Trận đấu mùa đông - Phần I - Chương 03 phần 1

3. Hội nghị thường niên

Ngày hôm sau là thứ Sáu, ngày ghé thăm của lão Putois. Cần phải nhanh chóng viết một lá thư và đặt nó trong phòng đồ giặt trước khi lão già tạt qua. Helen tranh thủ trong giờ toán từ chín đến mười giờ của mụ Mersch. Mụ này ngồi như đóng đinh trên chiếc ghế bành nên không sợ mụ thình lình xuất hiện và giật lá thư cô viết dở đồng thời rú lên: “Cái này, thưa quý cô, cái này là gì?” Có thể mụ ta sở hữu đôi mắt chim ưng, nhưng Helen, như tất cả những người bạn ở đây, lại có tài khéo léo che dấu.

Cô phân vân một lúc không biết bắt đầu như thế nào. Milos thân mến? Họ chỉ vừa mới biết nhau… Chào Milos? Thế nghe có vẻ suồng sã và không tình cảm. Cuối cùng cô quyết định chỉ viết ngắn gọn Milos. Cậu ta muốn điền thêm gì cũng được. Cô kể cho cậu về phòng thư viện vắng tanh, về chuyến trở về trường nội trú mà không có Milena, và nhất là về nỗi đau đớn phải chứng kiến cô bé Catharina Pancek bị đưa vào ngục tối. Cô kể về Milena có giọng hát tuyệt diệu, và là người cô không bao giờ tin có thể hành động phản bội như thế. Cô đề nghị cậu ta nhanh chóng hồi âm, cô ghi cụ thể rằng cô “rất nôn nóng” chờ thư của cậu. Sau đó, cô làm một phong bì tạm bợ từ tờ giấy nháp khác được gập làm đôi và dán lại. Cô lấy ra từ trong tất mẩu giấy Milos đưa hôm trước và cẩn thận ghi lại tên cậu: Milos Ferenzy. Trường nội trú nam. Năm thứ tư.Trước khi cho lá thư vào phong bì, cô thay đổi ý định và viết thêm bên dưới chữ ký:

Em đã không kể về em với anh. Em mười bảy tuổi, em thích sách và sô cô la (và em vui vì đã gặp anh).

Khi viết dòng cuối cùng ấy, cô cảm thấy không chắc chắn và bối rối. Liệu cô có nói quá nhiều không? Hay chưa đủ?

Trong giờ ra chơi lúc mười giờ, cô kín đáo hòa lẫn vào một nhóm các cô gái năm thứ năm, ở một góc sân và hỏi không ngần ngại:

- Người ta làm thế nào để gửi thư vậy? Ai đó để thư trong phòng đồ giặt, và lão Putois sẽ mang đi, đúng như vậy không?

Một cô gái cao gầy, cũng xinh xắn, sỗ sàng nhìn chòng chọc vào mắt cô:

- Cậu gửi thư cho ai?

- Cho một người con trai ở bên kia.

- Cậu năm thứ mấy?

- Năm thứ tư.

- Cậu tên gì?

- Dormann. Helen Dormann.

- Còn cậu trai đó, cậu ta tên gì?

- Milos Ferenzy, Helen trả lời.

Cô đỏ mặt và thấy nóng bừng.

Các cô gái lớn bàn tính với nhau bằng ánh mắt. Không một ai quen người con trai chắc chắn là quá trẻ đối với họ.

- Đưa đây, cô gái nói, và các cô còn lại tự động tạo thành một bức tường bằng cơ thể họ để việc trao đổi được tiến hành kín đáo.

- Chị là người sẽ để lá thư ư? Helen hỏi.

- Chính tớ.

- Em… em không có quà cho chị và cho lão Putois. Em không có gì. Em đã không kịp thời gian để…

- Được rồi. Tớ sẽ mang cho cậu thư trả lời. Nếu cậu ta viết lại…

Gần đến giữa trưa, từ phòng âm nhạc nhìn ra sân, Helen thấy lão Putois đi đến với chiếc xe kéo cao ngất ngưởng. Lão biến mất trong phòng đồ giặt và từ đó đi ra với chiếc xe chất đầy những tấm chăn ga màu trắng, chắc chắn những lá thư ngày hôm nay được giấu trong đó.

Bay đi, bay đi, lá thư nhỏ,

Bay đi, bay đi, đến với tình yêu của em.

