một khi ta cầm chắc kiếm trong tay, muội phải gọi toàn bộ Vũ lâm quân trong Đông cung đến, may ra mới đọ được nửa phần ta.
Suýt thì quên mất, tay này ngông cuồng quá hóa điên rồi. Tôi bèn nhanh trí giở trò nịnh nọt:
- Võ công của huynh quả là cao cường, có phải vô địch thiên hạ không, từng thua ai chưa?
Gã chợt cười:
- Muội quên thật đấy à? Ba năm trước, ta chẳng đọ kiếm thua muội là gì!
Tôi kinh hãi đến nỗi cằm suýt rơi xuống đất, chỉ vào mũi mình, run run hỏi:
- Tôi? Thua tôi á?
Chuyện này thật ghê gớm, tôi thậm chí không biết một chút võ nghệ, một cái búng nhẹ của gã là đủ quật nhào tôi xuống đất, làm gì có chuyện đọ kiếm để rồi thua tôi chứ? Đến cầm kiếm thế nào cho đúng cách, tôi còn không biết nữa là.
Gã tỏ ra thản nhiên như không, thủng thẳng nói:
- Đúng thế. Lần đó đọ kiếm, chúng ta lấy cả cuộc đời ra đặt cược, ta thua muội thì phải lấy muội, cả đời yêu thương muội, trân trọng muội, đi theo muội…
Miệng tôi ngoác to đến nỗi dư sức nuốt trôi một quả trứng gà. Tôi tò mò hỏi:
- Thế nếu tôi thua thì sao?
- Nếu muội thua, đương nhiên muội phải lấy ta, để ta yêu thương muội, trân trọng muội, đi theo muội trọn đời…
Tôi rùng mình. Ông trời ơi, hắn đang đùa kiểu gì kỳ lạ vậy?
Gã lại nói:
- Lần đó ta chẳng nhường gì đâu, thế mà một chiêu của muội đã đoạt được thanh kiếm trên tay ta, ta đành chấp nhận thua muội.
Hạng như tôi mà đoạt được kiếm trên tay gã? Có đánh chết tôi cũng không tin!
Tôi dứt khoát nói:
- Bất kể lần đó ai thắng ai thua, dẫu sao tôi cũng không nhớ, hơn nữa tôi không quen huynh, còn lâu tôi mới tin những lời huynh nói.
Nụ cười phớt trên môi gã, đoạn gã lấy từ trong tay áo ra một đôi ngọc bội, bảo tôi:
- Năm xưa, khi ta và muội ước hẹn cùng nhau, từng chia đôi miếng ngọc bội uyên ương này thành hai nửa, ta giữ một nửa, nửa còn lại muội giữ. Đôi ta vốn đã hẹn nhau, ngày Mười lăm tháng Sáu, trăng tròn vành vạnh, ta đợi muội ở ngoài Ngọc Môn Quan, sau đó ta sẽ dẫn muội về nhà ra mắt.
Tôi nhìn miếng ngọc bội trên tay gã, Tây Lương vốn là nơi tập trung làm ăn buôn bán của khá nhiều người Hồ, lại cách quê hương của ngọc Hòa Điền không xa nên số trang sức bằng ngọc tôi từng nhìn thấy nhiều không kể xiết. Từ ngày đến Thượng Kinh, thấy trong Đông cung cũng có vô vàn bảo vật quý hiếm, song hết thảy những thứ ấy không gì sánh được với đôi ngọc này, cả về độ sáng bóng lẫn ôn nhuận. Miếng ngọc mỡ dê[28] thượng hạng, mịn màng như mỡ đặc, dưới ánh trăng thấp thoáng lan tỏa vầng hào quang.
[28] Ngọc mỡ dê: một loại ngọc tự nhiên quý hiếm với màu trắng mờ độc đáo, là nguyên liệu chế tác đồ trang sức, bảo vật của vua chúa Trung Hoa thời xưa.
- Lần đầu tiên tôi thấy đôi ngọc bội này. - Tính hiếu kỳ được dịp trỗi dậy, tôi bèn hỏi. - Không phải huynh nói chúng ta từng hẹn ước sẽ bỏ nhà đi cùng nhau à, vì sao sau đó lại không đi nữa?
