Hòn Đất - Chương 07 phần 1

Vào đến miệng hang, tên thiếu úy Ba một mặt cho lính chạy vào xóm kiếm thằng Xăm, một mặt cho rạch mấy bao vôi, ớt. Chúng đổ rắc vôi và ớt bột vào tất cả các bó rơm rồi dùng sào tre xiên qua các bó rơm đó, đẩy tới miệng hang. Rơm mới đùn tới miệng hang thì súng trong bắn xổ ra. Rơm khô bị những viên đạn nóng rảy cọ xát, ngún khói và trong nháy mắt cháy bùng lên. Tên thiếu úy nằm rạp xuống cỏ từ nãy giờ thấy thế liền bật cười hô hố. Hắn co chân đạp gió lia lịa, la lên:
Tốt lắm, tụi nó mồi lửa giùm mình, đẩy rơm vô, đẩy rơm vô nữa đi!
Bọn lính cầm sào tre ra sức đẩy rơm tới giữa miệng hang. Lát sau miệng hang dùn đầy rơm, bộn bề, xù xụ. Rơm khô bén lửa cháy phừng lên giữa buổi traư nắng chang chang.
Súng bên trong cũng im mặt không bắn ra nữa. Bọn lính tiếp tục dùng sào đẩy rơm vào miệng hang. Tên thiếu úy vẫn nằm xoài trên cỏ. Theo lệnh hắn, những tên xạ thủ súng máy nằm bên cạnh đã đặt tay lên cò súng, sẵn sàng quét đạn về phía miệng hang nếu có ai từ trong đó vụt chạy ra. Tên thiếu úy chòi chòi hai gót giày giữa khoảng không, đắc chí bảo:
Đ.mẹ, khói ớt mà chịu gì nổi? Trận này chuột phải bò ra khỏi hang thôi. Hễ thằng nào vọt ra, tụi bây quét liền cho tao!
Những tên xạ thủ súng máy mím môi đợi. Nhưng chúng chưa thấy bóng người nào ra cả. Chỉ có đám lính đứng lố nhố gần miệng hang vụt chạy lùi trở lại. Tên thiếu úy hỏi lớn:
Cái gì, cái gì mà chạy?
Bọn lính không đáp. Thằng nào thằng nấy cứ ôm ngực ho sặc sụa, chạy tháo lui. Thì ra rơm cháy lên nhưng khói không chịu lùa vào hang. Luồng khói trắng xám bốc từ đống rơm cháy bị gió trong hang lồng ra, cuồn cuộn tạt qua hai bên miệng hang. Bọn lính đứng gần đó bị luồng khói độc địa phả vào mặt. Chúng hít phải hơi ớt và vôi bột, chịu không nổi, vùng chạy trối chết. Nước mắt, nước mũi trên mặt chúng chảy giàn giụa cả ra. Có thằng bị khói ớt xông lên cay buốt tận đỉnh đầu, đứng không vững phải ngồi khuỵu xuống. Có thằng mở mắt ra không được. Vừa đi vừa quờ tay như bị mù.
Tên thiếu úy Ba ức lắm, nhỏm dậy chạy lại coi. Hắn cũng liền bị khói phả vào mặt, ho sằng sặc và quay lui. Nhưng luồng khói không ngừng miết vào hai mép hang, lùa theo. Hệt như ở trong đó có người đang quạt thốc khói ra vậy. Nhưng kỳ thực trong đó nào ai quạt. Lỗi lầm này là cũng bởi tại bọn giặc quá ngu xuẩn mà thôi. Trong một cái hang đã có sẵn khối thể khí, nay lại dồn khói vào, tất nó không nhận thêm.
Ban sáng khi bọn lính đi cướp rơm của bà con trong xóm có để lộ ý định xông hang thì nhiều bà con đã cười thầm trong bụng rồi.
Ông Tư Đờn đã nói với bọn lính:
Tui tiếc chi ba cọng rơm, mấy người muốn lấy rơm đem xông Việt cộng thì cứ lấy. Tui chỉ e không ăn thua gì đâu!
