Sử ký Tư Mã Thiên - Chương 22 - Phần 02

Vua Tần quỳ xuống nói :

- Quả nhân xin nghe xem kế của quả nhân sai lầm như thế nào?

Thấy xung quanh có nhiều người nghe trộm, Phạm Thư sợ không dám nói việc trong nhà, chỉ nói việc ngoài trước để dò xem ý của nhà vua như thế nào (23). Phạm Thư bèn nói :

- Nhương Hầu muốn vượt qua nước Hàn, nước Ngụy để đánh đất Cương Thọ của nước Tề, đó không phải là kế hay. Nếu đem ít quân thì không đủ để làm tổn thương nước Tề, đem nhiều quân thì hại đến nước Tần. Theo như ý của thần thì kế của nhà vua là mình đem ít quân, nhưng lại bắt nước Hàn, nước Ngụy dốc hết binh lực của họ để đánh Tề. Điều đó thật vô lý. Nay nếu ta đã thấy nước theo mình không thân với mình mà lại vượt qua nước người ta để đánh nước khác, thì hỏi có được hay không? Mưu kế như vậy là sơ hở đấy. Vả chăng ngày xưa vua Dẫn Vương nước Tề, phía Nam đánh Sở, phá quân diệt tướng, hai lần mở mang đất đai ngàn dặm, nhưng rốt cuộc nước Tề vẫn không lấy được một tấc đất nào. Điều đó đâu phải là vì vua Tề không muốn lấy đất, nhưng chỉ vì tình thế không cho phép làm như vậy. Chư hầu thấy nước Tề mỏi mệt, vua tôi không hòa, đem quân đánh tan quân Tề. Tướng sĩ bị nhục, binh lính bị khốn đốn, đều đổ lỗi cho nhà vua, nói: - “Ai bày ra kế này đây?”. Nhà vua nói: “Văn Tử (24) đấy”. Đại thần làm loạn, Văn Tử chạy ra nước ngoài. Cho nên nước Tề sở dĩ thua to là vì nó đánh Sở, làm cho nước Hàn, nước Ngụy được béo. Cách đó gọi là “trao binh khí cho giặc, đem lương thực cho kẻ cướp vậy”. Chi bằng nhà vua cứ giao hiếu với nước ở xa là đánh nước ở gần; được tấc đất nào là tấc đất của nhà vua, được thước đất nào là thước đất của nhà vua. Nay nhà vua lại bỏ kế đó mà đánh nước ở xa, thế chẳng phải là sai hay sao! Đấy, xưa kia nước Trung Sơn đất vuông năm trăm dặm mà bị một mình nước Triệu nuốt hết. Nước Triệu công thành danh toại, lại được thêm cái lợi nữa, thế mà thiên hạ không ai làm hại được nó (25). Nay các nước Hàn, Ngụy là những nước ở giữa, là nơi then chốt của thiên hạ. Nếu nhà vua muốn làm nghiệp bá thì thế nào cũng phải hòa thân với các nước ở giữa làm nơi then chốt cho thiên hạ để uy hiếp nước Sở, nước Triệu. Nếu nước Sở mạnh thì ta bênh vực nước Triệu; nước Triệu mạnh thì ta bênh vực nước Sở. Cả hai nước Triệu, Sở cùng theo ta thì thế nào nước Tề cũng hoảng sợ. Nước Tề hoảng sợ thì thế nào cũng dùng lời lẽ khiêm tốn, đem nhiều của cải đến để thờ nước Tần. Một khi nước Tề đã theo ta thì có thể cầm tù được nước Hàn, nước Ngụy (26).

Chiêu Vương nói :

- Ta muốn thân với nước Ngụy đã lâu, nhưng nước Ngụy là nước hay thay đổi luôn, quả nhân không thể hòa thân được, xin cho biết làm thế nào để hòa thân với Ngụy.

Phạm Thư đáp :

- Nhà vua dùng lời lẽ nhún nhường, đem nhiều của cải đến để phụng sự họ; nếu không được thì cắt đất mình mà đút lót cho họ nếu làm thế cũng không được thì phải đem binh mà đánh.

