Sử ký Tư Mã Thiên - Chương 28 - Phần 01

Lý Tư liệt truyện

1. Lý Tư người đất Thượng Sái thuộc nước Sở. Lúc còn ít tuổi, Tư làm viên lại nhỏ ở quận, thấy con chuột trong nhà xí nơi mình làm việc ăn đồ bẩn thỉu, luôn luôn lo sợ gặp người và chó. Đến khi Tư vào trong kho, nhìn con chuột ở đấy, thấy nó ăn lúa no nê, ở dưới mái nhà lớn, không hề lo gặp phải người hay chó gì hết. Lý Tư bèn than :

- Người ta hiền tài hay kém cỏi chẳng qua cũng như con chuột kia, đều là nhờ ở hoàn cảnh đấy thôi!

Bèn theo Tuân Khanh học thuật làm đế vương (1).

Khi học thành tài. Tư nhận thấy mình có theo vua Sở cũng không làm nên sự nghiệp gì, mà sáu nước đều yếu không có nước nào có thể giúp để lập công danh, nên muốn sang tây vào nước Tần. Tư đến từ biệt Tuân Khanh, nói :

- Tư nghe nói gặp thời cơ không thể bỏ phí. Lúc này các nước chư hầu đang tranh giành nhau, thực quyền ở trong tay những người du thuyết. Nay vua Tần muốn nuốt thiên hạ, lên ngôi Hoàng đế để cai trị, đó là thời bay nhảy của kẻ áo vải thời trổ tài của kẻ du thuyết. Nếu ở địa vị thấp hèn, ai bỏ lỡ cơ hội, không làm thì cũng như cẩm thú nhìn thấy thịt là ăn, mang cái mặt người trơ trẽn đi ngoài đường đó thôi (2). Cho nên không có gì nhục bằng ở địa vị hèn hạ, không có gì buồn hơn gặp cảnh khốn cùng. Nếu ở mãi địa vị hèn hạ, chịu mãi cảnh khốn khổ lại còn chê cười thế tục, căm ghét danh lợi rồi tự phụ mình có những điều không thèm làm thì đó không phải là chí nguyện của kẻ du thuyết. Vì vậy Tư đi về hướng Tây để du thuyết vua Tần. Khi đến nước Tần, gặp lúc Trang Tương Vương chết, Lý Tư bèn cầu xin làm môn hạ của Văn Tín Hầu Lã Bất Vi làm Thừa tướng nước Tần. Bất Vi cho là người hiền dùng làm lang. Lý Tư nhờ vậy có cơ hội du thuyết. Tư nói với vua Tần như sau :

- Cứ ngồi chờ đợi nay lần mai lữa thì sẽ bỏ mất thời cơ. Làm nên công lớn là ở chỗ biết lợi dụng chỗ sơ hở rồi mạnh dạn làm. Ngày xưa Tần Mục Công làm bá nhưng cuối cùng cũng không đi về đông thâu tóm cả sáu nước là tại làm sao? Bởi vì lức bấy giờ chư hầu còn đông, đức của nhà Chu chưa suy; cho nên Ngũ bá kế tiếp nhau nổi lên nhưng cũng đều tôn nhà Chu. Từ thời Tần Hiếu Công trở đi nhà Chu suy đốn, chư hầu thôn tính lẫn nhau, ở phía Đông Hàm Cốc quan là sáu nước; nước Tần thừa thắng nô dịch chư hầu đã sáu đời nay. Nay chư hầu phục tùng cũng như quận huyện nước Tần vậy Nước Tần mạnh, nhà vua tài giỏi thì việc tiêu diệt chư hầu, dựng nên nghiệp đế, thống bất thiên hạ cũng dễ như quét bụi trong bếp. Đó là thời cơ muôn đời mới có! Nay nếu nhà vua bỏ qua thời cơ này không vội túm lấy nó thì chư hẩu sẽ mạnh lên, hợp tung với nhau, lúc bấy giờ dù có giỏi như vua Hoàng Đế cũng không sao thôn tính được nữa.

Vua Tần bèn cho Tư làm trưởng sử, nghe theo kế của Tư, ngầm sai mưu sĩ mang vàng bạc châu ngọc, đi du thuyết chư hầu. Xem các danh sĩ ở chư hầu người nào có thể mua chuộc bằng tiền thì cho tiền để liên kết với họ, còn người nào không nghe thì dùng kiếm sắc đâm chết, cốt để ly gián vua tôi của họ. Sau đó vua Tần mới phái tướng giỏi đem quân đến đánh.