Cô thì thầm hát và rất ngạc nhiên vì nhớ lại dễ dàng đến thế lời hát từ thời trẻ con ấy.

Những ngày tiếp theo trôi đi như không thể chịu đựng nổi. Helen luôn chờ đợi bị triệu hồi đến chỗ mụ Xe tăng. Nhưng không có chuyện gì hết. Sự thiếu vắng phản ứng từ phía giám thị lại là trường hợp tệ hơn tất thảy. Điều đó có nghĩa là điều 16 của bản nội quy được tôn trọng: ”Với mọi học sinh không trở về sau ba giờ vắng mặt, một học sinh khác ngay lập tức sẽ bị nhốt trong phòng tối và ở lại đó cho đến khi nào kẻ bỏ trốn quay lại.” Mọi chuyện vẫn theo trật tự, và vụ việc đóng lại.

Không ai dám nhắc đến Catharina, nhưng mọi người đều nghĩ đến cô gái. Liệu cô có ngủ được không? Người ta có mang cho cô đồ ăn và đồ uống không? Helen hỏi một cô gái năm thứ năm đã từng trải qua một đêm và một buổi sáng dưới Bẩu Trời vào năm ngoái vì tội ném đĩa canh lên tường nhà ăn và hét lên rằng cô ta đã “chán ngấy, chán ngấy và chán ngấy!” Cô gái này tỏ ra ít nói chuyện, và có vẻ như đặc biệt lo lắng muốn biết liệu Catharina có kịp nhìn thấy hình vẽ trên xà nhà.

- Điều đó có quan trọng đến thế không? Helen hỏi. Chị có nhìn thấy nó không?

- Chưa đến hai giây, nhưng chính nó đã giúp tớ khỏi bị điên. Chính cậu là người mà Milena đã ra ngoài cùng đúng không?

- Đúng vậy.

Cô gái kia quay lưng lại với cô. Với Helen, dường như mọi người quy cho cô phải chịu trách nhiệm về thảm họa này hoặc ít nhất họ coi cô như kẻ tòng phạm. Vì không thể chửi rủa Milena, người đã biến mất, nên mọi người thể hiện thái độ giận dữ và không đồng tình với Helen. Chỉ duy nhất Vera Plasil không quay lưng lại với cô.

- Cậu không liên quan gì hết. Ai mà có thể lường được điều đó? Cậu ấy sẽ trở về, tớ chắc chắn như vậy. Chắc cậu ấy có việc gì đó quan trọng phải làm. Cậu ấy đi làm việc đó và sẽ trở về.

- Vậy thì tại sao cậu ấy không nói gì với tớ?

Vera Plasil không biết nói gì. Cô chỉ biết nhìn Helen với đôi mắt to màu xanh lơ đầy lòng thương cảm.

Kể từ Chủ nhật sau ngày thứ Sáu đó, Helen không còn tính từng ngày cho đến thứ Sáu tiếp theo, ngày lão Putois ghé qua nữa, mà cô tính theo giờ. Thời gian như không trôi. Đề không bị quá thất vọng khi thời điểm ấy đến, cô cố gắng tưởng tượng điều tệ hại nhất: cô sẽ không nhận được thư trả lời của Milos tuần này và phải đợi thêm một tuần nữa. Giả thiết ấy sẽ làm cô bớt sốt ruột mong ngóng.

Và Milena không trở về… có thể sẽ không trở về nữa… Cho đến khi Catharina chết trong ngục tối? Thời gian khủng khiếp nhất là bữa ăn tối. Vì hầm ngục nằm ngay dưới tầng hầm nhà ăn, các cô gái cảm thấy Catharina thật gần và các cô thấy thật khó nuốt trôi suất ăn của mình.

Cuối cùng, vào một buổi sáng, Helen choàng tỉnh và đó là thứ Sáu. Mười hai giờ kém mười, loạng choạng nhưng đúng giờ, lão Putois kéo chiếc xe chất đầy chăn ga sạch sẽ đi qua sân. Từ phòng âm nhạc, Helen nhìn lão biến mất trong phòng đồ giặt để đổi lấy chăn ga bẩn.