Nhà vua nói :

- Quả nhân xin vâng theo lời chỉ giáo.

Bèn cho Phạm Thư làm khách khanh (27) lo việc binh, cuối cùng nhà vua nghe theo mưu kế của Phạm Thư, sai ngũ đại phu và Uyển đánh Ngụy, lấy đất Hoài, hai năm sau đánh lấy đất Hình Khâu.

Khách khanh Phàm Thư lạl nói với Chiêu Vương :

- Địa hình của nước Tần và nước Ngụy cài vào nhau như bức gấm thêu. Nước Tần có nước Hàn cũng như cây gỗ có mọt, như con người có bệnh ở trong tim trong ruột vậy. Trong thiên hạ không có biến thì thôi, chứ đã có biến thì chẳng nước nào làm cho Tần phải lo sợ bằng nước Hàn đâu! Nhà vua thu phục Hàn là hơn cả.

Chiêu Vương nói :

- Ta từ lâu đã muốn thu phục nước Hàn, nhưng nước Hàn không nghe, vậy phải làm thế nào?

Phạm Thư đáp :

- Nước Hàn không nghe sao được? Nhà vua đem binh xuống đánh Huỳnh Dương thì con đường giao thông của đất Củng và đất Thành Cao bị tắt. Sau đó, quay về phía Bắc chặn đường Thái Hàng thì quân ở Thượng Đảng (28) không xuống được. Một khi nhà vua đem binh đánh Huỳnh Dương thì nước Hàn sẽ bị chia cắt thành ba khúc, nước Hàn thấy mình thế nào cũng mất, không nghe theo sao được? Nếu như nước Hàn nghe theo thì có thể lo đến cơ nghiệp bá.

Nhà vua nói :

- Phải đấy.

Bèn sai sứ sang nước Hàn.

Phạm Thư ngày càng thân với nhà vua, được nhà vua tin dùng trong mấy năm. Phạm Thư bèn nói riêng với nhà vua (29) :

- Khi thần ở Sơn Đông, thần nghe ở nước Tề có Điền Văn chứ không có vua Tề, nghe Tần có Thái hậu, có Nhương Hầu, Hoa Dương, Cao Lăng, Kinh Dương chứ không nghe nói có vua (30). Phàm có nắm được toàn quyền trong nước mới gọi là vua, có nắm được quyền sinh sát mới gọi là vua. Nay Thái hậu tự tiện chuyên quyền không đếm xỉa đến nhà vua, Nhương Hầu cho sứ ra đi không báo với nhà vua, Hoa Dương, Kinh Dương xét xử người ta không nể nang ai hết, Cao Lăng muốn làm hay muốn thôi, không cần hỏi nhà vua. Nước có bốn hạng người cao quý ấy mà không nguy thì xưa nay chưa hề có vậy. Nếu người ta theo bốn hạng người quý ấy thì có thể gọi không có nhà vua. Như thế thì uy quyền làm sao cho khỏi bị phá hoại, nhà vua làm sao còn có thể ban hành mệnh lệnh được nữa? Thần nghe nói vị vua giỏi trị nước thì ở trong nước nắm chắc lấy cái uy thế của mình, ở ngoài nước coi trọng cái quyền lực của mình. Sứ giả của Nhương Hầu nắm lấy quyền lực của nhà vua, uy hiếp chư hầu, chặt phù với thiên hạ, đem quân đánh nước người, ai cũng phải nghe theo. Nếu Nhương Hầu đánh thắng, lấy được đất thì cái lợi lại quay về đất Đào, còn chư hầu thì chịu thiệt hại; nếu Nhương Hầu đánh thua thì nhà vua kết oán với trăm họ, mà nước nhà lại phải chịu tai họa. Thơ có câu: “Cây mà nhiều quả thì làm gãy cành, cành bị gãy thì hại đến gốc. Làm đổ thành lớn thì nguy cho nước, đề cao bầy tôi thì hạ thấp nhà vua” (31). Thôi Trữ, Trác Xỉ cai trị nước Tề, bắn vào đùi nhà vua, rút gân nhà vua, treo nhà vua lên xà ở miếu, một ngày sau thì chết. Lý Đoái cai trị nước Triệu, giam Chủ Phụ (32) ở Sa Khâu được một trăm ngày thì Chủ Phụ chết đói. Nay thần nghe nói Tần thái hậu, Nhương Hầu chuyên quyền, Cao Lăng, Hoa Dương, Kinh Dương giúp cho họ, như thế kết quả là sẽ không còn vua Tần nữa, đó cũng là cái loại Trác Xỉ, Lý Đoái vậy. Vả chăng, đời Tam đại, sở dĩ nước mất là vì nhà vua cứ giao việc nước cho bầy tôi, tha hồ uống rượu, săn bắn, không lo việc chính sự. Những kẻ mà vua trao quyền binh là những kẻ ghen người hiền, ghét người có tài, đàn áp kẻ dưới, che mắt người trên để làm việc riêng của mình. Họ không lo đến việc nhà vua, nhưng nhà vua không tỉnh ngộ, vì vậy cho nên mất nước. Nay từ người quan nhỏ nhất trở lên, cho đến những vị quan lớn, thậm chí cả những người hầu hạ xung quanh nhà vua, không ai không phải là người của Thừa tướng. Thần thấy nhà vua đứng một mình ở triều, thần trộm lo cho nhà vua, vạn thế sau này người làm vua nước Tần, sẽ không phải là con cháu nhà vua nữa (33).

