Hòn Đất - Chương 07 phần 2

Từ khi bốc lên khỏi mặt đất, thân máy bay rung chuyển không ngớt. Những người lính bị thương nặng, nằm trên sàn máy bay càng thêm vật vã. Tiếng rền rĩ của họ bị động cơ ầm ầm lất ái đi không còn nghe thấy nữa.
Thân máy bay rung chuyển bắt máu từ các vết thương họ chảy ộc ra. Trường hợp chấn thương này mới gớm ghê hơn cả mọi trường hợp chấn thương khác. Nó không va xốc mạnh, nó chỉ đánh động từ từ, với nhịp độ đều đều mà không dứt. Nó là sức máy, vì vậy nó lâu bền một cách độc ác. Máu của từng người lính bị bị xốc cho chạy ra, lúc đầu còn ri rỉ, về sau cứ tuôn ồng ộc. Sàn máy bay làm bằng chất nhựa đỏ rám mặt sạn bây giờ ướt sũng máu. Và máu đó tìm chỗ chảy. Qua các đường hở nơi bậc thang, máu nhểu giọt, hòa vào cơn mưa đã bắt đầu giăng kín bầu trời, bay xiên xuống mặt biểng trắng mịt như sương như khói.
Tên trung úy Mỹ đứng dậy bỏ chân bước ngang mình bọn lính bị thương nằm nơi sàn. Hắn rẽ ngoặt vào buồng đặt máy vô tuyến điện thoại. Lát sau hắn trở ra, bước vụt qua mình các tên lính. Hắn bảo tên thượng sĩ:
Bắt đầu đi?
Tên thượng sĩ cởi áo, rón gót giày bước tới sát vách máy bay. Hắn rùn chun nắm chặt lấy một vòng sắt coi giống như cái "vô-lăng" xe có quấn đầy dây cáp, thòi ra nơi vách. Tên thượng sĩ đưa mắt liếc nhìn bọn lính nằm dưới sàn nhựa lần nữa, rồi nghiến răng xoay mạnh cái vòng sắt. Dây cáp tuồn tuột tháo ra. Lớp sàn bỗng nhiên trụt hẳn xuống, trống hoát một lỗ vuông vứt độ hai thước cạnh. Bảy tám tên lính bị thương vụt chuổi người theo khoảng sàn nhựa vừa ha ra đó, bay hắt đi. Còn vài tên không nằm đúng trên khoảng sàn, lập tức bị tên trung úy Mỹ co giày đạp hất xuống. Có tên chỉ kịp kêu "trời ơi!" rồi lọt thỏm xuống ngay. Tên sau rốt, lọt cả người xuống rồi. Nhưng hai tay với kịp, cố bám rịt lấy thành sàn. Thằng trung úy co giày định hất đôi tay ấn ra. Nhưng không biết nghĩ sao, hắn lại khom lưng cúi nhìn bàn tay người lính đang cố víu lấy mép sàn. Đôi bàn tay của người lính lóng cóng, các đốt tay ngón tay rã rời buông dần, buông dần từng phân sàn nhựa. Cuối cùng không cưỡng nổi sức gió bên dưới, mấy ngón tay đó buông hẳn.
Đám lính dẫu bị thương nặng mấy, lúc rớt xuống biển họ cũng chợt tỉnh lại. Vì nước biển chiều mưa âm ấm đã lay dậy sức sống cuối cùng trong ngót năm mưới cái cơ thể đớn đau. Chính làn nước biển đã giúp họ hiểu ra những cái phút giây khốn đốn nhất của đời họ. Khi biết rằng đây là cái chết thật sự, những con người đó bơi lội giẫy giụa một cách tuyệt vọng trong sóng. Máu hòa vào nước biển. Và nước biển mặt lại xát vào các vết thương trên người họ. Không mấy chốc họ đều đuối sức. Những lớp sóng màu chì lần lượt nhận họ chìm xuống. Những người cố vùng vẫy nhất rốt cuộc cũng bị sóng đánh gục. Tất thảy bốn mươi sáu người lính bị thương đều chỉm nghỉm xuống mặt biển chiều hôm đang gầm gào, xám xịt mưa giông.