Sao không ăn thuá
Không xông nổi đâu!
Một tên bảo:
Thôi, đi vác rơm đi tụi mày, ở đó nói lần khân với ổng làm chi, ổng mù, chuyện giặc giã làm sao ổng biết được!
Chúng không dè ông Từ Đờn biết rõ: Ông biết không thể nào xông khói vô hang được, nên ông mới nói thế.
Bây giờ lời nói ông đã được chứng thực. Khói cứ vẫn bay ngược trở ra. Tên thiếu úy mắt nhắm mắt mở bảo bọn lính:
Như vậy không xong. Tụi bây phải vác sào chỏi đống rơm đó vô miệng hang sâu sâu một chút mới được.
Ba bốn thằng lính cầm sào tre, mon men lại gần miệng hang vừa đi vừa tránh khói thổi tạt vô mặt. Chúng đứng lóm thóm tại đó một chút rồi liều mạng nhảy đại ra trước miệng hang, cầm sào đẩy rơm vào lia lịa. Đống rơm đang cháy bị đẩy vào sâu hơn. Bọn lính đẩy xong vội vàng chạy lùi về. Nhưng lần này tên thiếu úy và cả bọn lính đều thất vọng. Khói trong miệng hang vẫn cứ cuồn cuộn bay ra. Một bên lính giụi mắt càu nhàu:
Gẫm ra ông già mù trong xóm nói phải. Khói không chịu bay vô mà ăn thua mẹ gì!
Anh Ba à, nhắm không êm thì mình rút về tính kế khác, chớ láng cháng ở đây...
Phải đó, ở đây không nên, rủi tụi nó trong hang xổ ra mình trở tay không kịp1
Tên thiếu úy Ba tức giận quát lớn:
Không nên, không nên cái con c... Tụi nó ra thì sanh tử với tụi nó, không rút đi đâu hết thảy!
Hắn lại chửi thề thêm một câu nữa, rất tục. Rủi thay, giữa lúc hắn đang nổi giận thì từ trong mé vườn có một tên lính hớt hải chạy ra. Đó là tên lính ban nãy theo lịnh hắn vào xóm kiếm thằng Xăm.
Tên này chạy đến nơi, mặt xanh mét không còn một giọt máu. Nó nói như muốn đứt thở:
Trung.... Trung úy chết rồi!
Tên thiếu úy Ba chưng hửng, chưa kịp hỏi thì tên lính lại hổn hển nói:
Thằng Hai Nhỏ cũng chết... Trung úy với thằng Hai Nhỏ bị chém. Trung úy đứt đầu. Châu cha, máu chảy đầy một bộ ván...
Ai chém? Bắt được chưa? Mà chém ở đâu?
Tại nhà bà già của trung úy. Chưa biết ai chém. Tôi bước vô thấy hai người nằm, ruồi bu đầy cổ, chớ không thấy có ai ở đấy hết1
Thôi chết mẹ rồi,Việt cộng trong xóm bắt đầu ám sát rồi!
Tao nghi...
Mặt tên thiếu úy tái hẳn lại. Hắn hỏi:
Cho thiếu tá hay chưa?
Tên lính đáp:
Rồi, tôi chạy lên cho ổng hay rồi!
Ông nói sao?
Ông đương nhậu, buông rớt bể cái ly...
Tên thiếu úy không hỏi thêm gì nữa. Hắn liền ra lịnh bỏ cuộc un hang. Bọn lính vứt sào tre, không màng tới đám rơm còn đang cháy hù hù. Tất cả kéo nhau qua khoảng đất trống. Những tên lính bị chảy nước mắt và những tên lính không bị chảy nước mắt, tất cả đều bị cái tin rùng rợn kia làm cho chân tay bủn rủn. Đây là lần đầu tiên bọn lính biệt kích hoang mang run sợ nhất.