Những con tim thanh thản, những tâm hồn trong sáng

Chúng ta cùng nhau cất tiếng hát

Những cánh rừng và nhánh cây…

Mụ Đại bác bắt nhịp cho hát lại lần thứ mười hai, nhưng Helen không còn nghe thấy giọng ca của các bạn. Miễn là có thư dành cho mình, cô thầm nghĩ, miễn là lá thư ở trong đó! Mình sẽ không phải chờ thêm một tuần nữa.

Đi ra từ nhà ăn, một cô gái năm thứ sáu tiến lại gần cô:

- Cậu là Dormann?

- Đúng vậy.

- Nhận lấy thư này, thư của cậu! Và lần sau, nhớ có một chút quà đấy.

- Xin hứa! Helen trả lời, phát điên vì vui sướng, và cô bỏ hai chiếc phong bì vào trong túi.

Bởi vì có đến hai lá thư! Suốt cả tuần cô đã lo sợ không nhận được lá thư nào và giờ đây cô nhận được những hai lá thư.

Cô bồn chồn đi tìm Vera Plasil trong sân.

- Vera! Cậu có thể đến canh cửa cho tớ được không?

Các phòng toilet đều đã cũ nát, nhưng đó là nơi duy nhất người ta có thể ở một mình và yên tĩnh trong chốc lát, với điều kiện có ai đó canh cửa. Ngay sau khi đã ở bên trong, Helen lôi các phong bì thư khỏi túi áo khoác. Trên cả hai lá thư đều ghi tên cô: Helen Dormann. Trường nội trú nữ, và lớp của cô: Năm thứ tư, nhưng chữ viết thì khác nhau. Chữ trên lá thư đầu là của Milos, và chữ viết thứ hai, không thể bắt chước và gần như người lớn, là của Milena! Cô mở lá thư của Milos trước. Sau tất cả những gì diễn ra, đó mới chính là lá thư cô đã hy vọng cả tuần qua. Lá thư ngắn ngủi:

Helen,

Anh đã nhận được thư của em. Đây là thư của anh. Anh hy vọng lão Putois sẽ không “ướp hương” nó nhiều quá. Tối hôm đó Bartolomeo đã không trở về. Anh có nhiều điều khủng khiếp phải nói với em. Hẹn lúc nửa đêm tối thứ Sáu ở góc giao nhau giữa bức tường phía Đông và tường phía Bắc trường em. Hứa nhé?

Milos

Anh đã không nói với anh về em. Anh mười bảy tuổi. Anh thích đấu vật kiểu Hy Lạp-La Mã và ăn (và anh rất vui vì đã gặp em).

Helen tự nhủ phải chăng cô đang cầm trong tay lá thư tình đầu tiên. Việc cậu ta lặp lại từng từ một trong câu cuối cùng của lá thư cô viết cho thấy điều mong muốn tương tự của Milos. Cảm xúc làm cô như chao đảo. Có quá nhiều điều xáo trộn xảy đến với cô trong mấy ngày qua. Cô để lại lá thư trong phong bì và mở thư của Milena. Lá thư này dài hơn.

Helen,

Tớ tưởng tượng được nỗi giận dữ của cậu dành cho tớ và tớ hiểu điều đó. Nhưng cậu phải biết rằng tớ không phản bội cậu.

Đây là chuyện đã xảy ra: Bartolomeo đến thư viện gặp tớ, ngay sau khi cậu đi. Bọn tớ đã nói chuyện với nhau hơn hai giờ đồng hồ và cuối thời gian ấy, tớ đã quyết định bỏ trốn cùng anh ấy. Bọn tớ ra đi tối hôm đó. Tớ sẽ không bao giờ trở về trường nội trú nữa.

Chúng tớ nấp sau đài phun nước lúc cậu đi qua, ngay sau đó, với chiếc giỏ trên tay. Tớ không biết bên trong đó có món gì, nhưng tớ cảm ơn cậu đã mang nó về cho tớ!

Hiện giờ, tớ đang ở nhà mẹ nuôi, nơi tớ ngồi viết cho cậu lá thư này. Mẹ nuôi tớ sẽ nhờ lão Putois chuyển thư.

Đáng ra tớ có rất nhiều chuyện phải nói với cậu, nhưng tớ không có thời gian. Milos, anh ấy biết tất cả, sẽ giải thích với cậu. Hãy hỏi anh ấy nhé.

Tớ hy vọng chúng ta sẽ gặp lại nhau. Cậu đã là người bạn tốt nhất của tớ trong những năm qua. Tớ sẽ mãi mãi không quên cậu. Tớ buồn vì phải rời xa cậu.