6
Hạ sĩ Cơ nhấc ly rượu uống một hơi. Ba người lính bảo an trạc tuổi anh ta cũng nhấc ly lên uống.
Họ đặt mấy cái ly không xuống ván, thò tay rón lấy mỗi người một thớ khô mực xé để trên đĩa.
Mưa rơi trên mái quán thí Ba ú mỗi lúc một nặng hạt. Từ nãy giờ thím Ba đứng ngoài cửa nhìn trời. Thấy trời đổ mưa to, thì thím mừng lắm. Ngay từ lúc mây khói đen bay nhanh và gió trở ngọn lành lạnh, thím đã bảo bụng: "ờ, mưa đi ông, làm ơn mưa giùm một trận lớn cho anh em tôi trong hang nhờ coi!"
Sau khi nướng xong mực cho mấy người lính "cảm tình", thím Ba ra đứng luôn tại cửa. Đặt hai bàn tay xòe hết ngón nơi cạnh sườn, thím ngóng nhìn cụm mây đen kịt. Chưa bao giờ thím trông đợi trời mưa như bữa nay. Khi mưa rắc hột xuống mái nhà, thím lại mong tiếng rơi của nó hãy nặng hơn.
Ông trời làm coi được quá mấy cậu ơi!
Thím bước vô nhà và nói với bốn người lính như vậy.
Hạ sĩ Cơ bảo:
Chẳng biết mấy ổng ở trỏng có hứng được nước mà uống hay không?
Được chứ
Thím Ba ú nói nho nhỏ
Vậy, thì mấy ổng hết khát rồi!
Phải, không khát đâu. Hễ có mưa là nước chảy lọt vô kẽ hang, thiếu chi!
Hạ sĩ Cơ nói:
Mọi khi ra gần giêng ít khi có mưa lớn lắm!
Thím Ba ú cười tủm tỉm, nói giọng nửa giỡn nửa thật:
Thì mọi năm có như vầy đâu.... Tôi gẫm ông trời ổng ủng hộ cho Việt cộng đó a mấy cậu!
Một anh lính ngồi ở trong góc ngó chầm bầm những giọt mưa trên mái nhà tí tách rơi xuống cái rãnh ngoài cửa bấy giờ đã có nước cuộn chảy và nổi nhiều chiếc bong bóng nhỏ xíu. Người lính ấy nói:
Còn tôi, hễ ngó trời mưa là tôi rầu thúi ruột. Hồi giữa cái năm tôi bị bắt lính thì mái nhà tôi đã rệu quá cỡ. Lợp lá "cần đốp" thì giỏi gì một năm cũng phải lợp lại. Đằng này chịu đựng gần hai năm, chịu sao thấu? Rầu nhứt là đêm mưa, vợ la con khóc, vác chiếu chạy tới góc nào cũng đều bị dột. ở trong nhà không khác chi ngoài sân. Nên ông trời ổng đổ mưa là ổng hại tôi. Giờ tôi ngồi đây chớ vợ con ở nhà không biết chừng bị ướt ráo trọi rồi cũng nên...
Người lính dừng lại. Hai ngón tay anh ta se sẽ thớ khô, nói tiếp:
ở chỗ tôi lá lợp nhà mắc lắm. Hồi thời bình lái lá ở miệt Thủ chở lên còn dễ. Bây giờ giặc giã, khi lên khi không, mà bây giờ lái lá có chở lên cũng phải bán cho nhà vựa, chủ nhà vựa là mấy lão hội đồng xã mua của lái với giá hai ngàn một thiên, bán ra hia ngàn tám, ba ngàn sấp lên. Vợ con tôi đào tiền đâu ra mà mua?... Kẹt lắm, ở xứ tôi kẹt lá lắm!
Xin lỗi vậy chớ xứ cậu ở đâu
Thím Ba ú hỏi
ở Chắc Cà Đao, trong khu trù mật!
Thím Ba ú liếc nhìn người lính:
Chắc Cà Đao thì tôi biết... Nhưng... nhưng mà....
Thím nói tới đó, liền hạ thấp giọng vừa đủ để người lính nghe:
Cậu... cậu tính đi mà lại đi về khu trù mật nữa sao?
Không, không, khu trù mật đó bể rồi... Bể hồi tháng chín!
Thím Ba mới vỡ lẽ:
ạ, ạ... ra vậy...
