Sử ký Tư Mã Thiên - Chương 06 - Phần 02

Sau khi Khổng Cần sai thiên hạ đúc và làm đồ bằng sắt được ba năm, ông ta được bổ làm đại nông và thuộc vào hàng cửu khanh. Còn Tang Hoằng Dương thì làm đại nông thừa coi việc tính toán. Hai người dần dần đặt những “quân thâu” (37) để lưu thông hàng hóa. Lần đầu nhà vua ra lệnh cho quan lại được nộp lúa để làm quan lang đến chức lương sáu trăm thạch.

Sau khi làm thứ kim khí trắng năm thù được năm năm thì tha những người quan lại và dân chúng phạm vào tội đúc trộm tiền. Số người chết về việc đúc tiền đến mấy mươi vạn. Những người giết lẫn nhau không bị phát giác thì không kể xiết. Từ khi lệnh ân xá ban ra, những người được tha đến hơn trăm vạn, nhưng con số này chưa đến một nữa những người bị bắt. Hầu hết mọi người trong thiên hạ đều liều lĩnh đúc tiền. Kẻ phạm tội nhiều quá, quan lại bắt và giết không hết. Do đó vua sai bọn bác sĩ Chử Đại, Tử Yến chia nhau thành từng đoàn đi khắp các quận và các nước trừ bỏ những bọn cướp đoạt của cải người khác và các quan ở các nước, các quận (38) có tội. Ngự sử đại phu Trương Thang lúc bấy giờ rất được quý trọng và tin dùng. Bọn Giảm Tuyên, Đỗ Chu làm trung thừa, bọn Nghĩa Tung, Doãn Tề, Vương Ôn Thư dùng hình phạt thảm khốc, độc ác mà được làm cửu khanh và bọn “trực chỉ” (39) như Hạ Lan lần đầu xuất hiện. Quan đại nông Nhan Dị bị giết. Trước đấy Nhan Dị làm đình trưởng ở Tế Nam nhờ liêm khiết chính trực nên được thăng chức đến cửu khanh.

Sau khi nhà vua và Trương Thang làm ra thứ tiền da nai trắng, nhà vua hỏi Nhan Dị. Nhan Dị nói :

- Ngày nay các vua và các hầu đến triều và chúc mừng mang ngọc bích màu xanh giá nghìn vàng, nhưng cái da để lót ở dưới khi dâng lên giá bốn mươi vạn. Như thế là gốc và ngọn không cân đối.

Nhà vua không bằng lòng. Trương Khanh lại có hiềm khích với Nhan Dị.

Có người tố cáo Nhan Dị về một việc khác. Nhan Dị nói chuyện với khách, khách nói :

- Lúc đầu lệnh ban ra có chỗ bất tiện.

Dị không đáp, hơi nhọn môi. Trương Thang tâu lên nói :

- Nhan Dị làm đến chức cửu khanh nhưng thấy lệnh không tiện lại không vào nói mà phỉ báng trong bụng. Dị bị ghép vào tội chết. Từ đó về sau mới có đạo luật về tội “phỉ báng trong bụng” (40).

Vì vậy công khanh, đại phu phần lớn siểm nịnh, a dua để được yên thân. Nhà vua đã ra lệnh về vấn đề tài sản của những người buôn và thợ thủ công (41) và đề cao Bốc Thức, nhưng trăm họ rốt cuộc chẳng ai chia của cải để giúp quan địa phương. Do đó nhà vua cho phép tố cáo tài sản của những người buôn bán (42) theo như lời tâu của Dương Khả. Trong các quận và các nước nhiều người đúc tiền giả, tiền phần lớn là nhẹ, các công khanh xin để kinh đô đúc thứ tiền “chung quan” có vành đỏ, mỗi đồng giá bằng năm đồng tiền thường. Việc thuế và việc công nếu không có thứ tiền vòng đỏ này thì không được. Tiền kim khí trắng dần dần mất giá, dân không cho là quý và không dùng. Quan địa phương ra lệnh cấm nhưng không ăn thua. Được hơn một năm thì tiền kim khí trắng bị bỏ không dùng nữa. Năm ấy (115 trước công nguyên) Trương Thang chết nhưng dân không nghĩ gì đến ông ta.


