Đông Cung - Chương 07 - Phần 01

Chương 7

Tôi và Lý Thừa Ngân băng qua cầu, rảo bước về phía lầu trước, chưa tới nơi đã nghe văng vẳng lời qua tiếng lại om sòm. Vương đại nương đang quát tháo:

- Muốn bắt người phường này đi á, đừng hòng!

- Có nợ thì phải trả, lẽ đó bất di bất dịch rồi!

Cầm đầu bọn du côn là một gã phốp pháp, béo trắng, để bộ ria mép cá trê, vẻ gian xảo, trông tướng tá đã biết ngay là loại chẳng ra gì. Nhác thấy hắn, tôi nổi giận, quát:

- Tôn Nhị, sao lại là ngươi?

Nhắc đến gã Tôn Nhị này, tôi và gã nếu không đánh nhau thì không quen biết. Gã chuyên cho vay nặng lãi ở quán rượu và sòng bạc. Có lần tình cờ bắt gặp gã đang đòi nợ một đôi cô nhi, quả phụ, tôi thấy chướng mắt liền nện cho hắn một trận. Từ đó trở đi, Tôn Nhị nể tôi ra mặt, không dám nhâng nháo trước mặt tôi nữa. Tôn Nhị hấp háy mắt nhìn tôi, hồi lâu mới nhận ra:

- Lương công tử... Cậu đang mặc... Ha ha ha...

Quên mất là mình đang vận đồ nữ, tôi gác một chân lên ghế đẩu chẳng kiêng nể gì, gài mép váy vào thắt lưng, nói:

- Sao nào? Thích đánh nhau hả? Tuy đang mặc váy nhưng ta vẫn thừa sức cho ngươi một trận tơi bời!

Tôn Nhị sợ sệt, bèn gượng cười, nói:

- Không dám, không dám ạ! Thực ra tại hạ chỉ đến đòi nợ thôi. Lương công tử à, có nợ tất phải trả, đấy là lẽ thường ở đời mà. Con bé Du Nương này không phải cô nhi, cũng không phải quả phụ, lại chẳng bệnh tật gì, công tử nói thử xem, nó nợ tiền tại hạ, lẽ nào định quỵt?

Tôi hỏi Du Nương:

- Nàng nợ tiền hắn à?

Du Nương vốn là người thật thà, bèn thưa:

- Em nợ gì hắn đâu cơ chứ? Chẳng qua, có đôi vợ chồng là chỗ đồng hương với em, họ lên kinh thành làm ăn, không ngờ người vợ ngã bệnh không qua khỏi, nào tiền mời đại phu, tiền thuốc thang, sau cùng thêm tang sự nên mới tìm đến Tôn Nhị vay hắn mấy chục xâu tiền. Tôn Nhị bảo đồng hương của em không có tài sản gì, không muốn cho vay, trừ phi có người bảo lãnh, mà họ vốn chẳng có ai thân thích ở chốn kinh thành, không còn cách nào khác, em đành giúp lão. Bây giờ người chồng làm ăn thua lỗ nên cuốn gói về quê, gã Tôn Nhị này mới tới tìm em đòi tiền.

Tôi nghe mà phát bực:

- Cái loại đồng hương gì thế? Quỵt nợ còn để nàng mang vạ...

Tôn Nhị giơ tay móc biên lai vay nợ ra:

- Đấy nhé Lương công tử, giả sử đây là cô nhi, quả phụ thì tại hạ cũng sẽ làm ơn làm phước một phen. Nợ nhà người ta kiểu gì chẳng phải trả. Giết người, phóng hỏa thì vinh hoa phú quý, xây cầu, sửa đường hóa ra chết không toàn thây...

Hắn vừa ngâm nga, tôi đã choáng váng mặt mày. Lý Thừa Ngân đứng đằng sau phì cười khiến Tôn Nhị nhảy dựng lên:

- Thằng ôn nào hỗn láo đấy?

- Ngươi nói gì hả?