Trong lúc bên ngoài mưa tầm tã, thím Ba khi bước xuống đất, khi ngồi lên ván, đong rượu rót rượu. Hết khô thì thím chế rượu đó ra đĩa, nướng khô bằng ngọn lửa rượu chờn vờn, tim tím. Hết dấm thì thím sớt dấm. Mọi việc đó thím lo chu tất, gọn gàng. Mấy người lính đều khoan khoái, song cũng có vẻ hơi cóm róm. Họ xuýt xoa miệng, họ xoắn đôi bàn tay vào nhau hoặc rờ rẫm đưa lướt tay tới lui trên đùi. Xem ra họ có vẻ sung sướng lắm, chừng như trong cuộc ời làm lính mướn khổ nhục của họ thì cái buổi chiều mưa lạnh được ngồi nhâm nhi này không phải là dễ kiếm. Mà cũng không phải người chủ quán nào cũng đối xử tử tế như thím Ba đây. Nên trong sự khoan khoái cóm róm kia của họ còn có sự cảm động. Gần một tuần lễ ở đây, họ đã tới quán thím Ba năm bảy lượt. Đầu tiên là hạ sĩ Cơ, về sau hạ sĩ Cơ rủ rê dắt thêm họ. Hôm kia hạ sĩ Cơ đã ngỏ ý với thím Ba là họ muốn bỏ trốn, nhờ thím mối mang giúp đỡ họ lọt qua Vàm Răng, thì thế nào họ cũng kiếm cách về được nhà ở Mặc Cần Dưng, Ba Dỗu, Vĩnh Hanh, và Chắc Cà Đao. Nên bữa chiều nay họ lại tới quán.
Mấy người lính tiếp tục uống rượu. Thím Ba ú cứ đưa tay rờ rờ mép cái đĩa đựng khô mãi một lúc rồi nói:
Tôi thấy mấy cậu đi cực khổ, bỏ vợ bỏ con thì tôi cũng bứt rứt, nên tôi có hứa giúp mấy cậu. Hứa là hứa vậy, chớ thiệt ra cũng ăn thua ở mấy cậu thôi... Không biết mấy cậu đã quyết ý chưa, tôi cũng ngại.
Hạ sĩ cơ vội bảo:
Thím đừng ngại, tụi tôi nhứt quyết rồi mà. Xin thím giúp cho được sớm chừng nào tốt chừng ấy. Hồi nãy thím không thấy trực thăng nó tới chở tụi bị thương bay khẳm dừ đó sao. Nếu mà thím thiệt lòng muốn tụi tôi thoát cảnh đó thì thím phải giúp tụi tôi mới được.
Đành là tôi giúp... nhưng mấy cậu phải dứt khoát không do dự...
Dứt khoát chớ, bộ thím không tin tụi tôi sao?
Người lính quê ở Chắc Cà Đao nói
Thím Ba ú bèn cười. Lát sau thím buông rời hai ngón tay ra khỏi mép đĩa, nghiêng người sang hạ sĩ Cơ nói ghé vào tai anh ta:
Thôi được, ngày mai trời sụp tối, cậu Chín dắt anh em lại ngã ba đây, tôi đợi....
Dà!
Nhớ nghe, mấy cậu phải y hẹn. Nếu trật vuột thì không có dịp nào nữa đâu, tôi đã...
Được rồi, được rồi!
Hạ sĩ Cơ gật đầu liên tiếp hai ba cái
Thím Ba lại rỉ tai anh ta:
Cậu dặn kỹ anh em là phải giữ kín. Thôi tin ở cậu...
Không sao, thím đừng lo!
Hạ sĩ Cơ uống thêm một ly nữa rồi bước xuống đi ra cửa. Thấy cơn mưa đã ngơn ngớt, anh nói:
Thôi, uống hết chỗ rượu đó rồi về anh em!
Ba người lính uống cạn ly rượu. Họ bước ra đứng nơi cửa, lóng ngóng rồi kẻ trước người sau chạy vụt ra đường. Sực nhớ lời chị Hai Thép mới căn dặn, thím Ba còn níu áo hạ sĩ Cơ dặn thêm:
Về vụ súng ống, có thêm cây nào nữa thì càng hay, nhưng khó quá thì thôi nghe, không nên lấn cấn lâu, dễ lộ. Cứ vác bốn cậu bốn cây cho chắc... Nhớ sụp tối ra ngã ba, tôi đợi mấy cậu ở đó... Bà con có gom góp được ít tiền cho mấy cậu làm lộ phí, đừng lo....