Lâu nay thằng Xăm gây cho chúng lòng cuồng tín cao độ. Bọn chúng vẫn tin rằng hễ có mặt thằng Xăm trong trận đánh phá nào thì trận đánh phá đó ắt phải kết quả. Chúng tin rằng đi theo thằng Xăm thì chỉ chúng giết được người khác chớ người khác không bao giờ giết được chúng. Lâu nay thằng Xăm là tiếng reo hò thúc giục chúng xông vào tội ác. Khi phát hiện trên đồng nước một bóng cán bộ nào thì hắn chạy sải tới như ngựa, hạ lệnh rượt đến cùng, dù làng nước ấy ngập có tới gối, dù người cán bộ đó ở cách xa hằng ba bốn cây số. Đi biệt kích, hắn thường đánh thức bọn chúng dậy giữa đêm mưa và nói rằng chỉ có đi trongđêm mưa mới đánh được Việt cộng. Ban đầu bọn chúng còn rụt rè chưa dám ăn thịt người, thì thằng Xăm nhai nghiến ngấu, luôn miệng bảo trên đời không có thịt con nào ngon hơn thịt con người. Đối với phụ nữ, trừ mẹ và em gái, hắn có hiếp bất cứ ai. Sau lúc hiếp hắn còn cắn vú họ, hút máu, và nói rằng máu đàn bà còn bổ hơn máu đàn ông.
Hắn là một đứa như thế. Và chính nhờ thế hắn mới được Ngô Đình Diệm phong là một trong sáu anh hùng của quân đoàn bốn, trấn cứ tại miền Tây Nam Bộ. Đại đội biệt kích của hắn chả khác gì con rắn độc, mà hắn là cái đầu. Bây giờ đầu rắn bị chặt rời nên mình rắn là cái bọn biệt kích kia cũng tức khắc oằn oại.
Trên mặt tên thiếu úy Ba, vẻ hùng hồn đã chết lặng, nhường chỗ cho nỗi hoảng sợ hiện lên làn da mặt mỗi lúc một xanh tái. Từ khoảng đất trống dẫn tới mé vườn, hắn đi vấp ngã mấy lượt. Đôi tên biệt kích còn ngó ngoái lại miệng hang. Hôm nay đứa nào cũng thấy trong người rã rời. Cái tin thằng Xăm bị chết một cách đột ngột cùng cuộc un hang thất bại gieo vào lòng chúng nỗi chán ngán đến mệt mỏi. Sau lưng chúng, đống rơm ở miệng hang đã cháy rụi. Khói trắng bay là là ra tới khoảng đất trống. Đống tro rơm trên miệng hang bỗng sụp xuống và phần trên miệng hang lộ ra.
Cả bọn kéo về tới bên bờ suối. Tên thiếu tá cũng có mặt ở đó. Khi biết việc đốt hang thất bại, hắn lầm bầm chửu tục, mặt quạu quọ
Từ đêm qua tới nay hắn gặp toàn chuyện rắc rối. Mấy hôm trước dân Hòn Đất còn im lặng. Thế mà từ sau khi hắn xuống lệnh giết chết một người con gái thì ngay đêm đó hắn bắt đầu phải đối phó với bao nhiêu vụ. Nào là dân chúng biểu tình ban đêm, nào là dân chúng bắt bọn lính đốn tre dẫn tới chỗ hắn, đòi hắn phải bồi thường. Rồi thằng Xăm bị chặt đầu, rồi kế hoạch un hang do hắn bày ra đã hỏng bét.
Sau khi chửi thề, hắn nói với tên thiếu úy Ba:
Thôi được, un hang không được thì sẽ lấp hang. Về vụ này tôi nghi trung úy Xăm và thằng Hai Nhỏ bị con mẹ đằng Thổ chém. Nghe nói con mẻ điên...
Thưa thiếu tá, tôi cũng nghi vậy. Đâu có ai vô đó... Con mẹ đo coi ghê lắm, phải bắt con mẻ đó mới được!
Nó trốn rồi. Tự nãy giờ cho lính kiếm giáp xóm mà không gặp. Tôi tính bắt con nhỏ đằng Thổ lai em của trung úy Xăm đem về khảo thử, nhưng dân chúng họ cự dữ quá, họ giựt con nhỏ đó lại...