Cánh tay gã từ từ buông xuống, gã chợt chùng giọng nói:
- Ta có lỗi với muội, hôm đó, ta có việc đột xuất, không thể tới quan ngoại. Ba ngày ba đêm sau, ta mới đến được chỗ hẹn, lúc ấy chỉ thấy mảnh ngọc bội này rơi trên cát sỏi, còn muội chẳng biết đã bỏ đi đâu...
Tôi nghiêng đầu nhìn gã, nét mặt kia không có vẻ gì là nói dối, nhất là đoạn gã kể mình thất hẹn, khuôn mặt u sầu, héo hon như thể gã có nỗi day dứt khôn tả.
Song tôi thấy câu chuyện đó thật nhạt nhẽo.
- Đã thất hẹn rồi, còn gì để nói nữa! Chuyện này chẳng thú vị gì cả. Chắc huynh nhận nhầm người rồi, xưa nay tôi không hề quen huynh.
Tôi xoay người nhìn sắc trời:
- Tôi phải về đi ngủ đây. Mà sau này huynh đừng đến tìm tôi nữa, bị người ta bắt gặp thì chỉ gây phiền phức cho tôi thôi, bây giờ tôi cũng đủ đau đầu lắm rồi.
Gã nhìn chằm chằm lên khuôn mặt tôi, bẵng một lúc lâu mới hỏi:
- Muội đang trách ta đó ư, Tiểu Phong?
- Tôi chẳng có thời gian mà đi trách huynh! Nhưng quả thật chúng ta không hề quen biết.
Gã im lặng hồi lâu, chốt lại bằng tiếng thở dài, rồi rút từ trong ngực áo ra một loại “tên reo[29]”, nói với tôi:
[29] Tên reo: một loại tên khi bắn ra thường phát tiếng kêu.
- Nếu muội gặp nguy hiểm, cứ bắn mũi tên này lên trời, ta sẽ lập tức tới cứu muội.
Tôi có A Độ lúc nào cũng ở bên cạnh rồi, còn gặp nguy hiểm gì chứ? Tôi quyết không nhận mũi tên của gã, gã quả quyết dúi vào tay tôi bằng được. Thế rồi gã ôm tôi nhẹ bẫng như lúc trước, sau vài cái nhảy vọt, không để tôi kịp thốt lên tiếng nào, cả hai đã đáp xuống mặt đất. Gã đưa tôi về tẩm điện của tôi, rồi loáng cái đã lùi xa mấy trượng trước khi tôi kịp quay người. Thoắt đến rồi đi đều im hơi lặng tiếng, nháy mắt gã đã vọt lên mái ngói lưu ly của tòa điện trước mắt, từ xa quay lại nhìn tôi một cái rồi biến mất.
Tôi khép cửa sổ, tiện tay đưa mũi tên cho A Độ, nói:
- Gã Cố Kiếm này tinh thông võ nghệ, nhưng lại điên điên dở dở, thích luyên thuyên. Hắn luôn miệng bảo ta quen hắn, lẽ nào trước đây ta quen hắn mà lại không nhớ?
A Độ nhìn tôi, ánh mắt dịu dàng, cảm thông. Tôi không hiểu tại sao muội ấy lại nhìn tôi kiểu đó, đành buông tiếng thở dài, bò lên giường nằm. A Độ không biết nói nên không thể kể cho tôi biết rốt cuộc gã Cố Kiếm kia là ai.
Chắc bởi có quá nhiều chuyện xảy ra đột ngột trong vòng một buổi tối khiến đêm hôm đó giấc ngủ tôi chập chờn, mộng mị. Tiếng kèn của ai đó dập dìu trong giấc mơ, gọi tôi xích lại gần. Sương mù giăng mắc bốn bề mênh mông, không để tôi nhìn rõ mặt người đang thổi kèn. Chàng đứng đó, cách tôi tưởng gần mà xa. Lòng tôi biết rõ song đôi chân chẳng tìm ra lối. Loanh quanh trong sương khói miết cũng tìm thấy chàng, hớn hở chạy về phía đó, tôi chợt sẩy chân rơi xuống vực sâu thăm thẳm.