Chiêu Vương nghe vậy, hoảng sợ, nói :

- Phải đấy.

Bèn phế truất Thái hậu, đuổi Nhương Hầu, Cao Lăng, Hoa Dương, Kinh Dương ra ngoài cửa ải. Vua Tần bèn cho Phạm Thư làm Thừa tướng. Vua Tần thu ấn của Nhương Hầu, sai Nhương Hầu trở về đất Đào, nhân đó sai các quan cấp cho xe bò để chuyên chở đồ đạc. Đồ đạc chở hơn một ngàn cỗ xe. Khi đến cửa ải, người giữ cửa ải xét lại những đồ quý báu thì thấy những đồ của cải quý báu nhiều hơn cả cung vua. Vua Tần phong cho Phạm Thư đất Ưng, hiệu là Ứng Hầu. Bấy giờ là năm thứ 41 đời Tần Chiêu Vương (34).

3. Sau khi Phạm Thư làm Thừa tướng nước Tần, nước Tần gọi ông ta là Trương Lộc. Nước Ngụy không biết, cho là Phạm Thư chết đã lâu. Nước Ngụy nghe nói nước Tần sắp đem quân sang Đông đánh các nước Hàn, Ngụy, nên sai Tu Giả đến nước Tần. Phạm Thư nghe vậy cải trang, mặc áo quần lam lũ, đi bộ lẻn đến nhà khách, yết kiến Tu Giả. Tu Giả thấy Thư liền kinh ngạc hỏi :

- Phạm Thúc vẫn không can gì sao?

Phạm Thư đáp :

- Phải.

Tu Giả cười nói :

- Phạm Thúc đến làm thuyết khách ở nước Tần phải không?

- Thưa không ạ. Trước đấy, Thư có tội với tướng quốc nước Ngụy, cho nên bỏ trốn đến đây, đâu dám làm thuyết khách.

- Nay ông Thúc làm việc gì?

Phạm Thư nói :

- Tôi làm thuê cho người ta.

Tu Giả trong bụng thương hại, giữ lại cùng ngồi ăn cơm, nói :

- Phạm Thúc nghèo khổ đến thế sao?

Bèn lấy một cái áo bào thêu cho Phạm Thư. Nhân đấy, Tu Giả hỏi :

- Anh có biết Thừa tướng nước Tần là Trương Quân không? Tôi nghe nói ông ta được nhà vua yêu quý, việc trong thiên hạ đều do Thừa tướng quyết định. Công việc của tôi bây giờ thành công hay thất bại đều tùy ở Trương Quân cả. Này anh? Anh có ai bạn bè quen biết quan Thừa tướng không?

Phạm Thư nói :

- Ông chủ của tôi quen biết ông ta, nên tôi cũng có thể vào bái yết. Thư này xin giúp ông để cho ông yết kiến Trương Quân.