Thưa thiếu tá, tụi dân chúng ở đây coi bản mặt đứa nào cũng lầm lầm lì lì. Chắc phải "mổ" vài đứa cho tụi nó hoảng mới được.
Tên thiếu tá không đáp, đưa cánh tay đen nhánh lên nhìn đồng hồ. Hắn nói:
Gần hai giờ rồi. Bây giờ anh cho lính tới đó vác xác hai người đem chôn đi. Tôi còn phải lại trường học coi số lính bị thương hổm rầy ra sao. Nghe nói họ rên la dữ quá. Đ.mẹ kêu trực thăng rát cổ họng mà chớ có tới một chiếc. Bộ bị Việt cộng bắn rớt hết rồi sao không biết?...
Tên thiếu tá nói xong, quay lưng kêu bọn lính đi với mình vào xóm.
.... Tại cái trường học mà ngay từ hôm đầu tiên bọn chúng đã vứt tất cả bàn ghế ra sân, tên thiếu tá đứng trước một cảnh tưởng khủng khiếp. Trên những tấm vải bạt xám trải đất, bọn lính bị thương nằm chặt hết không còn một chỗ trống. Những thân hình xám xịt, hôi hám buộc đầy bông băng cứ ngọ ngoạy tay chân, quờ qua quờ lại. Trên vải bạt vương đầy những miếng bông dán máu khô sẫm và những lớp vải băng tuột ra lòng thòng, giây máu giây đất trông rất bẩn. Bọn lính bị thương chửi rủa luôn miệng và rên rỉ đủ kiểu khác nhau tùy theo thương tích của từng tên. Chúng rên hư hư như trẻ con khóc. Chúng chắc lưỡi hoặc rít dài. Có tên thở hộc hộc và có những tên từ cuống họng chợt phá ra tiếng ơ ớ như người nằm mê gặp mộng dữ, muốn rú lên mà không rú được.
Tại đây chỉ còn lại bọn lính bị thương nặng. Bọn bị thương nhẹ có hy vọng tiếp tục cầm súng đã được chở đi hồi trưa hôm qua, cùng chuyến trực thăng đổ xuống lấy xác tên Mỹ.
Tên thiếu tá chau mày trước những hình hài lăn lộn, đang rên rỉ và chửi rủa. Mấy tên nằm ở gốc ngoài chẳng biết có thấy thiếu tá của chúng đang đứng đấy hay không, mà chúng cứ lôi tên thiếu tá ra chửi. Nghe chửi một lúc, tên thiếu tá nóng mặt hất hàm bảo bọn lính:
Tụi bây biểu nó câm miệng đi, không thôi ta xổ cho một băng đạn bây giờ!
Một tên lính chạy sấn vào nạt lớn:
Im đ, làm gì mà cứ rống lên vậy. Thiếu tá bắn chêt mẹ hết bây giờ!
Đ.mẹ, thiếu tá, thiếu tá đâu? Thiếu tá đâu?
Mấy tên lính càng chửi dữ rồi chồm tới phía cửa, muốn chụp chân tên lính vừa nói. Tên lính hoảng sợ rụt chân, lui lại. Bọn bị thương gào lên như xé họng. Chúng bò nhoài ra phía cửa hông ngôi trường, chửi xối xả vào mặt tên thiếu tá, bảo rằng chính hắn đã bắt chúng đi chết bỏ vợ bỏ con. Tên thiếu tá đứng yên cúi nhìn mấy tên lính bị thương đang chồm về phía mình. Hắn thét:
Câm, tao biểu câm miệng!
Nhưng bọn này vẫn không ngớt lời quyền rủa. Chúng còn hăm nếu mà chúng chết, chúng sẽ bắt hồn tên thiếu tá đi theo.