Hạ sĩ Cơ nghe vậy thì cúi thấp đầu, mắt hấp hái. Anh ta khẽ nói:
Thôi tôi về nghen thím!
Anh bước thoắt ra cửa, bấm mũi giày lên mặt đường đất trơn nhẫy, chệnh choạng chạy theo ba người lính phía trước. Chốc sau, anh đã đuổi kịp họ. Trong cơn mưa dịu bớt, anh vừa nhanh chân bước vào lào phào nói cho ba người lính biết những điều mà thím Ba ú vừa nói với anh.
Cơn mưa ngớt, nay lại đổ ào xuống, lớn hơn. Bốn người lính chạy lại, tay giớ lên, chới với.
Mưa mỗi lúc một to. Thoáng thấy bóng cây me lờ mờ hiện ra sau màn mưa giăng, hạ sĩ Cơ chỉ tay nói:
ở đó có nhà của ông già mù. Rấn tới đó đụt
Họ chạy riết tới cây me. Bốn người dừng đứng dưới gốc me, rũ rũ quần áo một lúc rồi chạy vô nhà ông Tư Đờn.
Ông già đang ngồi nứt vành cái rổ xúc, nghe tiếng giày lộp bộp thì biết ngay là lính. Ông còn phân biệt được đâu là tiếng giày bố nữa, nên biết chắc là lính bảo an. Đứa cháu gái khoảng mười hai mười ba tuổi ở trong bếp chạy ra, đứng quệt quệt tay vào ống quần hỏi:
Mấy ông kiếm gì?
Không, ghé đụt mưa chút mà em!
Một anh lính đáp và day sang nói với ông Tư:
Bác làm ơn cho tụi tôi đụt nhờ nghe bác!
Ông Tư vẫn buộc cái vành rổ:
Mấy ông cứ đụt!
Đứa gái nhỏ liếc mắt ngó họ rồi chạy vào bếp. Bốn người lính ngồi chồm hổm dưới đất, khoanh tay rế, ngó coi ông Tư nứt vành rổ. Một anh tấm tắc:
Bác đương cái rổ xúc này khéo quá!
Tui đương vụng chớ không đặng khéo đâu!
Ông Tư thoái thác. Anh lính hơi cụt hứng, xẽn lẽn. Nhưng anh ta lại cố hỏi thêm:
Như bác đương một ngày được mấy cái?
Có nan sẵn thì hai cái!
Ông Tư đáp gọn lỏn. Hỏi câu nào ông trả lời câu đó chớ không trả lời hơn.
Bác đương rổ như vậy kiếm ăn đủ không?
Ông Tư từ từ ngước cặp mắt tối đục:
Không đủ thì cũng phải đủ chớ ông. Tật nguyền: như tui thì làm bữa nào đong gạo bữa nấy. Đâu thể bẳng thiên hạ được....
Tụi tôi đi đây không chỉ đủ ăn gạo như bác thôi, chớ sung sướng khỉ gì?
Ông già nghe nói chợt buông lỏng cọng mây trên tay:
Mấy ông nói tui nghe không lọt. Thân già tàn tật như tui bì sao được với mấy ông kia chớ. Mấy ông còn đủ tay chân, cầm súng rong ruổi, tháng tháng lãnh lương, rồi thường khi còn kiếm được con gà con qué, mà mấy ông nói không sung sướng. Tôi nghe không lọt...
Nói bác không tin, chớ tụi tôi cực lắm...
Tui biết mấy cậu cực, cực mà đi tới đâu cũng có thịt trâu, thịt gà ăn...
Hạ sĩ Cơ buồn rầu chắc lưỡi:
Bác ơi, bác đừng nhiếc tụi tôi chi tội nghiệp. Tụi tôi không phải như mấy thằng bắn trâu bắt gà của bà con đâu!