Vua Tần cho Tư làm khách khanh (3).

2. Gặp lúc Trịnh Quốc người nước Hàn đến để can vua Tần đừng đào sông tưới ruộng (4), sau dó việc vỡ lở ra, các tôn thất và các quan đại thần đều nói với vua Tần :

- Người các nước chư hầu đến thờ Tần nói chung đều vì vua của họ mà du thuyết, cốt làm cho Tần ly gián, xin đuổi tất cả những người khách đi.

Lý Tư cũng ở trong số khách bị đuổi, bèn dâng thư nói :

“Thần nghe nói quan lại bàn đến việc đuổi khách, thần trộm cho là sai.

Ngày xưa Mục Công tìm kẻ sĩ, ở phía Tây lấy Do Dư ở đất Nhung, ở phía Đông lấy Bách Lý Hề ở đất Uyển, đón Kiền Thúc ở đất Tống, Cầu Phi Báo, Công Tôn Chi ở đất Tấn. Năm người này đều không sinh ở đất Tần nhưng Mục Công vẫn dùng nên thôn tính dược hai mươi nước, rốt cục làm bá ở Tây Nhung. Hiếu Công dùng phép trị nước của Thương ương, thay đổi phong tục, nhờ đó đần đông, nước giầu, trăm họ vui vẻ vâng theo, chư hầu về hàng phục, bắt được tướng của các nước Sở, Ngụy, cướp đất ngàn dặm, đến nay nước yên và mạnh, Huệ Vương dùng kế của Trương Nghi, cướp đất Tam Xuyên; phía Tây thôn tính đất Ba, đất Thục, phía Bắc thu đất Thượng Quận, phía Nam thu đất Hán Trung, lấy được chín Di, khống chế các đất Yến, Sính, phía Đông dựa vào địa thế hiểm yếu của Thành Cao, cắt các đất màu mỡ;cho nên phá tan được kế hợp tung của sáu nước, khiến họ ngoảnh mặt về hướng Tây mà thờ nước Tần, công lao còn mãi đến ngày nay. Chiêu Vương được Phạm Thư, phế truất Nhương Hầu, đuổi Hoa Dương làm cho công thết được mạnh, quyền môn bị lấp, xâm chiếm chư hầu như tằm ăn lá dâu, khiến cho nước Tần lập nên nghiệp đế. Bốn vị vua kia đều nhờ công lao của những người khách. Xem thế đủ biết những người khách có phụ bạc gì với nước Tần đâu?

Giả sử bốn vị vua kia đều đuổi những người khách đi mà không nhận, xa lìa kẻ sĩ mà không dùng, thì thế là khiến cho nước nhà thực ra không được giầu có, mà nước Tần lại không được cái danh là lớn, và mạnh. Nay bệ hạ lấy ngọc Côn Sơn, có của báu Tùy Hầu, Biện Hòa (5) có châu Minh Nguyệt, đeo kiếm Thái A, cưỡi ngựa Tiêm Ly, cắm cờ Thúy Phụng, dựng trống Linh Đà. Những của báu này nước Tần không sản sinh ra một thứ nào. Nhưng bệ hạ lại thích là tại làm sao?

Nếu như cái gì cũng phải sinh ra ở nước Tần mới được thì ngọc bích dạ quang sẽ không trang sức ở triều đình, sừng tê ngà voi sẽ không làm trò chơi, và con gái nước Triệu sẽ không đưa vào hậu cung. Ngựa tuấn mã, ngựa quyết đề sẽ không ở lại chuồng ngựa; không dùng vàng, thiếc Giang Nam, không nhuộm bằng màu đỏ màu xanh Tây Thục. Nếu những trang sức ở hậu cung, những tỳ thiếp đứng đằng sau làm vui lòng đẹp ý, thích mắt khoái tai, đều phải của nước Tần mới được, thì trâm Uyển Châu, hoa tai Phụ Cơ, áo lụa Đông A, các thứ gấm vóc sẽ không được dâng trước mặt nhà vua mà những người con gái nước Triệu hình dung yểu điệu theo tục trở lên trang nhã, sẽ không đứng bên cạnh nhà vua. Gõ vại, khua vò, đánh đàn tranh, vỗ đùi mà ca hò “ồ ồ” vui tai sướng mắt, đó chính là nhạc của nước Tần. Còn các nhạc Tang Gian của Trịnh, Vệ, nhạc Thiều Ngu, nhạc Vũ Tượng đều là nhạc của nước ngoài. Nay bỏ việc gõ vại, khua vò mà theo lối nhạc Trịnh, Vệ; bỏ việc đánh đàn tranh mà theo nhạc Thiều Ngu là tại làm sao? Chẳng qua là âm thanh này làm vừa ý ngẫu nhiên xem nó thì thích, thế thôi?