Hai năm sau, dân đã nghĩ ra cách đúc tiền có vành đỏ cho nên dùng không tiện và thứ tiền này lại bị bỏ. Do đó, người ta cấm các quận và các nước không được đúc tiền mà chỉ giao cho ba ông quan ở Thượng Lâm chuyên trách việc đúc tiền. Tiền đúc nhiều nên có lệnh ban ra nói: trong thiên hạ không phải thứ tiền của ba ông quan này thì không được lưu hành, tất cả những thứ tiền đúc trước đây ở các quận và các nước đều bị bỏ và nấu chảy, đem đồng đưa cho ba vị quan. Việc dân đúc tiền cũng ít đi, vì xét ra việc phí tổn nhiều không bỏ công đúc, chỉ co những bọn đại gian và thợ chuyên nghiệp thì mới đúc trộm.

Bốc Thức làm Thừa tướng nước Tề trong khi việc tố cáo gia sản của thương nhân do Dương Khả đề xướng phổ biến khắp thiên hạ. Những gia sản trung bình trở lên đều bị tố giác. Đỗ Chu xét xử họ. Những người vào ngục, ít người được tha. Nhà vua lại sai Ngự sử, Đình úy chính giám chia ra từng ban đến xét các quận và các nước về những gia tài của thương nhân, được của cải và tiền bạc của dân kể đến hàng ức, nô và tỳ hàng ngàn, vạn, ruộng ở huyện lớn vài trăm khoảnh, huyện nhỏ hơn trăm khoảnh, nhà cửa cũng thế. Do đó, bọn buôn bán từ hạng trung bình trở lên nói chung đều phá sản, dân lo ăn ngon mặc đẹp để qua ngày chứ không nghĩ đến việc cất giấu gây dựng gia sản nữa. Các quan địa phương nhờ có muối, sắt và gia sản của thương nhân cho nên của cải tiêu dùng càng nhiều.

Nhà vua mở rộng thêm Quan Trung đặt thêm hai miền phụ cận ở bên tả và bên hữu. Lúc đầu quan đại nông cai quản việc muối và sắt, đặt quan nhiều, đặt chức thủy hành để lo việc muối và sắt, đến khi Dương Khả đưa ra việc tố giác gia sản thương nhân thì của cải và sản vật ở Thượng Lâm rất nhiều, bèn cho quan thủy hành coi Thượng Lâm. Thượng Lâm cất của đầy tràn cho nên mở nó thêm rộng.

Lúc bấy giờ, quân Việt muốn dùng thuyền để tranh đua với quân Hán, nhà vua bèn sai đào rộng thêm và sửa sang ao Côn Minh, xung quanh là những lầu bao vây để xem, làm những lầu thuyền cao hơn mười trượng ở trên có cờ xí rất là tráng lệ. Nhà vua cảm thấy thích, bèn sai làm đài Bá Lương cao mấy mươi trượng, từ đấy cung thất xây càng đẹp. Lại chia số tiền lấy được của thương nhân cho các quan; các quan thủy hành, thiếu phủ, đại nông, thái bộc đều đặt những nông quan luôn luôn đến các quận và các huyện, đến những ruộng đất đã tịch thu được để về cày cấy; còn những nô tỳ tịch thu được thì chia ra các vườn để nuôi chó, nuôi ngựa, chim và thú vật và cho các quan. Đặt rất nhiều viên quan mới (43). Người ta sai dời nhiều bọn nô tỳ đi để lo việc vận chuyển trên sông, vận chuyển được bốn trăm vạn thạch, các quan tự mua thóc và có đủ thóc.

Sở Trung nói :

- Con em các nhà dòng dõi cùng với những người giàu có, có người chơi chọi gà, cho chó săn chạy, chơi ngựa, săn bắn, đánh bạc, làm rối loạn dân lành.

Nhà vua bèn cho điều tra những người phạm tội này, họ tố cáo lẫn nhau đến mấy ngàn người. Người ta gọi họ là “những người mang tội chọi gà”.