Lý Thừa Ngân sa sầm mặt mày, tôi muốn can cũng khó. Điện hạ ơi là Điện hạ, chớ có kích động, chớ có kích động!

Tôn Nhị nhìn lướt qua Lý Thừa Ngân rồi chắp tay nói với tôi:

- Bẩm Lương công tử, nếu hôm nay không đòi được tiền, bọn tại hạ đành đắc tội vậy.

- Cô nương này chỉ là người bảo lãnh, ngươi muốn đòi nợ thì đi mà tìm lão đồng hương kia. - Lý Thừa Ngân cười khẩy, rồi nói tiếp. - Trong “Đại luật” có quy định về việc vay nợ, văn tự đã ghi rõ, nếu con nợ qua đời, hoặc bỏ chạy, hoặc không có khả năng chi trả thì bên chủ nợ mới có quyền thu hồi khoản vay từ người bảo lãnh.

Tôn Nhị không ngờ Lý Thừa Ngân lại lôi “Đại luật” ra nói chuyện phải trái với gã, gã chớp mắt, nói:

- Bây giờ lão đồng hương kia trốn rồi, lẽ nào không gọi là bỏ chạy à?

- Bỏ trốn bao giờ? Người ta về quê kia mà. Ngươi thừa biết con nợ đang ở đâu, sao không về đó mà đòi, lại gây khó dễ với người bảo lãnh là sao hả?

- Lão đồng hương kia chạy đằng nào, làm sao ta biết được...

Lý Thừa Ngân đẩy nhẹ Du Nương một cái:

- Đồng hương của cô, nhà ở đâu hả?

Du Nương đờ người, lắp bắp:

- Thôn Tiểu Vương, huyện Thanh, phủ Vĩnh Hà, Định Châu...

Lý Thừa Ngân nói:

- Được rồi, giờ con nợ ở đâu đã rõ, ngươi muốn đòi nợ thì đi mà tìm lão, đừng ở đây phá rối nữa.

Vương đại nương nhân cơ hội nói chen vào:

- Cô nương này nói chí phải, ngươi muốn đòi nợ thì đi mà tìm con nợ ấy, sao lại đến gây chuyện với con gái phường này? Mau biến đi! Mau lên!

Bà ấy vừa nói vừa xô đẩy, chẳng mấy chốc, Tôn Nhị cùng mấy kẻ vô lại đã bị đuổi ra khỏi cửa. Tôn Nhị đứng ngoài giậm chân chửi bới om sòm, Vương đại nương vỗ lưng Lý Thừa Ngân, phấn khởi nói:

- Con gái ngoan giúp mẹ giành lại lẽ phải, con là ca nhi dưới trướng Du Nương hả? Tiền khách tháng này của con, mẹ cho con gấp đôi!

Tôi đứng ở bên mà cười như nắc nẻ. Gã Tôn Nhị kia vẫn lồng lộn văng tục ngoài cửa, song chẳng ăn thua gì. Đột nhiên tôi thấy gã vẫy tay với đám thuộc hạ, mấy kẻ đó tụ lại, thì thầm một hồi rồi chia nhau ra, tản mất hút. Tôi thốt lên:

- Ôi trời ơi, không xong rồi, chỉ e gã Tôn Nhị này sắp giở trò.

Vương đại nương vội sai thằng bé con đi đóng cửa:

- Đóng cửa mau! Đóng cửa mau! Không được để bọn chúng xông vào làm loạn. Còn hai cái đèn lưu ly Ba Tư của ta nữa chứ, mau gỡ xuống rồi đóng cửa, mai là tết Nguyên tiêu rồi, đèn này quý lắm, nhỡ hỏng thì…