Một bàn tay dài ngoẵng của tên lính đã với lên tới mũi giày da đen cao cổ bám đầy bụi của tên thiếu tá. Tên thiếu tá nháy mắt bảo tên lính mang tôm-xông đứng gác tại cửa:
Bắn nó cho taó
Tên lính kéo tôm-xông ra khỏi vai. Nhưng rồi tên lính ấy cứ đứng trơ ra, miệng há hốc, ngón tay đặt nơi cò súng cứ run lẩy bẩy. Nó không bắn được. Tên thiếu tá không đợi nữa. Hắn thò tay mở bao súng rút khẩu "côn 12" chĩa xuống cái đầu băng bó đỏ lòm dưới cân mình bắn "đẹt" ngay một phát. Người lính bị thương chúi đầu xuống, hai bàn tay ôm lấy ống giày tên thiếu tá từ từ buông rời ra.
Sau khi giết chết tên lính, tên thiếu tá quay mũi súng sang tên lính cầm tiểu liên tôm-xông, nghiến hàm răng vàng lóa:
Ê, sao biểu bắn mày không bắn mậy?
Tên lính không đáp. Nhưng khẩu tôm-xông trong tay tên lính tự nhiện cũng chĩa vào người tên thiếu tá. Hai họng súng đều run run. Tên thiếu tá bỗng tái mặt. Hắn thấy đôi mắt tên lính bây đỏ ngầu, và bàn tay trái của tên lính nắm chặt lấy băng đạn tôm-xông còn đầy ắp. Lát sau, tay súng ngắn gên thiếu tá từ từ hạ xuống. Hắn vừa đưa mắt nhìn tên lính, vừa cho súng vào bao. Tên lính thì vẫn cứ chĩa họng súng vào người hắn. Đến mấy giây sau, tên lính mới chúc mũi súng, khoác mạnh vào vai.
Rời cái trường học cứ văng vẳng tiếng rên la, tên thiếu tá nghĩ: "Mình phải giết thằng này mới được. Nếu không nó sẽ bắn mình".
Tên lính cũng mấy lần liếc nhìn tên thiếu tá: "Thế nào nó cũng trả thù. Có dịp là mình phải bắn hạ nó trước!"
Trên đường đi, hai tên cùng một lúc đoán đúng bụng dạ và ý định của nhau.
Tới gần bốn giờ chiều, một chuyến máy bay trực thăng của giặc đến Hòn Đất. Giữa tiếng sóng biển, động cơ trực thăng vẫn vọng rõ, nghe hù hù, ở bên trên tiếng sóng. Đến lúc người Hòn Đất nghe tiếng động cơ ầm ầm thì ngước mắt lên, họ đã trông thấy tất cả có sáu chiếc từbiển bay vào. Gồm có bốn chiếc trực thăng hai động cơ mà bấy giờ bà con đã quen gọi là "cán gáo". Cái hình thù của những chiếc trực thăng này nom rất quái đản. Nó gieo cho bà con nông dân thuần phác cái ấn tượng về sự bất lương, vừa thô bạo lại vừa rất đỗi ma mị.
Trên vòm trời xanh ngăn ngắt, những hình thù đó hiện ra ngọ ngoạy lủi tới, đe dọa mọi người. Khi chúng bay qua khỏi bờ biển trào sóng, lập tức cả sáu chiếc đều sà xuống thấp. Những cái chong chóng to lớn ở gần đầu và gần đuôi chúng quay tít, kêu lạch cạch, tưởng chừng như chúng sắp sửa đổ xuống đến nơi. Nhưng không, chúng vẫn đang bay. Có điều là chúng bay thấp, nên vườn lá liền chuyển động. Những tàu lá dừa gặp phải trận gió cuộn lốc, lúc oằn xuống, lúc cong vút lên. Vườn vú sữa, vườn măng cụt, vườn li-ki-ma bỗng rào rào, vật vã. Tất cả mọi chiếc lá còn đẫm ánh mặt trời bị thổi riệt bay lật ngược ra sau thân cành.