Những người nào nộp bạc thì được làm quan lang, việc đề cử người làm quan lang càng kém sút (44). Năm ấy ở phía đông núi bị nước sông Hoàng Hà gây tai hoạ, lại thêm mất mùa. Như thế mấy năm, có người ăn thịt lẫn nhau ở trong một miền một, hai ngàn dặm vuông. Thiên tử thương xót ban chiếu nói :

- Ở Giang Nam người ta đốt rẫy, dùng nước để giết cỏ (45). Cho phép dân bị đói kém được di cư đến kiếm ăn ở giữa miền Trường Giang và sông Hoài, ý muốn cho họ ở đấy.

Nhà vua lại sai các sứ giả đến để giúp đỡ cho họ, mũ và lọng của các sứ giả thấy lố nhố trên đường. Nhà vua sai đem lúa từ đất Ba và đất Thục xuống để phát chẩn cho họ.

Năm sau (112 trước công nguyên), nhà vua bắt đầu đi tuần các quận và các nước. Nhà vua vượt sông Hoàng Hà ở phía đông, quan Thái thú Hà Đông không ngờ nhà vua đến, nên không chuẩn bị trước, do đó tự sát. Nhà vua vượt qua đất Lũng Tây. Quan Thái thú Lũng Tây vì việc nhà vua đi vội vàng, không cung cấp lương thực được cho các quan theo hầu Thiên tử, nên cũng tự sát. Nhà vua bèn đi về phía bắc ra khỏi cửa Tiêu Quan, có mấy vạn quân kỵ đi theo, đi săn ở đất Tân Tần để khuyến khích binh sĩ đồn thú ở biên giới rồi trở về. Ở Tân Tần có khi đi nghìn dặm không có nơi canh phòng. Nhà vua vì vậy giết Thái thú Bắc Địa và các thuộc hạ của ông ta rồi ra lệnh cho dân được phép chăn nuôi ở những huyện biên giới. Các quan cho họ mượn ngựa cái, sau ba năm thì trả ngựa lại, cứ được mười con ngựa con thì trả lại cho nhà nước một con. Việc tố cáo tài sản thương nhân bị bãi bỏ và việc tiêu dùng ở Tân Tần được đầy đủ.

Sau khi được cái vạc quý, nhà vua lập nhà thờ ở Thái Nhất để thờ Hậu Thổ và Thái Nhất. Các công khanh bàn việc phong thiện. Còn các quận và các nước trong thiên hạ đều chuẩn bị là đường, làm cầu, tu bổ lại những cung cũ. Ở những huyện xe ngựa nhà vua sẽ đi qua, các quan địa phương chuẩn bị đón tiếp đầy đủ chờ đợi nhà vua đi đến. Năm sau (111 trước công nguyên), nước Nam Việt làm phản, Tây Khương xâm phạm cướp bóc ở biên giới. Nhà vua cho phía đông núi không đầy đủ lương thực, xá tội thiên hạ (46) dùng những thuyền lầu ở phương nam chở hơn hai mươi vạn quân đánh Nam Việt, đem mấy vạn quân kỵ từ Tam Hà qua phía tây đánh Tây Khương, lại sai mấy vạn người vượt qua sông Hoàng Hà xây thành Linh Cư. Lần đầu tiên đặt các quận Trương Dịch, Tửu Tuyền; còn ở Thượng Quận, Sóc Phương, Tây Hà, Hà Tây thì đặt quan lo việc khai khẩn ruộng đất; đày sáu mươi vạn binh lính đến làm ruộng và canh phòng ở đấy. Việc đắp đường vận chuyển cung cấp lương thực nơi xa nhất đến hai ngàn dặm, nơi gần nhất đến hơn ngàn dặm, tất cả đều nhờ quan đại nông cung cấp. Vì không có đủ binh khí đưa ra biên giới, nhà vua bèn sai phát những binh khí ở kho vũ khí do những người thợ nhà vua làm để cung cấp cho họ.

Ngựa kéo xe và ngựa cưỡi thiếu thốn, quan địa phương ít tiền khó lòng mua được ngựa, nhà vua bèn ra lệnh từ các vua có đất phong trở xuống đến các quan lương ba trăm thạch lúa trở lên đều theo thứ bậc mà cấp ngựa cái. Trong các đình trong thiên hạ đều nuôi ngựa cái, do đó ngựa mỗi năm mỗi nhiều và tốt.