Gian bên này còn đang tất tả hạ đèn, đóng cửa. Gian bên kia, Tôn Nhị đã dẫn người phăm phăm quay lại, kẻ nào kẻ nấy tay lăm lăm ống trúc, chẳng rõ bên trong đựng gì. Vương đại nương thoạt trông đã hốt hoảng, liền giục đám tiểu nhị mau đóng cửa. Đám du côn kia nhanh tay vẩy ống trúc trước khi cánh cửa kịp khép kín, từ ống trúc văng ra thứ gì đó đen sì. Chỗ nước ấy hắt lên cửa, đám tiểu nhị phụ trách đóng cửa không kịp né, vài tên dính nước đen ngòm từ đầu tới chân, thậm chí váy của Vương đại nương cũng dính. Bà ấy giận bầm gan tím ruột, chửi toáng lên:

- Chiếc váy hoa bằng lụa này bà mới may, mặc chưa được hai ngày, lũ khốn nạn mạt hạng kia... bà sẽ lột da chúng mày...

Vương đại nương một mực sai đám thuộc hạ mở cửa, nhưng bọn Tôn Nhị đã nhanh chóng bỏ chạy đến tận góc đường, lúc chạy còn quay đầu lè lưỡi trêu ngươi Vương đại nương. Điên tiết sôi gan, Vương đại nương vừa gào thét vừa giậm chân, không ngớt lời chửi rủa chúng.

Du Nương ra nhấc váy của bà ấy lên, cẩn thận xem xét rồi nói:

- Khoan đã mẹ ơi, đây hình như là mực tàu, lấy giấm chà qua, rồi giặt bằng nước lã là sạch. Mẹ thay váy đi, con giặt cho...

Vương đại nương khoác tay Du Nương, miệng vẫn lầm bầm chửi bới:

- Cái bọn khốn kia, lần sau gặp phải bà, đừng trách bà băm vằm chúng mày...

Chửi rủa một hồi, Vương đại nương liền sai người đi lau sạch cửa. Chẳng hiểu tại sao, chà mãi cánh cửa gỗ sồi mới toanh tróc cả sơn mà vẫn không tài nào sạch được. Vương đại nương trông bọn người hầu lau mãi không sạch, lại càng bực bội. Tôi thấy vết mực đã thấm vào tận lõi gỗ trong, đột nhiên nảy ra một ý, liền sai đứa hầu gái đang đứng cạnh mình:

- Lấy phấn hồng và than kẻ mày lại đây.

Du Nương ngắm nghía khuôn mặt tôi, cười, nói:

- Lương công tử sắm vai nữ nhi, nom thanh tú mười phân vẹn mười, dù không trang điểm nhưng cũng hơn khối đứa trong phường chúng em rồi.

Tôi cười toét miệng, kéo Lý Thừa Ngân:

- Tên này còn đẹp hơn ta. Mau đi lấy đi, ta bảo hắn vẽ!

Lý Thừa Ngân tức giận, gạt phăng tay tôi ra. Đứa hầu mang phấn hồng và than kẻ mày ra, tôi dúi cả khay vào tay hắn, nói:

- Vẽ đi!

Lý Thừa Ngân trợn mắt với tôi:

- Vẽ cái gì?

Tôi hằm hè nói:

- Lần trước Sắt Sắt của chàng dùng quạt trắng đập chết một con muỗi, chàng chẳng vẽ một cánh bướm từ vết máu trên quạt cho ả còn gì? Chàng có đủ tài vẽ lên quạt thì bữa nay chắc chắn có bản lĩnh vẽ lên tấm cửa này.

Lý Thừa Ngân buông một tiếng “hừ”, tôi trông hắn có vẻ không đồng tình, liền nhón chân nắm chặt cổ áo hắn, nói:

- Không vẽ chứ gì, thế để thiếp réo tên vị khách đang ngồi ở lầu sau nhé!

Lý Thừa Ngân trợn trừng mắt:

- Nàng dám!

Tôi ngoác miệng hô:

- Mọi người mau qua lầu sau xem Hoàng...