Ông Tư mò kiếm cọng mây, tiếp tục xỏ buộc vành rổ:
tui đâu dám nhiếc mấy ông. Mà tui cũng đâu biết là ông lính nào bắt gà, ông lính nào bắt gà, ông lính nào không bắt gà... Tui chỉ biết lính mấy ông cốt tử là hay bắn trâu, bắt gà. Mới hôm qua đây bắt con gà mái đẻ của tui còn nằm trên ổ, cháu tui chạy theo giành hết sức mà giành không lại.
Tụi nó khác, tụi tôi khác bác ạ. Tụi tôi trước cũng là dân ruộng, chết đói thì chết chớ không giựt đồ của cô bác đâu!
Mấy ông nói vậy thì tui biết vậy chớ tui đâu biết hơn được!...
Tụi tôi nói thiệt mà!
Thôi thì tui cũng cho là mấy ông nói thiệt. Kể như bây giờ mấy ông còn tử tế, nhưng tui e đi hoài kiểu này thế nào mấy ông cũng làm ẩu. Đi lính "quốc gia" mà không giựt đồ, tui không tin!
Bốn người lính ngó nhau, không biết nói năng sao với ông Tư nữa!
Mưa bên ngoài vẫn tầm tã. Trời tối mịt. Ông già bỗng dịu giọng và đổi cách xưng hô.
Mưa lớn quá, trời tối chưa mấy cậu?
Tối rồi!
Ông Tư réo cháu:
Tím ơi, đốt đèn đi con!
Con bé ở trong bếp đang thổi lửa phù phù. Hồi sau nó rón rén bưng thếp đèn mỡ cá đi ra, đặt lên chõng tre. Rồi nó dọn đĩa chén. Nghe đứa cháu quơ đũa rột rẹt, ông Tư buông cái rổ hỏi ốn người lính:
Mấy cậu ăn cơm chưa?
Dạ rồi!
Tưởng chưa thì ở ăn cơm. Tui kêu nó nấu!
Dạ, cảm ơn bác, tụi tôi ăn rồi!
Ông Tư Đờn đứng dậy, khom lưng, tự đấm vào lưng mình thùm thụp. Ông quơ bàn tay tới trớc sờ thành chõng, ngồi lên. Con Tím đưa cho ông nó đôi đũa và chén cơm mới bới.
Ông cầm đũa, xới xới cơm trong chén. Bỗng ông giụi đầu đũa xuống chén, im đi một chốc rồi hỏi:
Vậy trước khi đi đây mấy cậu là dân ruộng?
Dạ phải
Hạ sĩ Cơ đáp
Sao không ở nhà mần ruộng, đi đây chi?
Ông Tư hỏi xong, chậm rãi và cơm. Con Tím gắp chỗ có nạc trong tô canh chua bỏ vào chén cho ông. Tô canh này đặt phía bên ông Tư. Hình như đứa cháu gái nấu tô canh riêng cho ông nó ăn. Thấy nó chỉ nhỏ nhẻ ăn với cá khô. Giữa lúc hai ông cháu ăn cơm, một anh lính thấy cây đờn độc huyền treo nơi vách thì bước tới coi. Anh ta khều sợi đồng bật lên tiếng kêu thánh thót, thốt nói:
Cây đờn này mà tiếng tốt quá!
Ông Tư vẫn lặng thinh và cơm. Nhưng đôi con mắt tối đục của ông chợt hướng về phía sợi dây đờn còn ngân rung chưa dứt. Ông bảo, giọng nghiêm trang:
Cậu nào đờn được thì lấy xuống đờn chơi, đừng khều phá!
Anh lính được dịp bợ cây đờn xuống, ra ngồi ngoài bậc cửa lẩy tăng tăng. Anh ta cũng quào được mấy câu vọng cổ. Tiếng đờn nhấp nhem của người lính nghe cứ lẩng cẩng, lúc dài ra thậm thượt, lúc lại hẫng đi như người bị nấc.
Ông Tư ăn cơm xong, mưa vẫn không ngớt. Ông bước xuống mò kiếm một cọng tre, ngồi xổm gối trên manh đệm, xỉa răng. Hai hố mắt ông ngó ra ngoài trời mưa chớ không màng tới tiếng đờn của người lính.
Anh lính quào hoài có mấy câu ý chừng cũng ngượng. Anh nói ướm
Nghe nói bác đờn hay lắm. Bác đờn nghe chơi!