Thừa tướng nước Tề là Bốc Thức dâng thư nói :

- Tôi nghe nói nhà vua lo thì bầy tôi nhục, nay Nam Việt làm phản, cha con tôi xin tình nguyện đến đấy với những người Tề quen sử dụng thuyền quyết sống chết với họ.

Nhà vua ban chiếu nói :

- Bốc Thức tuy lo cày và chăn nuôi nhưng không phải để mưu lợi cho mình, hễ có của thừa là đem giúp cho quan địa phương để tiêu dùng. Nay thiên hạ không may có việc nguy cấp mà cha con Bốc Thức lại hăng hái tình nguyện xin chịu chết vì nạn nước. Tuy ông ta chưa ra đánh trận nhưng có thể thấy lòng trung nghĩa ở trong lời yêu cầu. Ban tước Quan nội hầu, thưởng cho sáu mươi cân vàng, mười khoảng ruộng.

Tờ chiếu được loan báo trong tất cả thiên hạ, nhưng thiên hạ không ai hưởng ứng. Liệt hầu có hàng trăm nhưng không ai muốn theo quân nhà vua để đánh quân Khương và quân Việt. Đến khi làm lễ hiến vàng vào lễ tế rượu, quan coi kho của nhà vua xét lại số vàng thì thấy các hầu mắc tội thiếu vàng hơn một trăm người (47). Nhà vua bèn cho Bốc Thức làm ngự sử đại phu. Sau khi Bốc Thức làm chức này, ông ta nhận thấy các quận và các nước phần lớn không cho quan địa phương quản lý việc làm muối làm sắt là tiện; đồ sắt thì xấu, giá lại đắt; lại có người ép dân phải mua và bán muối và sắt; thuyền bị đánh thuế, người buôn ít, và vật giá đắt; bèn dựa vào lời của Khổng Cần trình bày về việc đánh thuế thuyền. Do đó nhà vua không thích Bốc Thức.

Nhà Hán đánh nhau trong ba năm liền: diệt Khương, tiêu diệt Nam Việt, lần đầu tiên đặt 17 quận từ Phiên Ngung tới phía tây đến phía nam đất Thục. Lại theo tục cũ của họ mà cai trị, không bắt nộp các thứ thuế. Các quận từ Nam Dương, Hán Trung trở đi cứ theo thứ tự xa gần mà cung cấp cho các quận mới đặt. Các quan lại và binh sĩ có đủ lương ăn, tiền, đồ vật, xe và ngựa đầy đủ. Tuy vậy, các quận mới lập vẫn luôn luôn làm phản giết quan lại. Nhà Hán đem hơn một vạn binh lính và quan lại ở phương nam đến đánh mất một năm, tất cả việc tiêu dùng đều do quan đại nông cung cấp. Quan đại nông cung cấp đầy đủ là nhờ các “quân thâu” và nhờ ở chỗ đánh thuế muối và sắt. Nhưng nơi nào binh sĩ đi qua, các quan địa phương chỉ dám nói không để cho họ thiếu thốn chứ không dám nói làm theo đúng các đánh thuế như bình thường (48).

6. Năm sau (110 trước công nguyên) niên hiệu Nguyên Phong năm thứ I, Bốc Thức bị giáng làm quan thái phó của Thái tử; còn Tang Hoằng Dương nhờ việc làm trị túc Đô úy, được làm chức đại nông, thay Khổng Cần quản lý tất cả muối và sắt trong thiên hạ. Hoằng Dương cho rằng vì các quan tranh nhau buôn bán theo ý mình cho nên vật giá mới nhảy vọt và việc thuế khóa thu nhập trong thiên hạ có khi không đủ bù vào các phí tổn chuyên chở bèn xin nhà vua đặt mấy mươi người thuộc hạ của bộ phận đại nông, chia nhau cai quản các quận và các nước. Họ luôn luôn đến các huyện đặt các quan “quân thâu” và các quan lo về muối và sắt, ra lệnh cho các phương xa đều nộp những sản vật của mình và những vật mà các thương nhân chuyên chở lúc giá đắt để thay thuế. Những người này lại chuyên chở sản vật cho nhau. Các quan “bình chuẩn” ở kinh đô có trách nhiệm nhận các hàng hóa trong thiên hạ và đưa đến các nơi, gọi những người thợ của nhà nước làm xe và các đồ vật cần cho việc vận chuyển và những người này đều do đại nông nuôi. Các quan ở bộ phận đại nông nắm tất cả vật sản trong thiên hạ, khi đắt thì bán, khi rẻ thì mua, do đó bọn phú thương và chủ hiệu buôn lớn không thể lấy được nhiều lời mà phải quay trở về nghề nông, vật giá nhờ vậy không nhảy vọt và điều hòa được giá cả trong thiên hạ. Công việc đó gọi là “bình chuẩn”. Nhà vua cho là phải, cho phép thi hành. Sau đó nhà vua đi phía bắc đến Sóc Phương, phía đông đến Thái Sơn, đi tuần ven biển đến biên giới phía bắc rồi trở về, đến đâu cũng thưởng.

