Sử ký Tư Mã Thiên - Chương 40 - Phần 01

Hoạt Kê liệt truyện

1. Khổng Tử nói :

- Sáu kinh đối với việc trị dân đều thống nhất làm một (1). Kinh Lễ dùng để giữ gìn người ta. Kinh Nhạc dùng để gây vui. Kinh Thư dùng để kể việc. Kinh Thi để bày tỏ tình ý. Kinh Dịch để nêu sự thay đổi. Kinh Xuân Thu để dạy chính nghĩa.

Thái Sử Công nói :

- Đạo trời lồng lộng, to biết bao nhiêu! Lời nói bông đùa nếu hơi hợp chính dạo cũng đủ giải được những điều rắc rối (2).

2. Thuần Vu Khôn là người gửi rể ở nước Tề. Mình cao không đầy bảy thước, giỏi bông lơn, có tài biện luận, mấy lần sang sứ chư hầu, chưa hề chịu thua, chịu nhục. Thời vua Tề Uy Vương, thích nói bóng gió, thích thứ nhạc dâm dật, suốt đêm say sưa li bì, không lo chính sự mà giao tất cả cho bọn khanh, dại phu. Trăm quan biếng nhác rối loạn. Chư hầu kéo nhau đến xâm lấn. Thế nước nguy vong chỉ trong sớm tối. Các quan không ai dám can.

Thuần Vu Khôn dùng cách nói bóng gió để thuyết phục nhà vua.

- Trong nước có con chim lớn đậu ở giữa sân nhà vua. Ba năm nay nó không bay cũng không kêu. Nhà vua có biết con chim ấy là chim gì không?

Nhà vua nói :

- Con chim ấy không bay thì thôi, chứ đã bay thì tung trời! Không kêu thì thôi, chứ dã kêu thì làm cho người ta khiếp oai?

Nói thế rồi đòi các quan cầm đầu các huyện vào chầu tất cả có 72 người.

Thưởng một người, giết một người... Cất quân ra đánh. Chư hầu hoảng sợ đều trả lại các đất đã lấy của Tề. Oai vua lừng lẫy ba mươi sáu năm. Việc này chép trong Điền, Hoàn thế gia (3). Năm thứ tám thời Uy Vương (371 trước Công nguyên) nước Sở đem đại quân đánh Tề. Vua Tề sai Thuần Vu Khôn sang Triệu xin quân cứu viện, vua sai đem đi một trăm cân vàng, mười cỗ xe bốn ngựa. Khôn ngửa mặt lên trời cả cười đứt cả dải mũ. Vua hỏi :

- Tiên sinh chê ít sao?

Khôn nói :

Đâu dám thế!

Vua nói :

- Thế cười là muốn nói gì?

- Sáng nay thần từ phương Đông lại đây. Thấy bên đường có kẻ cầu thần ruộng, đem bày một chén rượu, một chân giò mà khấn: “Ruộng cao đầy thúng ruộng thấp đầy xe! Ngũ cốc được lớn, đầy nhà ê hề!”. Thần thấy nó đưa lễ thì ít mà lòng mong thì quá nhiều cho nên cười.

Tề Uy Vương liền cho đem thêm một nghìn cân vàng, mười đôi ngọc bích trắng, trăm cỗ xe bốn ngựa. Khôn từ biệt ra đi. Sang Triệu, vua Triệu cho sang một nghìn cỗ xe bọc da, mười vạn quân tinh nhuệ. Vua Sở nghe tin đang đêm rút quân về. Uy Vương cả mừng, đặt tiệc ở hậu cung, mời Khôn, cho uống rượu, hỏi :

- Tiên sinh uống được bao nhiêu rượu thì say?

Khôn đáp :

- Thần uống một đấu cũng say, một hộc (4) cũng say.

Uy vương nói :

- Tiên sinh uống một đấu đã say thì uống thế nào được một hộc? Tiên sinh có thể cho biết tại sao lại nói như vậy không?