Tu Giả nói :

- Con ngựa của ta mắc bệnh, trục xe gãy, không có xe tứ mã lớn, nên ta không đi ra.

Phạm Thư nói :

- Tôi sẽ nói ông chủ của tôi mượn cho ông cái xe tứ mã lớn.

Phạm Thư về lấy xe tứ mã đưa cho Tu Giả và đánh xe cho Tu Giả vào phủ Thừa tướng nước Tần. Người trong phủ nhận ra Phạm Thư, ai nấy đều ẩn nấp trốn tránh. Tu Giả lấy làm lạ. Khi đến cửa nhà Thừa tướng, Phạm Thư nói với Tu Giả :

- Ông hãy đợi tôi một lát, tôi xin vào trước để báo với Thừa tướng.

Tu Giả đợi ở ngoài cửa, dừng xe hồi lâu, hỏi người môn hạ :

- Ông Phạm Thúc không ra là tại làm sao?

Người môn hạ nói :

- Không có ai là Phạm Thúc cả.

Tu Giả nói :

- Lúc nãy ông ta cùng tôi đi vào đấy mà.

- Đó là quan Thừa tướng của chúng tôi đấy.

Tu Giả cả kinh biết rằng mình bị lừa, bèn cởi trần đi bằng đầu gối rồi nhờ người môn hạ vào xin tha tội. Bấy giờ Phạm Thư bày màn trướng nghiêm chỉnh, kẻ hầu người hạ rất đông để tiếp kiến.

Tu Giả cúi đầu nói :

- Tội tôi đáng chết, giả tôi không ngờ ngài có thể tự mình lên đến tận mây xanh. Từ nay Giả không dám đọc sách thiên hạ, bàn việc thiên hạ nữa. Giả có cái tội phải bỏ vào vạc nước sôi, cúi xin ngài đuổi đến nơi man rợ, ngài cho sống thì được sống, ngài bắt chết thì xin chịu chết (35).

Phạm Thư nói :

- Nhà ngươi có mấy tội?

- Nhổ hết tóc của Giả để tính tội của Giả cũng còn chưa đủ.

Phạm Thư nói :

- Nhà ngươi chỉ có ba tội mà thôi. Trước đây thời Sở Chiêu Vương, Thân Bao Tư vì nước Sở mà đuổi quân Ngô, vua Sở phong cho ông ta đất Kinh năm nghìn hộ, Bao Tư từ chối không nhận vì mồ mả của ông cha đều ở đất Kinh (36). Nay mồ mả cha ông của Thư này cũng đều ở đất Ngụy, nhà ngươi trước đây cho rằng Thư này có ngoại tâm đối với Tề, gièm pha Thư với Ngụy Tề, đó là một tội. Lúc Ngụy Tề làm nhục ta ở trong nhà xí, nhà ngươi không ngăn cản, đó là hai tội. Đến khi uống rượu say lại đái vào ta, sao mà nhà ngươi nhẫn tâm đến thế! Đó là ba tội. Nhưng sở dĩ nhà ngươi được khỏi chết, là vì còn thương hại ta, tặng cái áo bào, tức là còn có tình nghĩa với người cũ, cho nên ta tha cho nhà ngươi.

Phạm Thư bèn tha tội và đuổi Tu Giả ra, vào nói với Chiêu Vương tha cho Tu Giả trở về.

Tu Giả từ gĩa Phạm Thư, Phạm Thư mở tiệc lớn, mời tất cả sứ thần các nước chư hầu ngồi trên nhà ăn uống rất sang, rất hậu. Trái lại, Tu Giả phải ngồi ở dưới thềm. Phạm Thư sai đặt một cái máng cho ngựa ăn trước mặt, sai hai người tội nhân bị chạm vào mặt, cho y ăn như người ta cho ngựa ăn vậy.

Phạm Thư mắng :

- Nhà ngươi nói với vua Ngụy hộ ta rằng khá mau mau xách đầu Ngụy Tề đến đây! Nếu không, ta sẽ làm cỏ thành Đại Lương.

Tu Giả về báo với Ngụy Tề. Ngụy Tề sợ chạy trốn đến nước Triệu ở nhà Bình Nguyên Quân..