Nay lấy người thì lại không như thế, không hỏi nên chăng, không kể ngay gian; nếu không phải là người Tần thì bỏ, nếu ai là khách thì đuổi. Như vậy tức là nhà vua qúy trọng sắc đẹp, âm nhạc, châu báu, ngọc ngà còn khinh rẻ người.

Làm như thế không phải là cái thuật để cưỡi cổ thiên hạ, khống chế chư hầu vậy.

Thần nghe nói: đất rộng thì lúa nhiều, nước lớn thì người đông, quân mạnh thì tướng sĩ dũng cảm. Núi Thái Sơn không từ một hòn đất cho nên mới lớn như vậy; sông HoàngHà và biển Đông không từ nhũng dòng nước nhỏ cho nên mới sâu như vậy. Bậc vương giả không đuổi dân chúng thấp hèn mới có thể làm sáng cái đức của mình. Cho nên đất không có bốn phương, người không ai là người nước ngoài (6), bốn mùa đều đẹp quỷ thần đưa phúc đến. Ngũ đế, Tam vương sở dĩ vô địch là vì vậy.

Nay nhà vua lại bỏ bọn đầu den để giúp cho nước địch, đuổi tân khách để giúp chư hầu lập nên cơ nghiệp, khiến kẻ sĩ trong thiên hạ không dám quay mặt về hướng Tây, dừng chân không vào nước Tần. Như thế tức là, như người ta nói, giúp binh khí cho giặc và đem lương thực cho bọn ăn trộm vậy: Những vật không sản xuất ở nước Tần mà dáng quý trọng cũng nhiều; kẻ sĩ không sinh ở nước Tần nhưng muốn trung với nước Tần cũng lắm. Nay nhà vua đuổi khách đi để giúp cho nước địch, bỏ dân đi để thêm cho kẻ thù; như thế là ở bên trong tự làm cho mình yếu và bên ngoài gây oán với chư hầu, muốn cho nước khỏi nguy cũng không thể nào được”.

Vua Tần bèn bỏ lệnh đuổi khách, cho Lý Tư làm quan như cũ.

3. Cuối cùng nhà vua dùng kế của Tư. Tư làm quan đến Đình úy. Được hơn 20 năm, nước Tần rốt cục thôn tính thiên hạ. Vua làm Hoàng đế, cho Tư làm Thừa tướng. Nhà Tần san phẳng thành quách, các quận các huyện nấu chảy binh khí để biểu lộ không đùng đến nó nữa. Tư khiến nước Tần không phong cho ai một thước, một tấc đất nào, không lập con em làm vương, các công thần làm chư hầu để đời sau khỏi lo việc các nước đánh nhau.

Năm thứ ba mươi tư đời Thủy Hoàng (năm 213 trước Công nguyên), nhà vua sai đặt tiệc rượu ở cung Hàm Dương. Bọn bác sĩ Chu Thanh Thần làm bộc xạ ca tụng uy thanh và công đức của Thủy Hoàng. Thuần Vu Việt người nước Tề tiến lên can :

- Thần nghe: nhà Ân, nhà Chu làm vua hơn nghìn năm, phong các con em, các công thần để cho họ làm phên dậu giúp đỡ mình. Nay bệ hạ giầu có bốn biển nhưng con em vẫn là kẻ thất phu; nếu đột nhiên xảy ra việc như bọn Điền Thường hay bọn lục khanh (7) thì không ai giúp đỡ, làm sao có thể cứu nhau được. Trong công việc không bắt chước đời xưa mà có thể lâu dài là điều chưa hề nghe nói. Nay bọn Thanh Thần lại xiểm nịnh bệ hạ để làm cho điều sai lầm của bệ hạ thêm nặng, như vậy không phải là kẻ trung thần. Thủy Hoàng đưa lời bàn của ông ta xuống Thừa tướng. Thừa tướng cho thuyết ấy là sai, loại bỏ ý kiến của ông ta. Bèn dâng thư nói :