Trong khoảnh khắc tuyệt vọng, bỗng có người đón tôi ở lưng chừng vực thẳm. Tiếng gió vụt vù lướt qua vành tai, tôi nằm gọn trong vòng tay chàng, người lao dần xuống vực... Chàng cứu tôi, trong làn gió đêm xoáy xiết, tôi nép mình vào ngực chàng... Theo gió vần xoay... xoay mãi... Sao sáng đầy trời tưởng giọt mưa sa. Giữa đất trời bao la,hai mắt chàng vẫn đắm đuối nhìn vào mắt tôi.
Mình say mất, say thật rồi. Được nằm trong vòng tay chàng, đúng người đó rồi... Tôi biết chàng yêu mình tha thiết và tình tôi trao chàng cũng đủ đắm say. Chỉ khi có chàng ở bên, tôi mới thấy lòng mình bình yên trở lại.
Tôi choàng tỉnh cơn mê lúc trời sáng rõ, giấc mơ ấy tìm về không biết bao nhiêu lần, và lần nào choàng tỉnh, lòng cũng nghe thất vọng não nề. Từ thuở nào đến giờ, chưa một lần tôi nhìn tỏ mặt người đã cứu tôi. Tôi không biết chàng là ai, mỗi lần mộng mị tôi thường cố nhìn cho tường nhưng chưa một lần thành công. Tôi trở mình, thấy bên gối đặt một nhành hoa ngậm sương sớm long lanh, tỏa hương thơm ngát. Tôi giật bắn mình, A Độ nằm án ngữ bên cửa sổ, không kẻ nào có thể lọt qua tai mắt của muội ấy, trừ gã Cố Kiếm nọ. Tôi mở tung cửa sổ, song không thấy bóng dáng áo trắng kia đâu, gã Cố Kiếm đã lặn mất tăm từ lúc nào.
Tôi cắm hoa vào bình, thấy tinh thần phấn chấn lên đôi chút, tiếc thay, không vui được bao lâu thì Vĩnh Nương đến bẩm báo với tôi chuyện hôm qua Lý Thừa Ngân uống say cả đêm, giờ vẫn bí tỉ, đang làm mình làm mẩy ở bên đó.
Tôi khinh thường gã đàn ông này. Nếu là tôi, tôi sẽ lén lút đi thăm Triệu Lương đệ, sao phải chuyện bé xé ra to? Vả chăng cô ả vẫn còn sống sờ sờ ra đấy, thể nào chẳng có cách để hai người tái hợp. Rừng xanh còn đó, lo gì thiếu củi đốt!
Tôi bảo Vĩnh Nương, mặc xác Lý Thừa Ngân, cứ để hắn say chết đi cho nhẹ người.
Tuy nói vậy song ba ngày sau đó, Lý Thừa Ngân vẫn triền miên trong những cơn say túy lúy, sang đến ngày thứ tư thì lăn đùng ra ốm.
Lần nào say hắn cũng đuổi hết cung nữ ra khỏi điện, cấm ai được lại gần. Chẳng trách sau đó trúng ngay phong hàn, thoạt đầu chỉ đau họng, ho khan, sau thì sốt cao. Tẩm điện của tôi cách chỗ hắn quá nửa Đông cung, tin tức cũng thiếu nhạy bén, hắn ốm nặng, nằm liệt giường rồi tôi mới biết tin, vậy mà trong cung vẫn không hề hay biết.
- Điện hạ không chịu uống thuốc, cũng cấm loan tin vào cung. - Vĩnh Nương thì thầm. - Vì Triệu Lương đệ mà Điện hạ giận lây Hoàng hậu nương nương.
Tôi vừa bực mình vừa tức cười:
- Hắn định trả thù cho Triệu Lương đệ bằng cách tự hành xác sao?
Vĩnh Nương thưa:
- Điện hạ trời sinh bản tính nhân hậu, lại được Bệ hạ và Hoàng hậu nương nương hết mực yêu thương, khó tránh khỏi có chút…
Vĩnh Nương không tiện nói xấu Lý Thừa Ngân bèn nói đến đó rồi bỏ ngỏ.
Tôi đành phải đi thăm Lý Thừa Ngân, không khéo ốm quá lại lăn ra chết thì khổ. Hắn chết thì mặc kệ hắn, nhưng tôi chưa muốn làm quả phụ.