Sau khi Phạm Thư đã làm Thừa tướng. Vương Kê nói với Phạm Thư :

- Có ba việc không thể biết, có ba việc không biết làm thế nào. Xe cung một sớm ra muộn, đó là điều thứ nhất không thể biết (37). Ngài bỗng nhiên bỏ quán xá đi là điều thứ hai không thể biết (38), tôi bỗng nhiên bị vất ra ngoài ngòi rãnh (39), đó là điều thứ ba không thể biết. Nếu xe vua một sớm ra muộn thì ngài tuy giận tôi, cũng không biết làm thế nào. Nếu ngài đột nhiên rời khỏi quán xá, thì ngài tuy giận tôi (40), cũng không biết làm thế nào. Nếu tôi đột nhiên bị ném ra ngoài ngòi rãnh thì ngài tuy có giận tôi, cũng không biết làm thế nào.

Phạm Thư không vui vào nói với nhà vua :

- Nếu không có Vương Kê trung thành thì không ai có thể đưa thần vào cửa ải Hàm Cốc, nếu nhà vua không phải bậc hiền thánh thì không có ai có thể làm cho thần được vinh hiển. Nay thần làm quan đến Thừa tướng, tước đến bậc hầu, mà Vương Kê chỉ đến chức yết giả đó không phải là ý của ông ta khi đưa thần vào cửa ải.

Chiêu Vương gọi Vương Kê đến, cho làm Thái thú Hà Đông, ba năm không báo lên nhà vua về việc cai trị ở đấy (41).

Thư lại tiến cử Trịnh An Bình. Chiêu Vương cho Trịnh An Bình làm tướng quân. Phạm Thư bèn phân tán tài sản trong nhà đem tất cả ra báo ơn những người đã giúp mình trong cảnh khốn khổ. Người mình chịu ơn một bữa ăn cũng báo; người ta trợn mắt với mình một cái cũng trả thù. Phạm Thư làm Thừa tướng nước Tần được hai năm.

Năm thứ 42 đời Tần Chiêu Vương (năm 265 trước Công nguyên), Phạm Thư sang Đông đánh Hàn, lấy đất Thiểu Khúc, Cao Bình, Tần Chiêu Vương nghe nói Ngụy Tề ở Bình Nguyên Quân, muốn báo thù cho Phạm Thư, bèn giả vờ viết một bức thư dùng lời lẽ khôn khéo đưa cho Bình Nguyên Quân, nói :

- “Quả nhân nghe nói ngài cao nghĩa muốn cùng ngài làm bạn áo vải, nếu may mắn được ngài đến với quả nhân thì quả nhân xin cùng ngài uống rượu mười ngày”.

Bình Nguyên Quân sợ Tần, vả lại cũng cho là phải nên vào nước Tần yết kiến Chiêu Vương. Chiêu Vương cùng Bình Nguyên Quân uống rượu mấy ngày. Chiêu Vương nói với Bình Nguyên Quân :

- Xưa Chu Văn Vương được Lữ Thượng cho làm thái công, Tề Hoàn Công được Quản Di Ngô cho làm trọng phụ. Nay Phạm Quân cùng là bậc thúc phụ của quả nhân, kẻ thù của Phạm Quân ở nhà ông. Xin ông cho người về lấy đầu của hắn đem lại đây, nếu không ta không cho ông ra khỏi cửa ải đâu.

Bình Nguyên Quân nói :

- Tuy mình sang, nhưng kết bạn với người ta là vì không quên cái nghĩa lúc mình còn thấp hèn. Tuy mình giầu, nhưng chơi với người ta là vì không quên cái nghĩa lúc mình còn nghèo túng. Ngụy Tề là bạn của Thắng, nếu ở nhà tôi, cố nhiên tôi không đem ra nộp, phương chi ông ta lại không ở nhà tôi.

Chiêu Vương bèn đưa thư cho vua Triệu, nói :

- Em trai của nhà vua ở Tần, kẻ thù của Phạm Quân là Ngụy Tề hiện đang ở nhà Bình Nguyên Quân. Nhà vua mau mau sai người đem đầu hắn lại đây, nếu không, ta sẽ đem binh đánh Triệu, lại không cho em nhà vua ra khỏi cửa ải đâu.