Lý Thừa Ngân nhanh tay bịt miệng tôi, không để tiếng cuối kịp thốt ra ngoài. Hắn không dùng bút, mà vốc một nắm phấn hồng, khoanh một vòng tròn rất lớn lên cánh cửa, rồi trát đầy phấn vào giữa, tiếp đó lại dùng than chì, chấm chấm vẽ vẽ lên vết mực. Hiếm khi tôi thấy Lý Thừa Ngân vẽ tranh, chứ đừng nói tới việc vẽ bằng đầu ngón tay, đám người xung quanh bắt đầu xì xào bàn tán, tôi cũng thấy tò mò. Đầu ngón tay hắn mải miết tô tô vẽ vẽ, không dùng bút, cứ bôi trát cho đến khi vừa ý, dần dà cũng hiện rõ hình dáng tổng thể. Sau cùng, hắn cẩn thận thêm thắt chi tiết, đám người xung quanh không khỏi nín thở, lặng người ngắm nhìn dáng vẻ thong dong vẽ vời của hắn.

Đợi bức tranh hoàn tất, mọi cùng cùng xem. Ôi! Vết mực bị hắt vào giờ đã biến thành cảnh núi non trùng điệp, thoắt ẩn thoắt hiện giữa khói trời mênh mông, chóp núi mờ xa, dặm biếc trầm mình trong sương mù, mặt trời đỏ ối mới ló rạng… quả là một bức tranh sơn thủy đẹp vô cùng.

Vương đại nương vỗ tay cười, nói:

- Vẽ đẹp quá! Mẹ toan bỏ tiền mời thợ cả An của Tây phường qua Tết này đến vẽ cửa, thoạt đầu định vẽ một bức ca vũ, nhưng công nhận tranh do An sư phụ vẽ thua xa bức này!

Thì lẽ đương nhiên, Thái tử đương triều cơ mà, từ nhỏ đã theo học toàn thầy nổi tiếng, thơ từ ca phú, cầm kỳ thi họa cái gì chẳng biết, cái gì chẳng hay, đương nhiên phải hơn hẳn đám thợ kia rồi.

Lý Thừa Ngân cũng lấy làm hài lòng, hắn phủi tay ngắm nghía một hồi, rồi lại nhấc than chì đề ba chữ: “Cửa vẩy mực” rất lớn bên cạnh bức họa. Mặc dù tôi không am hiểu thư pháp, song cũng cảm nhận được đôi phần khí thế siêu phàm thoát tục toát ra từ nét bút như rồng bay phượng múa mà Lý Thừa Ngân đề trên cửa. Sự hả hê của hắn nào đã chịu nguôi, hắn lại viết thêm một dòng lạc khoản nho nhỏ bên dưới “Lý Ngũ Lang, Thượng Kinh”, xong xuôi mới hài lòng quẳng miếng than đi, ra lệnh:

- Múc nước rửa tay!

Vương đại nương hăm hở tự mình bưng nước cho hắn rửa tay. Tôi cũng lấy làm tự hào. Tuy năm xưa cha không đành lòng gả tôi đến Trung Nguyên để tôi lấy một gã như hắn làm chồng, nhưng xem ra tài cưỡi ngựa và võ nghệ yếu kém một chút thôi, chứ hắn cũng tài hoa ra trò!

Hắn rửa tay sạch sẽ, Vương đại nương sai người nấu ít đồ ăn thết đãi chúng tôi. Đột nhiên bà ấy trở nên ngờ vực, mắt láo liên săm soi Lý Thừa Ngân. Tôi sợ bà ấy sinh nghi, định mở miệng lấp liếm hộ hắn, bỗng nghe một tiếng “vèo” vọng ra từ hậu viên. Một dải pháo bông bắn vào không trung, nom cụm pháo ấy khắc hẳn với những loại pháo hoa thông thường khác, không những vươn cao hơn, mà còn vọt lên thẳng tắp, kéo theo một vệt khói ánh bạc sáng lóa giữa màn trời đen kịt, cộng thêm tiếng huýt sáo chói tai khiến ai ai cũng phải chú ý. Pháo vươn cao tít, rồi nổ “bang” một tiếng đanh gọn, vệt pháo ấy nở rộ thành chùm khói màu vàng, sợi khói vương vãi khắp nơi, như xẻ vụn sắc đêm đen tuyền tựa nhung tơ, những vết khói đan vào nhau, vẽ lên bầu trời rất bắt mắt. Bụi vàng li ti lất phất sau tiếng nổ ấy bảng lảng trên cao mãi không tan, phía bên kia chân trời lờ mờ phản chiếu ánh xanh.