Khôn nói :

- Nếu cho rượu uống trước mặt đại vương, có quan chấp pháp đứng bên cạnh, quan ngự sử (5) nấp sau lưng thì Khôn sợ hãi cúi đầu mà uống, chỉ mới một đấu đã say. Nếu cha mẹ có khách Quý, Khôn vén áo khom lưng hầu rượu ở trước mặt, thỉnh thoảng ban cho mấy giọt rượu thừa, lại phải bưng chén chúc thọ, phải đứng lên hầu rượu luôn, như thế chỉ mới hai đấu đã say. Còn nếu bạn bè chơi bời lâu ngày không gặp nhau, bỗng nhiên gặp gỡ, mừng rỡ kể chuyện cũ, đem chuyện riêng ra nói cùng nhau, như thế có thể uống được năm sáu đấu là say. Nhưng đến như ngày hội ở nhà quê, trai gái ngồi lẫn lộn, mời rượu dằng dai, đánh bạc, ném hồ, kéo nhau tụm năm tụm ba, nắm tay cũng không ai phạt, mắt nhìn nhau cũng không ai cấm. Đằng trước có cái hoa tai đánh rơi, đằng sau có cái trâm bị bỏ sót, Khôn trộm lấy thế làm vui, có thể uống tám đấu cũng chỉ say hai phần. Khi trời chiều tiệc vãn, dồn chén ngồi kề, gái trai cùng chiếu, giày dép lẫn lộn, chén bàn bừa bãi, trên thềm tắt đuốc, chủ nhân giữ Khôn ở lại mà tiễn khách ra, áo là cởi bỏ, thoáng thấy mùi hương phưng phức. Trong lúc bấy giờ lòng Khôn rất vui, có thể uống được một hộc. Vì vậy nói rượu quá hóa loạn, vui quá hóa buồn, muôn việc đều thế. Mọi việc đều không thể quá. Hễ quá thì hỏng, nên dùng lời nói bóng mà can ngăn.

Vua Tề nói :

- Hay.

Bèn bãi bỏ việc uống rượu suốt đêm, cho Khôn coi việc tiếp khách chư hầu. Khi các tôn thất đặt tiệc rượu. Khôn thường ngồi một bên 3. Sau đó, hơn một trăm năm, ở nước Sở có Ưu Mạnh. Ưu Mạnh là người nhạc công ở nước Sở. Mình cao tám thước, giỏi biện bác; thường dùng lời nói bông đùa để tỏ ý can ngăn. Thời Sở Trang Vương có con ngựa yêu, cho mặc áo gấm, đặt dưới mái nhà có chạm trổ, đứng trên cái giường không có màn, cho ăn táo khô. Con ngựa mắc bệnh béo mà chết. Nhà vua sai quần thần để tang, muốn dùng quan khách khâm liệm chôn theo lễ đại phu. Những người xung quanh can ngăn là không nên. Nhà vua ra lệnh :

- Ai dám can ngăn về việc ngựa thì chịu tội chết.

Ưu Mạnh nghe vấy, vào cửa điện ngẩng đầu lên trời, khóc rống. Nhà vua kinh ngạc hỏi vì sao.

Ưu Mạnh nói :

- Con ngựa là vật nhà vua yêu. Một nước đường đường như nước Sở làm cái gì chẳng được mà lại phải chôn theo lễ đại phu, như thế thì quá bạc. Xin chôn theo lễ nhà vua.

Nhà vua nói :

- Chôn như thế nào?

Ưu Mạnh nói :

- Thẩn xin đẽo ngọc để làm áo quan, lấy gỗ tử có vân để làm quách, lấy gỗ biền, gỗ phong, gỗ dự chương để ở ngoài áo quan, sai quân sĩ mang áo giáp đào huyệt ở ngoài, những người già yếu mang đất, nước Tề, nước Triệu đứng tế ở trước, nước Hàn, nước Ngụy hộ vệ mặt sau, lập miếu thờ, dùng cỗ thái lao để tế, phong ấp vạn nhà (6). Chư hầu nghe vậy đều biết nhà vua coi rẻ người mà Quý ngựa (7).

Nhà vua nói :

- Quả nhân sai lầm đến thế à? Bây giờ nên làm thế nao?

Mạnh nói :

- Xin đại vương chôn như chôn súc vật. Lấy bếp để làm quách, lấy vạc đồng để làm quan tài, thêm vào gừng để làm gia vị, đặt trên mâm cỗ mộc lan, lấy gạo nếp để tế, cho mắc áo lửa để chôn vào trong bụng người ta.

Nhà vua bèn sai người giao ngựa cho viên quan lại coi việc bếp núc, không khiến thiên hạ nói đến việc chôn ngựa nữa.