“Ngày xưa thiên hạ rối loạn và phân tán, không ai thống nhất được. Do đó chư hầu tranh nhau; khi nói, mọi người đều đem huyện đời xưa làm hại việc nay bày đặt nói những lời nói suông để làm loạn việc thực. Mọi người đều lấy cái học riêng của mình để chê bai những điều nhà vua làm. Nhưng nay Hoàng đế đã thâu tóm cả thiên hạ, phân biệt trắng đen mà định ra điều duy nhất được tôn trọng. Trái lại, những kẻ học theo cái học riêng của mình cùng nhau chê cười pháp luật rồi đem dạy cho người ta. Khi nghe lệnh ban xuống tức thì họ đều lấy cái học riêng của mình để bàn tán. Khi vào triều thì trong bụng chê bai. Ra ngoài đường thì xúm bàn trong ngõ, chê vua để lấy tiếng, làm khác người để tỏ là cao, bày cho kẻ dưới phỉ báng. Nếu cứ như thế mà không cấm thì ở trên uy thế của nhà vua sẽ bị giảm sút; ở dưới các bè đảng sẽ nổi lên. Nên cấm là hơn. Thần xin tâu: ai có sách văn học, Kinh thi, Kinh thư sách vở của trăm nhà thì đều hủy bỏ đi. Lệnh này ban ra ba mươi ngày mà ai không hủy bỏ thì khắc vào mặt đày đi giữ thành. Những sách không hủy bỏ là sách thuốc, sách bói, sách trồng cây. Người nào muốn học thì phải lấy kẻ lại làm thầy”.

Vua Tần Thủy Hoàng chuẩn y lời tấu ấy, thu các sách Kinh thi, Kinh thư, bách gia để làm trăm họ ngu tối khiến cho thiên hạ không được lấy điều xưa mà chê ngày nay. Việc định ra pháp độ rõ ràng, đặt luật lệ bắt đầu từ Thủy Hoàng. Thống nhất văn tự, xây các ly cung và các biệt quán khắp trong thiên hạ. Năm sau lại đi tuần thú, bên ngoài thì đánh dẹp từ di. Trong những việc này đều có công của Tư. Con trai đầu của Tư là Do làm Thái thú Tam Xuyên. Mấy người con trai đều lấy công chúa nước Tần, con gái thì lấy công tử các nước Tần. Thái thú Tam Xuyên Lý Do xin nghỉ về Hàm Dương, Lý Tư đặt tiệc rượu ở nhà, trăm quan đều đến trước mặt chúc thọ; ở ngoài sân, ngoài cửa, xe ngựa kể có hàng nghìn. Lý Tư thở dài than rằng :

- Than ôi! Ta nghe Tân Khanh nói: “Sự vật không nên đi đến chỗ quá thịnh”. Tư này là kẻ áo vải đất Thượng Sái, một tên đầu đen ở nơi làng xóm, nhà vua không biết ta hèn kém, cất nhắc lên đến thế này. Nay ta ở địa vị bầy tôi không thua kém ai, có thể nói là giầu sang cùng cực rồi vậy. Phàm sự vật đến cùng cực rồi thì sẽ suy, ta chưa biết sau này kết cục ra sao (8).

3. Tháng 10 năm thứ ba mươi bẩy đời Thủy Hoàng (năm 210 trước Công nguyên) nhà vua đi chơi Cối Kê, và dọc bờ bể, phía Bắc đến Lang Gia. Thừa tướng Lý Tư, trung xa phủ lệnh kiêm chức giữ phù, ấn nhà vua là Triệu Cao cùng đi theo. Thủy Hoàng có hơn hai mươi người con. Con cả là Phù Tô vì mấy lần can thẳng nên nhà vua sai coi binh ở Thượng Quận, Mông Điềm làm tướng ở đấy. Con nhỏ là Hồ Hợi được nhà vua yêu, xin đi theo. Nhà vua bằng lòng.

Những người con khác không ai được theo.