Đàn trực thăng nặng nề sà qua những vườn quả đó, nơi màu xanh mướt mượt của cây lá tiếp giáp với màu xanh sẫm của biển chiều. Những con quái vật này rít rống, rền rĩ bay quá tu những trái măng cụt nâu rám, trái vú sữa tím ửng, trái mãng cầu ta xanh phơn phớt và như có rắc phấn. Chúng bay qua Hòn Đất nín lặng, bấy giờ ở miệng hang còn lơ lửng vài làn khói rơm yếu ớt, mong manh như những sợi chỉ.
Đàn trực thăng bay qua khỏi Hòn Đất một đỗi bỗng vòng trở lại ruộng trống. Lần này đầu máy bay trực thăng nhủi xuống. Tiếng động cơ nổ ầm ầm, vang rền. Trông chúng giống như những con cá lốc lơi vội, mà những cong chóng trên thân thì lại giống như những cái vây cá đang quạt. Cửa hông sáu chiếc máy bay đều đã hoác và bắc sẫn thang. Mấy tên Mỹ ló đầu ra các cửa sổ ấy, ngó xuống. Tên Mỹ nào cũng đeo kính đen lớn, mặt đỏ gay.
Sáu chiếc trực thăng lần lượt hạ xuống mặt ruộng. Những gốc rạ liền vật vã, cơ hồ như sắp bị nổ bật cả gốc lên.
Khi những chong chóng trực thăng lạch bạch quay chậm lại thì bọn lính trong vườn chạy ùa ra. Hai tên Mỹ trên máy bay bước xuống thang, đi về phía chúng. Hai tên Mỹ xì xồ nói gì, rồi có mấy tên lính chạy trở vào ven vườn. Bọn lính còn lại đi đến chỗ các máy bay đậu, leo lên thang. Chúng khuân trong máy bay ra rất nhiều bao xi măng, một số thùng sắt sơn xám, và cuối cùng là một cái chân máy chiếu bóng cùng những cái loa lớn.
Tên thiếu úy tâm lý chiến bộ mặt vênh váo chạy lộp bộp đến bên thằng lính vác cái chân chả ba. Hắn rờ rẫm cái chân máy chiếu bóng, nói với lũ lính:
ý kiến của tao đã được bên trên chấp thuận. Hay lắm, máy móc và phim đã tới. Anh em sẽ được coi xinê!
Hát bóng hả thiếu úý
Phải, hát bóng!
Bỗng phía sau lưng, một tên lính, thở dài:
Non nước này mà còn mà hát bóng. Vui vẻ gì mà hát!
Tên thiếu úy nghe lọt tai câu nói. Hắn trề môi:
Ê, không phải chiếu cho tụi bây coi đâu. Đây là chiếu cho tụi Việt cộng và dân chúng coi, hiểu chưa?
Sao lại chiếu cho Việt cộng và dân chúng coi, thưa thiếu úy?
Tụi bây khờ quá, đánh với Việt cộng mà đánh bằng súng đâu có được, phải đánh bằng cú tâm lý nữa chớ. Để tao nói cho nghe, bộ phim này là bộ phim của Hoa Kỳ, gay cấn lắm, quay cảnh Huê Kỳ đánh với Trung cộng và Bắc Cao tại một trái núi. Huê Kỳ đánh tan trái núi đó làm tụi Trung cộng và Bắc Cao chết không còn một mạng...
Tên thiếu úy dừng lại, tự trỏ vào ngực:
Sáng kiến của tao đó nghe. Tao yêu cầu trên cho đem chiếu bộ phim đó trước cửa hang để tụi Việt cộng trong hang coi đặng, rủn chí. Chừng chiếu sẽ dồn dần Hòn Đất tới coi nữa, cho nó ngán...
Bọn lính tấm tắc:
Vậy thì hay lắm1
Một tên vọt miệng khen:
ờ, chiếu cái tuồng đó chắc tụi nó ớn. Thiếu tá có sáng kiến thiệt. Hèn chi thiếu úy theo ngành tâm lý chiến là phải
Tên thiếu úy được khen phổng mũi. Hắn lấy giọng nghiêm trang:
Đánh với Việt cộng phải đánh vậy mới được chớ. Nè, mà tao dặn, tụi bây biết vậy thôi. Không được đi nói rum nghe chưa?