Tớ ôm hôn cậu.

Milena

Tái bút: Tớ rất đau khổ về Catharina, nhưng tớ phải làm việc tớ cần làm.

- Helen! Tớ mọc rễ ở đây rồi... Và trời đang mưa, tớ báo cho cậu biết!

Vera bắt đầu sốt ruột ngoài cửa. Helen lau nước mắt bằng khăn mùi soa, cất hai phong bì thư vào trong túi trong của áo khoác và ra ngoài.

Trong phòng tự học buổi tối, chỗ trống của Milena Bach ở hàng thứ ba, và chỗ ngồi của Catharina Pancek, hàng đầu tiên, dường như bị những bóng ma của họ chiếm cứ. Sự vắng mặt của hai cô gái như hành hạ tinh thần của những người còn lại. Mụ Zesch, toát nhiều mồ hôi hơn bao giờ hết, gần như ngủ lịm đi.

- “Đấu vật kiểu Hy Lạp – La Mã” là gì vậy, hả Vera? Helen khẽ hỏi.

- Tớ nghĩ rằng đó là những gã mặc quần áo lót lao vào nhau và cố lật lưng đối thủ chạm đất.

- Thế hả?

- Đúng vậy, họ nồng nặc mùi mồ hôi và họ gầm gừ.

- À...

- Tại sao cậu hỏi tớ thế?

- Vì thế đấy...

Helen không ngừng nghĩ đến Milos, đồng thời tự nhủ rằng chắc phải bị điên mới yêu một chàng trai mà người ta mới gặp chưa đến bốn phút, và lại còn trong cảnh mờ tối. Một điều nữa: cô không thể nào hình dung lại khuôn mặt cậu ta! Cô càng cố nhớ lại, khuôn mặt ấy càng chạy thoát khỏi cô. Milos không quá cao, cô nhớ lại, mà cậu ta hơi tròn, đúng vậy, mái tóc xoăn, đúng vậy, nụ cười tươi. Đúng đúng và đúng, nhưng cô không “nhìn” thấy cậu ta nữa. Cô kết luận rằng thực ra cô thèm khát yêu, và người đầu tiên đến thể nào cũng có chuyện. Miễn là cô không quá thất vọng...

Cậu ấy muốn gì ở cô? Cuộc hẹn gặp làm cô thích thú, nhưng cũng làm cô sợ. ”Nhiều chuyện nghiêm trọng”? Điều đó có nghĩa gì? Và cần phải trốn khỏi phòng ngủ lúc giữa đêm. May thay, mụ Zesch, sẽ vẫn giám sát tối nay, thường ngáy như lợn rừng ngay sau khi đặt lưng xuống, và mụ chỉ tắt tiếng động cơ kinh khủng ấy lúc mờ sáng. Trong tất cả các giám thị, thì mụ ta chắc chắn là người dễ dàng đánh lừa nhất. Còn tốt hơn gấp nhiều lần giờ gác của mụ Merlute hay mất ngủ, âm thầm và xảo quyệt, vẫn thường lọ mọ dúi cái mũi dài của mụ vào giữa các dây giường vào bất cứ giờ nào trong đêm. Mối nguy hiểm cũng có thể đến từ các cô gái khác. Nhất là từ Vera, đứa bao giờ cũng chỉ ngủ bằng một mắt, và là đứa muốn biết cô đi đâu. Helen đã có ý định tiết lộ điều bí mật cho cô gái đó, rồi cô đổi ý. Để ngăn chặn cô tự bản thân vào cảnh nguy hiểm, Vera-kẻ-lý-sự có khả năng đánh thức cả phòng dậy khi thời điểm đến.

Dưới tấm chăn, Helen nhìn những chiếc kim đồng hồ phát sáng: đã hơn mười giờ và mụ Zéch vẫn không ngáy. Đến mười một giờ, mụ vẫn không ngáy. Đây là điều rất lạ. Ánh đèn vẫn sáng trong ngăn của mụ, nhưng không một tín hiệu nào khác của sự sống hắt ra từ đó. Chẳng nhẽ tối nay mụ sẽ giám sát thực sự và bắt chước mụ Merlute lượn đi quanh các giường nằm với bộ dang của Jack-kẻ-mổ-bụng? Helen đưa tai nghe ngóng một cách tuyệt vọng. Không cần nghe thấy tiếng gầm quen thuộc, chỉ tiếng gáy khe khẽ cô cũng hài lòng, vậy mà cũng không hề có.