Tháng 7 năm ấy, Thủy Hoàng đến Sa Khâu bị bệnh nặng, sai Triệu Cao viết thư gửi cho công tử Phù Tô nói :

“Giao binh cho Mông Điềm, mau về lo việc tang đưa về Hàm Dương để chôn”. Bức thư đã dán rồi nhưng chưa trao cho sứ giả thì Thủy Hoàng mất. Thư và ấn đều ở chỗ Triệu Cao. Chỉ có con là Hồ Hợi, Thừa tướng là Lý Tư, Triệu Cao và năm sáu viên hoạn quan được nhà vua yêu biết là Thủy Hoàng đã chết; còn quần thần không ai biết. Lý Tư cho là vua mất ở ngoài, không có Thái tử chân chính, nên giấu kín việc ấy. Sai đặt Thủy Hoàng trong cái xe mát, trăm quan vẫn tâu trình, việc dâng đồ ăn như mọi ngày. Một viên hoạn quan ngồi trong xe chuẩn y lời tâu. Triệu Cao (9) nhân đấy giữ lại bức thư gửi cho Phù Tô và nói với công tử Hồ Hợi :

- Nhà vua mất, không có chiếu phong các con làm vương mà chỉ gửi thư cho con cả: nếu con cả đến thì lập tức được lập làm Hoàng đế. Còn ông không có một tấc đất, bây giờ làm thế nào?

Hồ Hợi dáp :

- Cái dó đã đành! Ta nghe nói vị vua sáng suốt biết bầy tôi, người cha sáng suốt biết con mình. Cha mất không phong các con, còn nói gì được nữa?

Triệu Cao nói :

- Không phải. Lúc này quyền thế trong thiên hạ, việc mất hay còn là ở ông, Cao và Thừa tướng mà thôi: Xin ông nghĩ cho! Vả lại, việc bắt người ta làm bầy tôi với việc làm bầy tôi người ta; chế ngự người ta với việc bị người ta chế ngự là khác nhau một vực một trời.

Hồ Hợi nói :

- Bỏ anh lập em là bất nghĩa; không theo lời chiếu của cha mà sợ chết là bất hiếu; sức kém, tài mỏng, nhờ sức người khác là không tài năng. Cả ba cái này đều trái với đức thì thiên hạ không phục; làm thế thân mình sẽ gặp tai nạn, xã tắc không được cúng tế.

Triệu Cao nói :

- Tôi nghe vua Thang, vua Vũ giết vua của mình mà thiên hạ khen họ là nghĩa, không cho họ là không trung, vua Vệ giết cha mà nước Vệ khen ông ta là có đức, Khổng Tử chép việc ấy, không cho là không hiếu. Phàm làm việc lớn thì không kể đến những điều vặt vãnh; đức dày thì không nhường nhịn. Việc vặt ở nơi xóm làng thì xóm làng bàn, trăm quan công việc mỗi người một khác. Cho nên, nếu để ý đến việc nhỏ mà bỏ quên việc lớn thì thế nào sau này cũng gặp hại, cứ dùng dằng nghi ngờ mãi thì thế nào sau này cũng hối hận, người quyết đoán và dám làm, quỷ thần phải tránh, thì về sau sẽ thành công. Xin ông nghe theo lời tôi.

Hồ Hợi thở dài than :

- Nay việc vua mất còn giấu, việc tang lễ chưa xong, lẽ nào lại đem việc này bàn với Thừa tướng sao?

Triệu Cao nói :

- Thời cơ, thời cơ gấp rút, nếu trì hoãn thì không trù tính gì được. Phải mang lương khô ruổi ngựa còn sợ lỡ cơ hội (10)

Sau khi Hồ Hợi đã nghe lời Cao, Cao nói :

- Nếu chúng ta không bàn mưu với Thừa tướng thì sợ công việc không thành. Thần xin vì ngài bàn mưu ấy với Thừa tướng.

Cao bèn nói với Thừa tướng Lý Tư (11) :

- Nhà vua băng hà, đưa thư cho con đầu bảo làm lễ an táng ở Hàm Dương và lập Thái tử nối ngôi. Thư vẫn chưa gửi đi. Nay nhà vua mất chưa ai biết cả. Bức thư gửi cho người con đầu và phù, ấn đều ở chổ Hồ Hợi. Việc lập Thái tử là do ở miệng ngài và Cao thôi. Bây giờ nên làm thế nào (12)?

Lý Tư nói :

- Sao lại nói lời “mất nước” như vậy? Việc đó không phải việc bọn bầy tôi bàn (13).

Triệu Cao nói :

- Ngài hãy tự liệu xem, tài năng của ngài so với Mông Điềm ai giỏi hơn? Công lao của ngài so với Mông Điềm ai hơn? Về mặt không gây oán với thiên hạ thì ngài với Mông Điềm ai lớn hơn? Về mặt người con đầu của nhà vua quen biết đã lâu và tin dùng ngài so với Mông Điềm ai hơn (14)?