Bón lính bảo là sẽ không nói với ai. Chúng hè hụi khiêng vác đồ đạc vô vườn. Bọn này đi vô tới vườn thì gặp số lính bị thương cũng được võng ra tới.Tất cả có đến ngót năm mươi tên, mình mẩy băng bó, đứa nằm cong mình như con tôm, đứa nằm ngoẻo đầu trên mặt võng. Những chiếc võng ấy đi tới đây là đem theo mùi hôi thối và tiếng rên la tới đó. Trên mặt ruộng ngã chiều, bọn lính khiêng võng đi xồng xộc. Võng bố cứ oặt òa oặt oẹo đưa đẩy thân hình các tên lính đang oằn oại kia không chút thương xót. Trong bọn lính cáng võng có những tên ngồm ngoàm cạp một trái mãng cầu ta hoặc một trái vú sữa mà chúng nhặt được trong vườn. Mặt các tên lính đó coi hám ăn, hau háu. Trông chúng mới thản nhiên làm sao, trông chúng vẫn như thường. Dấn thân vào con đường đi đánh giặc mướn, tình đồng loại trong chúng đã chai đi.
Nhưng dù thế, chúng cũng còn ra sức khiêng vác bọn bị thương. Chỉ có bọn Mỹ mới thực là lạnh nhạt. Phần lớn chúng đều ngồi trên máy bay đã đậu im. Chỉ có hai tên xuống lúc nãy, giờ đứng trên khoảnh đồng, miệng ngoạm điếu thuốc dài non gang tay, phì phèo. Cả hai đều đứng xoạc chân, một tay khoanh nơi ngực, một tay thỉnh thoảng lại giật phắt điếu thuốc lá ra khỏi mép.
Khi những chiếc võng oặt oẹo tiến tới, chúng khẽ nhấc cặp kính đen đeo mắt xuống để nhìn. Rồi cả hai tên như cùng một lúc đứng nánh ra, đưa bàn tay phẩy ngang mũi. Từng chiếc võng một cứ thế nặng nề đi qua, cùng với tiếng rên và mùi hôi thối. ở một vài chiếc võng thấy nhễu xuống những giọt gì, không rõ là giọt máu hay là mủ, hay là nước rỉ vàng. Hai tên Mỹ ngoảnh mặt chỗ khác, rít thuốc, khạc nhổ lia lịa xuống ruộng.
Đám lính khiêng võng lần lượt đi qua. Những tên lính đầu sau khi trút bọn bị thương lên sàn máy bay, giờ đã quành lại. Chúng kéo lệt bệt đôi chân giày của chúng và lôi xệch những chiếc võng không trên ruộng rạ.
Sáu chiếc trực thăng bắt đầu nổ máy trở lại. Đầu tiên động cơ gầm gừ làm cho máy bay như rùng mình nhất loạt. Sau đó chúng mới gầm lớn hơn, lớn hơn nữa. Những cái chong chóng gỗ ếp nãy giờ rũ cụp xuống, nay lại dửng lên, từ từ quay. Chong chóng quay nhanh dần, nhanh dần rồi sau cùng chỉ thấy vun vút, loang loáng và phát ra tiếng ù ù, lạch bạch.
Lúc máy bay sắp cất cánh, tên thiếu tá ra tới. Hắn bắt tay hai tên Mỹ đứng dưới ruộng, nói chuyện với chúng. Trong câu chuyện, đôi khi hắn cau mày. Mặt hai tên Mỹ thì cứ khinh khnh. Thằng trung úy Mỹ vừa nói bằng cái giọng như nghẹt mũi vừa hút thuốc, hút hết điếu này lại mồi điếu khác. Về sau một tên Mỹ trên máy bay thò tay ra cửa sổ ngoắc và la:
Quick, quick!