Đồ thưởng đến hơn một trăm vạn tấm lụa, tiền và vàng đến hằng trăm vạn. Nhưng đều nhờ có quan đại nông cung cấp đầy đủ.

Tang Hoằng Dương lại xin ra lệnh cho phép các thuộc lại được nộp lúa để làm quan và những người có tội được nộp tiền để chuộc tội. Lệnh ban ra người nào đưa lúa đến đất Cam Tuyền thì theo thứ tự được miễn giao dịch suốt đời. Người ta không tố cáo tài sản của thương nhân nữa. Các quận và các nước đều chở thóc đến những nơi cần có thóc ngay, và những người cày đều nộp thóc. Ở phía đông núi, việc vận tải bằng sông thêm nhiều, mỗi năm đến 600 vạn thạch. Trong một năm, kho Thái Thương và kho Cam Tuyền đều đầy tràn, ở biên giới thừa thóc và mọi vật, một năm số lụa chuyển vận trên một trăm vạn tấm. Dân không bị tăng thuế mà thiên hạ dùng được dồi dào. Do đó, Tang Hoằng Dương được thưởng chức tả thứ trưởng lại được thưởng một trăm cân vàng lần hai.

Năm ấy có hạn nhỏ. Nhà vua ra lệnh cho các quận cầu mưa. Bốc Thức nói :

- Các quan địa phương chỉ nên lấy tô và thuế để ăn và mặc thôi, nay Tang Hoằng Dương lại sai bọn thuộc lại bày hàng ở ngoài chợ, bán các đồ vật để kiếm lời, cứ nấu Tang Hoằng Dương đi thì trời sẽ mưa (49).