Lý Thừa Ngân hốt hoảng, quay ngoắt chạy thục mạng về phía lầu sau. Tôi không kịp hỏi han gì, chỉ lo rảo bước đuổi theo hắn. Hắn sải những bước chân rất dài, tôi không tài nào bắt kịp. Đặt chân lên cầu, tôi mới sực nhận ra sự bất thường. Sân vườn im lìm đến đáng sợ. Dưới chân cầu có một bóng người mặc áo đen nằm sóng soài, dưới thân có dòng máu chậm rãi chảy quanh, uốn lượn như một con rắn nhỏ kỳ dị. Sao lại có người chết ở đây? Không kịp nghĩ ngợi, tôi sốt ruột gọi ầm lên:

- A Độ!

Không có tiếng A Độ đáp lại, tôi liến thoắng gọi liền mấy câu, bình thường chỉ cần hô một câu là A Độ sẽ nhảy ra ngay tức khắc, lẽ nào đã xảy ra chuyện gì với A Độ rồi? Tim tôi đập như trống dồn, Lý Thừa Ngân vung chân đạp bung cánh cửa. Chúng tôi rời căn phòng này chỉ khoảng chừng hai tuần trà, lẽ ra trong phòng phải ngát hương trầm thơm, vậy mà giờ đây xộc vào mũi chỉ có mùi máu tanh, xác người mặc đồ đen nằm la liệt dưới sàn nhà. Lý Thừa Ngân vội vã vòng qua tấm bình phong, rèm mành tơi tả, chứng tỏ nơi đây vừa xảy ra một trận giằng co ác liệt. Bàn trên sập bị hất văng xuống đất, vết kiếm vằn vện trên cột trụ, khắp nơi loang lổ máu, xác người như ngả rạ. Có gã vận đồ đen dựa người bên cột trụ thoi thóp thở. Lý Thừa Ngân lao đến đỡ gã dậy, khuôn mặt gã nhuốm máu, mắt trợn trừng, bả vai lộ ra xương quai xanh trắng ởn, thậm chí cánh tay và bả vai cũng bị chặt đứt lìa, còn hấp hối đã là kỳ tích. Lý Thừa Ngân gằn giọng hỏi:

- Bệ hạ đâu?

Gã nọ cụt nguyên bả vai phải, túm thật chặt ngực áo Lý Thừa Ngân bằng bàn tay trái, thở hổn hển, giọng thều thào, khản đặc:

- Bệ hạ... Bệ hạ...

- Là kẻ nào? Bệ hạ đang ở đâu?

- Hắn bịt mặt... Thích khách bịt mặt... Võ công quỷ dị... Thần bất tài...

Dường như gã đã vận đến chút sức lực cuối cùng để trỏ ra phía cửa sổ đang mở toang, ánh mắt dần đục mờ:

- Cứu Bệ hạ... Bệ hạ...

Lý Thừa Ngân định hỏi thêm nhưng ngón tay gã dần buông lơi, sau cùng rơi thõng trên vũng máu, bất động.

Lý Thừa Ngân ngước mắt nhìn tôi. Tôi thấy trong đôi mắt ấy vằn lên tia máu, người đã nhuốm đỏ, nơi nào nơi nấy la liệt người chết, tôi cảm thấy sợ. Chúng tôi chỉ bỏ đi một chốc lát mà thích khách đã giết từng này con người. Hơn nữa, những người đã ngã xuống đều là cao thủ của Cấm vệ quân, Bệ hạ cải trang vi hành tất phải dắt theo những hộ vệ có võ công cao cường, thế mà họ vẫn bị giết. Võ nghệ của gã thích khách này thực sự khó lường khiến tôi không dám tưởng tượng nữa. Lý Thừa Ngân nhặt một thanh kiếm rồi đứng bật dậy, lao phắt qua cửa sổ.