Vua Triệu là Hiếu Thành Vương bèn đem binh lính vây nhà Bình Nguyên Quân rất gấp, đang đêm Ngụy Tề trốn ra, ra mắt tướng quốc nước Triệu là Ngu Khanh. Ngu Khanh xem chừng không thể can nổi nhà vua, bèn cởi ấn tướng quốc, cùng Ngụy Tề bỏ trốn, lẻn ra đi. Nghĩ không thể trốn tránh ở nước chư hầu nào trong lúc nguy cấp cho nên lại chạy về Đại Lượng, muốn nhờ Tín Lăng Quân để chạy sang nước Sở. Tín Lăng Quân nghe tin, sợ Tần, đang do dự chưa dám tiếp kiến, nói :

- Ngu Khanh là người như thế nào?

Lúc bấy giờ Hầu Doanh ở bên cạnh nói :

- Con người ta thật là không dễ biết hết, biết người cũng không phải dễ. Ngu Khanh (42) đi giầy rơm, mang dù yết kiến vua Triệu, lần thứ nhất được thưởng một đôi bạch bích, một trăm cân vàng, yết kiến lần thứ hai được phong làm thượng khanh, yết kiến lần thứ ba được trao ấn tướng quốc, phong vạn hộ hầu. Trong lúc bấy giờ thiên hạ tranh nhau muốn biết ông ta. Thế mà khi Ngụy Tề cùng khốn đến nhà Ngu Khanh, Ngu Khanh không dám cho tước lộc là tôn quý, cởi ấn tướng quốc, bỏ tước vạn hộ hầu mà lẻn ra đi. Nay kẻ sĩ nguy cấp khốn cùng chạy về với công tử, công tử lại nói “người như thế nào”, thực là con người không dễ biết, biết người cũng không dễ vậy.

Tín Lăng Quân cả thẹn, lên xe ra ngoài đồng để đón.

Ngụy Tề nghe nói Tín Lăng Quân lúc đầu ngại tiếp kiến mình nên nổi giận tự đâm cổ chết. Vua Triệu nghe tin lấy đầu của Tề đưa cho nước Tần. Tần Chiêu Vương bèn cho Bình Nguyên Quân về nước Triệu (43).

4. Năm thứ 43 đời Tần Chiêu Vương (năm 264 trước Công nguyên), quân Tần đánh lấy đất Phần Hình của nước Hàn, nhân đó xây thành Quảng Vũ ở trên sông Hoàng Hà. Năm năm sau, Chiêu Vương đúng kế của Ứng Hầu tung phản gián vào mua chuộc nước Triệu. Vua Triệu vì vậy cho con Mã Phục thay Liêm Pha làm tướng (44). Quân Tần phá tan quân Triệu ở Trường Bình, rồi vây Hàm Đan. ít lâu sau, Vũ An Quân là Bạch Khởi có hiềm khích với Ứng Hầu, Ứng Hầu gièm với nhà vua và giết Bạch Khởi, sai Trịnh An Bình đánh Triệu. Trịnh An Bình bị quân Triệu vây rất gấp cho nên đem hai vạn quân đầu hàng nước Triệu. Ứng Hầu ngồi trên chiếu cỏ xin chịu tội. Theo pháp luật nhà Tần, người tiến cử và người được tiến cử không tốt đều có tội như nhau, Vì vậy, Ứng Hầu đáng lý bị tội giết cả ba họ. Vua Tần Chiêu Vương sợ phạm đến Ứng Hầu bèn ra lệnh trong nước: “Ai dám nói đến việc Trịnh An Bình thì sẽ trị theo tội của Trịnh An Bình”, trái lại, lại thưởng cho Ứng Hầu đồ ăn hậu hơn trước, hết sức làm cho Ứng Hầu an tâm. Hai năm sau, Vương Kê làm Thái thú Hà Đông, tư thông với chư hầu (45) bị tội giết (46), vì vậy Ứng Hầu ngày càng không vui.