7. Thái Sử Công nói :

- Để giao dịch giữa công, nông, thương xuất hiện các thứ tiền tệ: vỏ rùa, vỏ sò, vàng, tiền, đao (50), vải. Nguồn gốc các thứ tiền tệ đã có từ lâu. Kể từ họ Cao Tân trở về trước thì đã xa lắm, không biết gì để chép. Cho nên Kinh Thư nói đến việc xảy ra trong thời vua Nghiêu vua Thuấn. Kinh thi thuật lại thời Ân thời Chu. Khi trong nước yên ổn thì đưa người lớn vào học các nhà tường, nhà tự; trước kia chú trọng đến gốc là nghề nông, bỏ ngọn là nghề thương; dùng lễ nghĩa để đề phòng cái việc ham lợi. Sự việc biến đổi nhiều cho nên người ta làm trái với điều phải. Khi nào sự vật đã thịnh rồi cũng đến lúc suy, thời thế lên đến cùng cực rồi cũng quay trở lại (51). Thời đại trước chất phác thì thời đại sau văn hoa, đó là sự biến đổi của sự vật. Trong thiên Vũ cống (những cống vật nộp cho Hạ Vũ N. D) thì chín châu đều nộp những sản vật đất mình có và dân tương đối nhiều. Vua Thành Thang và Vũ Vương kế tiếp theo những thời đại hư hỏng nên dễ thay đổi để cho dân khỏi mỏi mệt. Hai người đều lo lắng nên dân được trị an. Nhưng tình hình mỗi ngày một kém. Tề Hoàn Công dùng mưu của Quản Trọng hiểu cái phép nặng nhẹ tìm cách lấy lợi ở núi và ở sông, làm cho chư hầu phải thần phục, khiến nước Tề nhỏ bé nổi tiếng làm nên nghiệp bá. Nước Ngụy dùng Lý Khắc làm hết cái sức của đất, làm nhà vua được mạnh. Từ đó về sau, thiên hạ mắc vào những cuộc tranh giành của thời Chiến Quốc, chú trọng dối trá và võ lực mà coi thường nhân nghĩa, coi trọng của cải mà đánh giá thấp sự khiêm tốn nhún nhường; cho nên có những người thương nhân giàu đến hàng trăm triệu mà lại có những người nghèo cứ phải ăn cám không biết chán. Có những nước mạnh thôn tính các nước nhỏ bắt chư hầu phải thần phục. Lại có những nước yếu phải tuyệt tự và tiêu diệt. Đến đời Tần, cuối cùng lấy tất cả thiên hạ. Trong thời Ngu và Hạ có ba thứ tiền tệ: có thứ vàng, có thứ trắng, có thứ đỏ. Người ta hoặc dùng tiền hoặc dùng vải, hoặc dùng dao hoặc dùng mai rùa, vỏ sò. Đến đời Tần thì tiền tệ trong nước chia làm ban hạng: hạng tiền tệ cao là vàng tính mỗi dật là một đơn vị (52), thứ tiền kém là tiền đồng nửa lạng, cũng nặng như chữ ghi trong đồng tiền; còn các loại châu ngọc, mai rùa, vỏ sò, bạc thiếc v.v... thì dùng làm đồ vật và trang sức được giữ làm của quý chứ không dùng làm tiền tệ. Những thứ này đều theo thời nặng nhẹ khác nhau. Lúc đó bên ngoài thì đánh Di và Địch, bên trong thì lo thưởng công lao; kẻ sĩ trong thiên hạ ra sức cày không đủ cung cấp lương thực, đàn bà kéo sợi dệt vải không đủ để cung cấp áo quần. Không khác gì đời xưa lấy tất cả của cải trong thiên hạ để cung phụng nhà vua mà nhà vua vẫn không cho là đủ. Sự thể như dòng nước trôi đi, sóng thúc vào nhau sinh ra như vậy. Có gì là lạ? (53)

(1) Bình Chuẩn là tên một chức quan đời Hán có mục đích mua hàng hóa nhân dân khi rẻ và bán lại khi đắt để làm cho giá thị trường khỏi chênh lệch quá và người mua khỏi bị bóc lột quá đáng. Bài này rất nổi tiếng và thường được nhắc đến với tính cách một công trình đầu tiên về kinh tế học của Trung Quốc.


(2) Nhận xét nào cũng chính xác và dựa trên những con số cụ thể.

(3) Như vậy là tầng lớp thương nhân không được tham dự vào chính trị.

(4) Nguyên văn - “phú ư dân”, “phú” là thứ thuế thân, còn “thuế” là thuế sản vật.

(5) Nửa lạng là 12 thù. Như vậy trọng lượng của tiền thực chỉ bằng một phần ba trọng lượng trên danh nghĩa.

(6) Đoạn 1 - Tình hình kinh tế trong những năm trước Hán Vũ Đế.

(7) Thời Hán Vũ Đế tức là thời của tác giả.

(8) Tác giả trình bày tình trạng giàu có lúc đầu thời Vũ Đế để chuẩn bị nói đến tình trạng đói khổ loạn lạc về sau.

(9) Bài này đầy những nhận xét tỉ mỉ và sâu sắc.

(10) Ý nói làm quan không thay đổi chức đến nỗi lúc cháu lớn lên cũng vẫn làm chức ấy.

(11) Vua Đông Âu bị vua Mân Việt đánh, Vũ Đế cho di 4 vạn người Đông Âu vào giữa miền sông Trường Giang và sông Hoài. Hai nước là Mân Việt Đô ở Phúc Châu và Nam Việt Đô ở Quảng Châu.

(12) Vương Khôi giả vờ hòa thuận với Hung Nô, lừa quân Hung Nô đến Mã Ấp để đánh úp. Nhưng vua Hung Nô biết được mưu ấy.