Tướng quốc nước Sở là Tôn Thúc Ngao biết Ưu Mạnh là người hiền nên chơi thân với Mạnh. Đến khi mắc bệnh sắp chết, Ngao trối lại với con rằng :

- Ta chết, mày thế nào cũng nghèo khổ. Mày đến gặp Ưu Mạnh nói rằng mày là con ông Tôn Thúc Ngao.

Được mấy năm, người con nghèo khổ đì gánh củi, gặp Ưu Mạnh bèn nói :

- Tôi là con ông Tôn Thúc Ngao. Khi cha tôi sắp chết có trối lại rằng nếu tôi nghèo khổ thì sẽ tìm đến ông.

Ưu Mạnh nói :

- Ông chớ có đi đâu xa.

Bèn làm áo mũ của Tôn Thúc Ngao bắt chước cử chỉ lời nói. Được hơn một năm ròng thì y như Tôn Thúc Ngao. Vua Sở và người xung quanh không ai phản biện được. Sở Trang Vương đặt tiệc rượu, Ưu Mạnh tiến ra chúc thọ, Trang Vương kinh hãi, cho là Thúc Ngao sống lại, muốn cho làm tướng quốc. Ưu Mạnh nói :

- Xin cho thần về bàn với vợ, ba hôm nữa sẽ làm tướng quốc.

Trang Vương bằng lòng. Ba bốn hôm sau Ưu Mạnh lại đến. Nhà vua nói :

- Vợ nhà người nói thế nào?

Ưu Mạnh đáp :

- Vợ thần bảo chớ có làm, không nên làm tể tướng nước Sở! Đấy Tôn Thúc Ngao làm tể tướng nước Sở, cai trị nước Sở hết sức trung thành và liêm khiết, nhờ vậy vua nước Sở được làm bá. Nhưng nay chết rồi, người con không có đất cắm dùi, nghèo khổ, gánh củi để kiếm ăn. Nếu làm như Tôn Thúc Ngao thì không bằng tự sát cho rồi.

Nhân đó hát rằng :

- Ở trong núi cày ruộng khổ, kiếm ăn khó: Ra làm quan, thấy bọn tham lam bỉ ổi có nhiều của, không nghĩ đến sỉ nhục, khi chết nhà giàu có. Nhưng lại sợ lấy của hối lộ, phạm pháp, làm niệc gian, mắc tội nặng thân bị giết, nhà cũng bị diệt vong. Làm tham quan làm gì! Làm quan thanh liêm giữ phép tắc, giữ chức vụ đến chết không dám làm điều trái. Làm quan thanh liêm làm gì?

Tể tướng nước Sở là Tôn Thúc Ngao, giữ gìn thanh liêm cho đến chết; nhưng nay vợ con nghèo khổ gánh củi để kiếm ăn, không nên làm!

Trang Vương bên cảm tạ Ưu Mạnh và gọi con của Tôn Thúc Ngao ra phong cho đất Tẩm Khâu có bốn trăm hộ để lo việc tế tự. Đến mười đời sau, đất phong cũng không mất. Trí khôn ấy có thể nói việc thời ghi vậy (8).

4. Hơn hai trảm năm sau, nước Tần có Ưu Chiên, Ưu Chiên là con hát Tần, người lùn, giỏi cách nói bông đùa, nhưng lại hợp đạo lớn. Thời Tần Thủy Hoàng đặt tiệc rượu, bỗng gặp trời mưa to. Những người đứng hầu ngoài thềm đều bị ướt và lạnh. Ưu Chiiên thấy thế thương họ, bảo họ rằng :

- Các anh có muốn nghỉ hay không?

Những người đứng hầu ngoài thềm đều nói :

- Được thế thì may lắm.

Ưu Chiên nói :

- Khi nào ta gọi các ngươi thì các ngươi phải “dạ” ngay.

Được một lát, ở trên diện chúc thọ hô “vạn tuế”. Ưu Chiên đến lan can hô lớn :

- Các quan đang ở dưới thềm!

Các quan lang nói :

- Dạ!

Ưu Chiên nói :

- Các người cao lớn có ích gì! Lại đứng ngoài trời bị mắc mưa. Ta đây tuy lùn thấp những được ở trong nhà nghỉ ngơi.

Tần Thủy Hoàng bèn cho những người hầu ở thềm được chia đôi thay phiên nhau chầu chực.

Thủy Hoàng thường bàn mở rộng vườn của nhà vua phía Đông đến cửa ải Hàm Cốc, phía Tây đến đất Ung, đất Trần Thương.