Tôi gào lên thất thanh:

- A Độ!

Chẳng rõ A Độ đã chạy đi đằng nào, sực nhớ chuyện lần trước, tôilo ngay ngáy, không biết A Độ an nguy thế nào. Lại thêm nỗi hoang mang vì Lý Thừa Ngân, với võ công cái thế của gã thích khách kia, muốn giết tôi và Lý Thừa Ngân quả thực dễ như trở bàn tay. Tôi cũng lượm một thanh kiếm giữa vũng máu, lao ra khỏi cửa sổ theo hắn, tự nhủ muốn giết thì cứ giết, cùng lắm là chết.

Phía sau là một khoảng sân nhỏ, chính giữa có đắp núi đá được chuyển về từ phương Nam xa xôi, xếp giữa vườn để đỡ mấy cây hoa, giờ tiết trời vẫn lạnh, cây cối chưa đâm chồi lộc mới. Đi qua núi đá, Lý Thừa Ngân chợt đứng sững lại, vòng tay ra sau đẩy tôi lùi lại, nấp sau người hắn. Sỏi đá dưới chân tôi gồ ghề, tôi ngây người dán mắt lên gáy hắn, bỗng nhớ lại lần gặp thích khách trước đây, hắn cũng đẩy tôi ra như thế này. Cảm xúc chua chát quyện lẫn ngọt bùi không thể gọi tên đang dấy lên trong tôi. Tôi kiễng chân phóng tầm mắt nhìn quanh, qua bờ vai hắn, tôi thấy đằng xa có vài gã mặc đồ đen đang giằng co vây hãm một kẻ bịt mặt. Võ công của người đứng đầu phe vận đồ đen có vẻ cao cường, thế nhưng rõ ràng hắn không phải đối thủ xứng tầm với thích khách. Phe mặc đồ đen đều là những cao thủ đứng đầu Cấm vệ quân, tuy đang bị trọng thương, song họ vẫn chiến đấu ngoan cường. Gã thích khách kia một tay lăm lăm thanh kiếm, tay kia khống chế một người khác, chính là Bệ hạ. Mặc dù tên thích khách một tay kẹp chặt cổ tay Bệ hạ, tay còn lại cầm kiếm, nhưng kiếm pháp hắn tung ra vẫn nhanh như chớp, mỗi đường kiếm đều vạch lên thân thể những người phe mặc đồ đen một vết thương chí mạng. Nhờ có ánh trăng, tôi mới nhận ra trên núi đá loang lổ những vệt máu. Bấy giờ, ở nơi xa văng vẳng vọng lại tiếng rền vang như sấm. Gã thích khách bỗng đưa kiếm kề ngang cổ Bệ hạ, tất thảy những kẻ đứng đó không một ai dám nhúc nhích, đành bất lực mở trừng mắt nhìn hắn.

Lý Thừa Ngân hét:

- Bỏ người đó ra!

Giọng nói ấy vang lên rõ ràng như tiếng sấm.

Tôi không rõ có phải bầu trời đang dậy sấm không. Tiếng động trầm vang phía xa kia vừa rền rĩ vừa vang dội, rất giống tiếng sấm đầu xuân. Chưa bao giờ tôi thấy sợ như hôm nay, không phải nỗi sợ khi chứng kiến căn phòng đầy những xác người, cũng không hề thấy kinh hãi trước một gã thích khách xuất quỷ nhập thần, mà chỉ là canh cánh không yên về một điều gì đó không rõ ràng.