(13) Đây là chỉ Tang Hoằng Dương, Khổng Cần (xem đoạn 5).

(14) Nhìn chung những điểm lớn về kinh tế thời Hán Vũ Đế. Những điểm này sẽ được phát triển ở dưới.

(15) Mười chung là 64 thạch. Như vậy chỉ một phần 64 đến nơi.

(16) Đây là xây thêm vào Vạn lý trường thành.

(17) Nhận xét mỉa mai.

(18) Tức Vệ Thanh.

(19) Cầm đầu Hung Nô là Thiền Vu dưới Thiền Vu có Hữu hiền vương và Tả hiền vương.

(20) Chức quan phụ trách nông nghiệp và tài chính.

(21) Để bào chữa cho lý do tại sao lại cho mua chức quan. Mục đích của nó là để người giàu đưa của cải ra.

(22) Chẳng hạn điều cấm đoán đối với thương nhân ở đoạn 1.

(23) Theo trật tự trong quân đội thì “quan thủ” đứng vào hàng thứ năm, “thiên phu” đứng vào hàng thứ bảy, còn “ngũ đại phu” đứng vào hàng thứ chín.

Tất cả có mười bậc.

(24) Đoạn 3 - Kinh tế nguy khốn do chính sách xâm lược gây ra.

(25) Quan lại thấy ai biết mà không tố giác thì khép vào tội “kiến tri” (thấy biết).

(26) Đây chỉ Hoắc Khứ Bệnh.

(27) Đoạn 4 - Tình hình kinh tế nguy ngập do những nguyên nhân khác :

thiên tai, đào sông, di dân, nuôi người Hồ v. v...

(28) “Tệ” chỉ bất kỳ vật gì có thể thay tiền mặt.

(29) Tư Mã Thiên có những suy nghĩ rất sâu sắc.

(30) Cả ba đều là thương nhân.

(31) Người ta sợ làm quan vì pháp luật rất nghiêm dễ phạm tội. Bây giờ phải nộp tiền để khỏi làm quan.

(32) Chức quan coi về sắt và muối.

(33) Nhận xét thú vị.

(34) Hai mươi đồng.

(35) Có sự phân biệt về thuế giữa thương nhân và thợ thủ công.

(36) Xem chú thích ở Cao Tổ bản ký.

(37) Chức quan, nghĩa đen là làm cho đều và chuyên chở nhiệm vụ là làm bình ổn vật giá.

(38) Nguyên văn “thú, tướng”, thú là quan coi một quận, tướng là vị quan giúp một “vương” coi một nước.

(39) Chức quan có nhiệm vụ điều tra các tham quan ô lại.

(40) Nhận xét khách quan nhưng rất mỉa mai.

(41) Xem ở trên trong đoạn này.

(42) Nguyên văn “dẫn tiền”: dẫn là tài sản của thương nhân và thợ thủ công, không phải do cày và nuôi tằm mà có.

(43) Chỉ những viên quan mới đặt ra để quản lý các tài sản lấy được của thương nhân.

(44) Nộp bạc không những khỏi tội mà còn làm quan.

(45) Làm cỏ xong, cho nước vào, cỏ chết.

(46) Mục đích là để sung những người tù làm lính. Quân đội đời Hán một phần lớn là tù được tha vì đã chịu đi lính.

(47) Năm 112 trước công nguyên, Vũ Đế yêu cầu các hầu phải nộp một số vàng làm tế lễ (nhưng thật ra để có tiền đánh Nam Việt). Trong số 241 người có đến 106 người bị tội thiếu vàng.

(48) Đoạn 5 - Các biện pháp đưa ra để bổ cứu tình trạng thiếu hụt.

(49) Đoạn 6 - Biện pháp của Tăng Hoằng Dương.

(50) Đao và vải là tên những thứ tiền giống hình con đao và tấm vải.

(51) Tư Mã Thiên nhận thấy được sự biến đổi của sự vật.

(52) Một dật 20 lạng.

(53) Đoạn 7 - Lời bàn của tác giả. Nhận xét của tác giả về tiền tệ rất sâu sắc.