Ông Tư như sực tỉnh, ngước mắt hỏi:
Cái gì? Tui đờn é à?
Phải, bác đờn đi, bác đờn đi!
Hạ sĩ Cơ cũng khẩn khoản
Ông già nín thinh hồi lâu, mới nói:
Ngón đờn của tui không tươi đâu...
Không, tụi tôi biết bác đờn hay lắm, bác đờn cho con em đây nó ca cái bản gì mà "đề cờ đề cờ" đó đi! Trời còn mưa dữ quá, tụi tôi chửa về được đâu!
Ông già vẫn khước từ:
Thiệt... không nói giấu gì mấy cậu, đời tui nghèo cực không thôi, nên chữ đờn của tui không đặng tươi. Người ta chê chữ đờn tui nghe nó ai oán lắm!...
Mặc dù ông Tư từ chối, hạ sĩ Cơ vẫn bợ cây đờn trên tay người lính nọ, trao lại cho ông.
Ông Tư sợ cây đờn rớt, bèn rút gối chân xuống, ôm cây đờn vào lòng. Ông đưa tay run run rờ lướt trên thân đờn hồi lâu, chép miệng nói:
Tối hôm nọ cũng có mấy cậu lính tới biểu tôi đờn cho mấy cậu nghe, thấy họ ăn nói tử tế như mấy cậu, mà lại cứ nài nỉ hoài, tui mới đờn... Về sau họ tới nghe chật nhà, bỏ cả canh gác tần phòng sao đó nên ông đại úy đi kiếm chửi bới om sòm. Ông đuổi mấy cậu lính về, quát tháo tui: "Ông già, tôi cấm ông không được tụ tập quyến rũ lính tới đờn ca nữa nghe!" Tui thưa: "Bẩm ông, tui đâu có tụ tập quyến rũ mấy cậu. Từ đầu tui đã nói với mấy cậu là tui không đờn, nhưng mấy cậu cứ một mực khăng khăng bắt tui đờn cho mấy cậu nghe, buộc lòng tui mới đờn...." Ông đại úy hăm tui: "Từ rày trở đi ông đừng đờn nữa, không thì tôi đập nát cây đờn của ông đa!" Tui mới thưa: "Dạ từ rày mấy cậu mà có rủ tui cũng không đờn nữa!"
Ông Tư kể và bàn tay gày guộc của ông không ngớt rờ rẫm vuốt ve thân đờn. Coi tuồng như cây đờn nay còn nằm trong lòng ông là một sự may mắn lắm vậy.
- Bây giờ bác cứ việc đờn đi, khỏi sợ. Ông đại úy "nghoẻo" hồi hôm kia rồi.
- Tui có nghe. Tui nghe đồn ổng bị bắn chết trước miệng hang.. phải không?
- Phải, chết trước miệng hang!
Vậy cái ông mới lên thay ổng thì sao. Nhắm có đòi đập bể đờn tui nữa không?
- Giọng hỏi của ông già bấy giờ chợt như có náu tiếng cười. Mấy người lính nói:
- Không đâu, thằng cha trung úy mới lên thay này nó không chú ý đâu!
Vậy thì được, để tui đờn mấy cậu nghe!
Ông Tư nói rồi liền vặn trục đờn kèn kẹt. Ông rút cây găm tre ở cuối thân đờn, cất tiếng gọi cháu:
- Tím ơi, rửa chén rồi chưa con?
- Chút xíu nữa ngoại ơi!
- ờ, rửa rồi ra đây ngoại biểu
Ông già quắp cây găm đờn trong năm ngón tay, ngồi đợi. Bốn người lính ngồi nhích tới.
Lát sau con Tím nhong nhong đi ra. Ông Tư nghe tiếng bước chân nó, liền giơ tay:
- Ngồi xuốngđây con. Ngoại đờn, con ca bản Nam ai cho mấy cậu này nghe
Đứa cháu gái nghe ông nó bảo thế thì mặt lộ vẻ không vui. Nó với tay kéo cái đuôi tóc nhỏ xíu như cái đuôi mèo ra trước ngực, nói ngủng ngoẳng:
- Con hổng ca đâu!