Ưu Chiên nói :

- Hay lắm! Cứ thả nhiều cầm thú vào đấy. Nếu kẻ cướp từ phương Đông đến thì chỉ sai hươu nai húc chúng cũng đủ.

Tần Thủy Hoàng vì vậy thôi không làm nữa. Đến khi Tần Nhị Thế lên ngôi lại muốn sơn thành. Ưu Chiên nói :

- Hay lắm? Chúa thượng tuy không nói, nhưng thần cũng đã muốn xin điều đó. Sơn thành tuy làm trăm họ khổ sở và tốn kém, nhưng đẹp làm sao! Thành xây láng bóng, giặc đến không sao trèo lên được. Nếu như muốn trèo lên thì dễ bị sơn lấm vào người. Chỉ khổ một điều bị sơn lấm vào người, không làm được nhà che.

Tần Nhị Thế cười. Vì vậy bỏ việc đó. Chẳng bao lâu Nhị Thế bị giết chết.

Ưu Chiên về nhà Hán được mấy năm thì mất.

4. Thái sử công nói :

- Thuần Vu Khôn ngẩng mặt lên trời cả cười, Tề Uy Vương đắc chí? Ưu Mạnh lắc đầu mà ca, người gánh củi được đất phong. Ưu Chiên đến lan can hô lớn, những người ở dưới thềm lần lượt được thay thế nhau một nửa chẳng phải là việc lớn đáng khen hay sao?

Chử tiên sinh (9) nói :

- Tôi may mắn nhờ được nho thuật mà làm quan lang lại thích đọc những lời lưu truyền của các sách ngoài, xin mạo muội chép thêm tất cả những chuyện bông đùa gồm sáu chương vào đây. Như thế có thể mở rộng kiến văn để người sau ai tò mò xem cũng sướng lòng hả dạ, đặng giúp thêm vào ba chương của Thái sử công.

5. Trong thời Vũ Đế, có người con hát nhà vua yêu tên là Quách Xá Nhân.

Khi nói năng trình bày tuy không hợp đạo lớn, nhưng khiến nhà vua vui lòng.

Khi Vũ Đế còn nhỏ, mẹ của Đông Vũ Hầu thường nuôi nấng nhà vua. Đến khi lớn lên, nhà vua gọi bà ta là “vú nuôi lớn”, cứ một tháng cho vào chầu hai lần.

Khi vào chầu có chiếu chỉ sai người tôi yêu là Mã Du Khanh cho nhũ mẫu năm mươi tấm lụa, lại cho cơm khô, rượu để nuôi nhũ mẫu. Nhũ mẫu làm đơn dâng lên, nói: “Xin nhà vua cho tôi sử dụng những công điền ở...”. Nhà vua nói: “Nhũ mẫu muốn được công điền à? Thôi thì cho nhũ mẫu”. Những điều mà nhũ mẫu muốn đều được nhà vua ưng thuận. Có chiếu chỉ cho nhũ mẫu được ngồi xe đi vào giữa công đường của nhà vua. Lúc bấy giờ các công khanh và đại thần đều kính trọng nhũ mẫu. Con cháu tôi tớ của nhũ mẫu hoành hành ngang dọc đất Trường An. Giữa đường chặn đón xe ngựa người ta, cướp giật áo quần người ta. Trong cung biết chuyện ấy nhưng không nỡ bắt trị tội. Quan coi việc pháp luật xin nhà vua dời nhà của nhũ mẫu ra ngoài biên giới. Lời tâu được chuẩn y. Trước khi vào từ biệt nhà vua nhũ mẫu đến gặp Quách Xá Nhân khóc lóc về việc đó. Xá Nhân nói :

- Khi vào từ biệt nhà vua rồi trở ra cứ đi nhanh, nhưng quay lại nhìn mấy lần.

Nhũ mẫu cứ làm theo lời nói, từ biệt ra đi, quay lại nhìn mấy lần, Quách Xá Nhân lớn tiếng mắng :

- Ô kìa! Cái mụ già này! Sao không đi nhanh cho rồi. Bệ hạ lớn rồi có cần bú mớm mày nữa đâu, quay lại nhìn làm cái gì?

Nhà vua thương hại bà ta, bèn ra lệnh đình chỉ; không rời nhà nhũ mẫu ra biên giới nữa, phạt đày người gièm pha.