Chiêu Vương ra triều thở dài, Ứng Hầu tâu :

- Thần nghe nói: “Vua lo thì tôi nhục, vua nhục thì tôi chết”. Nay đại vương ra triều lo lắng, thần xin hỏi thần có tội.

Chiêu Vương nói :

- Ta nghe nói kiếm sắt của nước Sở sắc mà việc ca múa lại kém. Phàm kiếm sắt mà sắc thì quân sĩ dũng cảm, ca múa mà kém thì suy nghĩ xa. Họ suy xa nghĩ rộng, có nhiều dũng sĩ, ta sợ nước Sở sẽ mưu lấy nước Tẩn. Phàm vật mà không chuẩn bị sẵn thì không thể ứng phó được trong lúc bất ngờ. Nay Vũ An Quân đã chết, bọn Trịnh An Bình làm phản, trong nước không có tướng giỏi, bên ngoài lại nhiều nước thù, ta lo lắng là vì thế.

Nhà vua muốn khích lệ ứng Hầu, Ứng Hầu lo sợ không biết bày mưu kế gì. Thái Trạch nghe vậy, vào nước Tần (47).

1. Thái Trạch là người nước Yên, đi du học, xin làm quan ở các nước lớn, lại đến nước nhỏ chẳng được ai dùng, bèn đến nhờ Đường Cử xem tướng. Thái Trạch nói :

- Tôi nghe tiên sinh xem tướng cho Lý Đoái, nói: “Nội trong năm ngày sẽ cầm quyền cả nước”, điều đó có không?

- Có.

- Như tôi thế nào?

Đường Cử nhìn chăm chú rồi cười mà nói :

- Tiên sinh mũi hếch, vai lồi, mặt to, sống mũi tẹt, đầu gối cong (48). Tôi nghe nói “thánh nhân không thể lấy chuyện tướng mạo mà nói được”, có lẽ tiên sinh là người như thế chăng?

Thái Trạch biết Đường Cử trêu mình, bèn nói :

- Việc giàu sang thì tôi đã có sẵn rồi, chỉ chưa biết có sống lâu hay không. Tôi muốn biết điều đó.

Đường Cử nói :

- Tiên sinh thọ từ giờ trở đi là 43 năm.

Thái Trạch cười từ giã ra đi, bảo người đánh xe :

- Ta ăn gạo ngon, thịt béo, ruổi ngựa đi nhanh, mang ấn vàng, lưng buộc dây ấn màu tía, vái chào trước mặt nhà vua, giàu sang thì bốn mươi ba năm cũng đủ.

Thái Trạch sang Triệu bị Triệu đuổi, sang Hàn, Ngụy trên đường đi bị người ta cướp mất nồi, chảo. Nghe nói Ứng Hầu dùng Trịnh An Bình, Vương Kê, đều phạm tội nặng với nước Tần, trong bụng Ứng Hầu có ý thẹn, Thái Trạch bèn đi sang phía Tây vào Tần (49).

2. Khi sắp ra mắt Chiêu Vương, Thái Trạch sai người phao tin để khích cho Ứng Hầu giận (50) :

- Có người khách nước Yên tên là Thái Trạch là người biện sĩ kiến thức siêu việt, biện luận tài giỏi, khôn ngoan khác thường, anh ta nếu vào yết kiến vua Tần thì thế nào cũng làm ngài nguy khốn và giật mất địa vị của ngài.

Ứng Hầu nói :

- Việc Ngũ Đế, Tam Đại, học thuyết của bách gia, ta đều biết cả, lời biện luận của mọi người ta đều bẻ gãy được. Nó làm khốn thế nào được ta mà đoạt được đia vị của ta.

Phạm Thư cho người gọi Thái Trạch đến (51). Thái Trạch vào vái chào Ứng Hầu. Ứng Hầu vốn đã không bằng lòng, đến khi tiếp kiến lại thấy y ngạo mạn, Ứng Hầu bèn trách y rằng :

- Ông thường phao tin rằng muốn thay ta làm Thừa tướng nước Tần có phải không?

Thái Trạch đáp :

- Phải.

Ứng Hầu nói :

- Xin cho nghe thuyết của ông như thế nào?