Ông Tư cười, bảo mấy người lính:
- Mấy cậu thấy không. Nó còn giận vụ con gà mái đẻ đó!
Rồi ông nhỏ nhẹ nói với cháu:
- Ca đi con. Mấy cậu lính đây tử tế chớ không phải như tụi hôm qua đâu. Mấy cậu.. cũng nghèo như mình.
Con Tím chẳng nói chẳng rằng, nó với cái khăn sọc vắt trên vai ông nó lau đôi bàn tay nhỏ ướt nước. Lau rồi, nó vắt khăn lên vai ông nó như cũ. Dưới ánh đèn mỡ cá chập chờn, nó mở to mắt nhìn chằm chằm xuống đệm. Thỉnh thoảng nó lại liếc nhìn mấy người lính. ánh mắt của con Tím hơi dịu bớt vẻ hằn học. Khuôn mặt của nó coi sáng sủa, nhưng da mặt bị rỗ huê lấm tấm (chắc là dấu vết của một trận đậu mùa khủng khiếp nào đó để lại).
Ông già biết chắc cháu mình thế nào cũng sẽ hát, nên một tay cầm trục đờn, một tay cầm găm ông bắt đầu dạo vô. Khi những ngón tay khô gầy của ông xeo nhẹ cây găm, tức khắc sợi dây đồng chợt như rùng mình nức nở. Khúc dạo vô chưa chi nghe đã rưng rưng, thê thiết. Con Tím như bị tiếng đờn của ông nó thu hút. Đôi mắt con bé từ từ ngước lên, long lanh sáng rực. Nó nhìn ra đêm mưa rơi, và bàn tay bé nhỏ của nó bỗng bíu chặt lấy vạt áo mốc cời của người ông. Chữ đờn cuối của khúc nhạc dạo chợt ngắt ngang. Bàn tay cầm trục của ông Tư co quắp lại, giật bắn lên. Còn bên tay cầm găm của ông thì cất quá khỏi sợi dây đờn lúc ấy đang ngân cao vời vợi.
Không khí gian nhà bỗng như lắng xuống. Con Tím liền cất tiếng ca:
Khi vâng ơ..chiếu chỉ ra đề cờ..
Cây găm trong tay ông Tư cũng liền lẩy đờn rất nhanh. Chữ đờn của ông dìu đưa tiếng ca của đứa cháu bay theo:
Từ chàng đi ơ.. thiếp bặt tin đợi chờ
Như hồng nhạn cao phi
Sông Hớn ơ..bơ vơ..
Não nùng tiếng ngẩn ngơ
Má phấn ơ.. duyên phai lợt
Hồng nhan luống đợi chờ
Trướng lý đành để dính bụi trần nhơ..
Tiếng ca của con Tím nghe non nớt quá, mà tiếng đờn của ông Tư là tiếng đờn già dặn của cả một đời người sáu mươi năm tủi cực đau thương dồn nén. Sự khác biệt đó tạo nên một mối tương phản lạ lùng:
..Kìa cờ ai tiếng trống gióng xa xa
Ai hay là chiếu chỉ triệu chồng ta
Chốn giang biên chàng có hay chăng là
..
Giọng ca của con Tím chấp chới
Từ chàng ra chốn cung đao..
Thiếp trông tin chàng như cá trông sao..
Sợi dây đờn bây giờ không lẻ loi nữa. Dường như không phải chỉ có mỗi mình nó trên thân đờn nữa mà là có rất nhiều sợi. Đây thật không thể nói là ngón đờn tươi hay không tươi, ai oán hay không ai oán. Đây là tiếng đờn chạnh lòng chạnh dạ, buộc người xa vợ phải nhớ vợ, ai xa con sẽ nhớ con. Đây là sợi tơ đồng réo gọi tình thương nhớ làng quê, nhớ sông nước bến bờ, nhớ mồ mả tổ tiên. Bốn người lính đều cúi đầu, tóc phủ xõa gối.
Trong lúc tiếng đờn vẫn cứ khoắc khoải vẳng lên những tiếng đờn ly biệt, bồn chồn. Ngoàii mưa vẫn không ngừng rơi. ánh đèn mỡ cá lù mù rội những hạt mưa ngoài cửa đang bay xiên, loang loáng.