Tiếng sấm mỗi lúc một rõ, một gần. Qua một lúc, tôi mới nhận ra đó không phải tiếng sấm, mà là tiếng vó ngựa. Tiếng vó ngựa văng vẳng từ bốn phương, tám hướng, đang tiến đến phường Minh Ngọc bé nhỏ này. Trước kia, chưa bao giờ tôi được nghe tiếng ngựa nện móng dồn dập đến thế. Cho dù trên thảo nguyên tôi từng chứng kiến cha mình dàn binh tập trận, điều quân xung phong… nhưng âm thanh ấy không vang dội như thế này. Thoạt đầu tôi còn nghe loáng thoáng tiếng người kêu gào hoảng sợ trong phường Minh Ngọc, rồi tiếng ồn ào từ lầu trước, cuối cùng, tôi chỉ còn cảm nhận được rằng, nhà cửa bốn phía cũng như đang lắc lư, bụi trên đấu củng rơi lả tả. Gian nhà phía trước giờ đây tịnh không một tiếng người, chỉ nghe tiếng vó ngựa cuồn cuộn như cơn thủy triều đáng sợ đang lao đến, giáng xuống như những trận cuồng phong, bão cát kinh hoàng nhất trên sa mạc, cuốn theo cát bụi bay mù mịt. Vạn vật giữa đất trời chìm nghỉm trong âm thanh đáng sợ kia.

Gã thích khách im lặng, tay lăm lăm thanh kiếm khống chế Bệ hạ, lùi từng bước.

Không một ai dám manh động, bỗng Bệ hạ quát:

- Tằng Hiến! Giết thích khách đi!

Thì ra thủ lĩnh phe áo đen tên là Tằng Hiến. Tôi đã từng nghe thấy cái tên này, biết ông ấy là tướng chỉ huy có tiếng trong Thần vũ quân[55], võ công cái thế, nghe đồn một trăm người không địch nổi một mình ông ấy. Bả vai Tằng Hiến đang rỉ máu, ông ấy bước từng bước một. Mũi kiếm của gã thích khách kia sắc lạnh, ngời ánh thép, kề ngay cổ Bệ hạ. Giằng co mãi cũng không phân thắng bại, tôi bức bách đến nỗi mồ hôi nơi sống lưng rịn ra buốt lạnh. Lý Thừa Ngân bỗng phá lên cười, nói với thích khách:

[55]Tên gọi của Cấm vệ quân đời nhà Đường.

- Ngươi biết ta là ai chứ?

Gã thích khách bịt mặt kín mít, chỉ lộ ra đôi mắt, ánh mắt ráo hoảnh, vô tình không có bất cứ biểu cảm nào, ánh nhìn lạnh lẽo quét trên người Lý Thừa Ngân.

- Bây giờ cánh quân tiếp viện của Thần vũ quân hẳn đã bao vây kín chỗ này, ngươi mà phản kháng, ắt trở thành tấm bia cho ngàn vạn mũi tên. Chỉ cần ngươi buông kiếm hàng, ta đảm bảo sẽ giữ lại mạng sống cho ngươi.

Ánh mắt của tên thích khách sáng quắc, thoáng tia do dự. Lý Thừa Ngân tiếp lời:

- Nếu ngươi không yên tâm, ngươi cứ bắt ta làm con tin, đợi ngươi bình an rút lui rồi phóng thích ta sau.

Lòng bàn tay tôi túa mồ hôi, thậm chí chuôi kiếm đang cầm trơn tuột. Lòng hạ quyết tâm, từ phía sau Lý Thừa Ngân tôi nhảy vọt ra:

- Hãy bắt ta làm con tin, dẫu sao ta cũng chỉ là phận nữ nhi yếu đuối, ngươi sẽ không phải lo ta giở trò. Đợi ngươi rút lui an toàn rồi thả ta về sau.

Lý Thừa Ngân quắc mắt nhìn tôi, tôi chẳng buồn quẳng cho hắn một cái lườm. Tôi thừa hiểu ý hắn, mà cũng biết đây không phải trò đùa, nhưng với tình thế trước mắt, bảo tôi trơ mắt nhìn thích khách bắt hắn làm con tin, tôi không đành lòng.

Tên thích khách vẫn lặng thing, chỉ có thanh kiếm lạnh lùng chĩa ra. Tằng Hiến đang đợi tiếp viện nên cũng không dám làm căng, đôi bên cố cầm cự.