Hai tên Mỹ quay lưng chạy về phía máy bay. Tên thiếu tá chạy theo đến bên chiếc máy bay "cán gáo" mà hai tên Mỹ vừa leo lên. Tên Trung úy Mỹ thò đầura, vẫy tay chào hắn. Hắn đứng khựng, mái tóc chải ốp xửng lên, cứng còng trước cơn gió cuộn của cánh quạt trực thăng. Sau cùng hắn giơ cả hai cánh tay ra, nói lớn:
You please, if you please
Tên trung úy nhếch miệng cười, gật gật đầu. Hắn khoát tay ra ý bảo tên thiếu tá lùi ra. Tên thiếu tá vội đi giật lùi.
Máy bay bắt đầu nổ máy mạnh hơn. Cặp thứ nhất bốc thân mình khỏi mặt đất. Chúng bay lên từng cặp một.
Tên thiếu tá giờ như đứng giữa trận dông khô. Đồng rạ dưới chân hắn chấp chới như muốn bứt gốc bay lên hết cả. Lúc những bụi rạ ấy đứng yên lại như cũ thì lạ thay, có những bụi không cất lên được nữa. Màu rạ mới trước vàng tươi, nay chợt xám ngoét.
Không phải chỉ có chỗ trực thăng hạ, cũng không phải những bụi rạ này cũng bị sức gió thô bạo của những cái chong chóng trực thăng kia xô bẹp. Đây là do những mùi máu hôi thối từ các võng nhểu xuống ban nãy, cộng thêm ánh nắng hắc của ngày tàn, nên mấy bụi rạ đó mới sinh thối lây, rủ nhẹp xuống, tên thiếu tá theo cái lối mòn rạ rũ đó mà đi vô vườn. Trong lúc sáu chiếc trực thăng một lần nữa ầm ã chở những tên lính hấp hối sà ngang vườn cây Hòn Đất, bay ra biển.
Tên trung úy ngồi ló đầu ra cửa sổ máy bay. Sau lằn kính râm màu xám nhợt, hắn nhìn thấy sóng biển chạy trườn vào bờ, rồi sóng ấy sủi trào, giạt trở lại. Hắn còn nhìn thấy bãi cát dợn lên lăn tăn, dấu vết của nước triều cùng ngày tháng. Và kia, những cọc nò nhô khỏi mặt biển không ngớt bị sóng vỗ vã. Một cái nhà trại cất trên những cột to phơi đầy lưới, chung quanh bồng bềnh vài chiếc ghe và xuồng.
Trại nò với hàng rào cách khoảng ấy gợi tên trung úy nhớ tới những cái tháp đèn và những phù tiêu trên một cửa biển nào đó mà hắn đã có dịp đi qua. Đấy là ranh giới cuối cùng đã đặt cái hòn xanh thẳm rất đỗi xa lạ kia ở lại sau lưng hắn.
Những chiếc trực thăng bay với tốc độ mau hơn. Giữa tầng không, bấy giờ chợt hiện ra mấy cụm mây khói đen trĩu nước và biển bên dưới hình như đã bắt đầu sôi sục. Sóng biển trong nháy mắt chuyển từ màu xanh mênh mông trở thành màu chỉ xám xịt.
Tên thiếu úy rụt đầu vào, hạ tấm cửa kính dầy xuống lẩm bẩm:
Trời xấu rồi!
Có lẽ sắp mưa. Tên thượng sĩ ngồi bên nói
Tên thượng sĩ nói xong đứng bật dậy khỏi ghế da, ghé mắt dòm xuống mặt biển chao sóng, miệng thì thào, run run:
Thưa trung úy, chúng ta ra tay đi thôi:
Còn gần bờ lắm.
Tên trug úy đáp và đưa tay lên xem đồng hồ. Hắn bảo:
Năm phút nữa.
Cánh tay đeo đồng hồ của tên trung úy đặt lên tấm kính cửa sổ, rờ rờ. Mấy ngón tay múp míp mọc đầy những sợi lông vàng xoăn của hắn lướt trên mặt kính, ngọ ngoạy, bồn chồn.