Mười hai giờ kém mười lăm, đã cạn kiệt kiên nhẫn, cô quyết định thử vận may và ra ngoài, cho dù chuyện gì xảy đến đi chăng nữa. Cô liếc nhìn sang giường bên cạnh. Vera đang ngủ bình yên, miệng hé mở. Cảm thấy yên tâm, Helen định thay lại quần áo. Đúng lúc cô đứng lên để đi gần đến tủ và chỗ để quần áo thì mụ Zesch mở cánh cửa ngăn tủ của mụ. Ngay lập tức Helen đúng yên như một pho tượng, rồi cô lại nằm xuống, hai mắt mở to.

Mụ Zesch rõ ràng không giống với trạng thái bình thường. Cố tránh không gây một tiếng động, mụ lén ra khỏi ngăn tủ của mụ với vẻ chậm rãi và ngờ vực của một sát thủ. Và nhất là, Helen nghĩ cô đang mơ, mụ đi giày cao gót và mặc váy dạ hội! Vậy mà người ta chưa bao giờ nhìn thấy mụ mặc gì khác ngoài đôi giày ghê người dưới chân và chiếc quần vải rộng thùng thình, hoặc khá hơn, là chiếc váy bằng len to tướng vào những ngày đẹp trời. Mụ khép cánh cửa lại và nhón đi bằng đầu mũi chân. Helen đợi mụ đi xa hoàn toàn, cố kiên nhẫn đợi thêm vài phút nữa, phòng trường hợp mụ có thể quay trở lại, rồi, vì không còn gì động đậy nữa, cô mặc quần áo và đi ra sân hướng về phía cổng.

Trời đêm sáng và mát lạnh. Vài dải mây nhỏ lãng du trước mặt trăng tròn. Helen co người trong chiếc áo khoác, đi vòng theo tòa nhà và đi dọc theo mặt sau. Bức tường bao nổi lên phía bên trái, tối đen và đầy đe dọa. Cô lần theo bức tường. Milos! Cô khẽ ra hiệu bằng tay cho cậu và khẽ lon ton chạy lại gần. Cậu cũng đi về phía cô, tươi cười, và hôn lên hai bên má cô:

- Helen! Anh đã thấy sợ. Em đến muộn quá.

Cô gái sửng sốt vì thấy cậu quá cao lớn so với trí nhớ của cô. Chắc hẳn anh chàng Bartolomeo phải thật khổng lồ để cậu bạn này dường như trở nên nhỏ bé khi đứng cạnh.

- Em xin lỗi, nhưng em không thể ra được. Mụ giám thị đã không ngủ. Anh có hình dung ra được mụ ấy đi ra ngoài không. Mãi gần đến nửa đêm mụ ấy mới ra khỏi phòng ngủ.

- À thế sao? Vậy thì anh biết mụ ấy đi đâu, và anh sẽ cho em thấy! Với điều kiện em giỏi môn thể dục.

- Em là người đứng đầu! Helen nói.

- Tuyệt! Em biết leo dây chứ?

- Như một con sóc!

Cô không chắc những con sóc biết leo dây, nhưng cô muốn nói đồng ý với mọi thứ tối nay. Có lẽ cô cũng sẽ nhảy cả vào lửa với Milos nếu cậu ta đề nghị như thế.

- Vậy thì hãy đợi anh ở đây, anh chỉ đi trong ba phút thôi.

- Dù sao anh cũng giải thích với em đôi chút chứ?

- Để sau nhé!

Milos đã nhét chiếc mũ vào trong túi và trèo thoăn thoắt. Helen sững sờ vì vẻ mềm mại và sức mạnh của cậu. Bám lấy máng nước, cậu leo trèo dễ dàng như một con khỉ. Những ngón tay, hai bàn tay, hai chân cậu ta hoạt động không ngừng, và cậu chỉ dừng lại để lấy hơi khi đặt chân lên cửa chớp ở cửa sổ tầng ba.

- Cẩn thận đấy! ở bên dưới, Helen lo lắng.

Không kịp trả lời, cậu ta lại tiếp tục trèo, và chỉ giấy lát sau cậu ta đã ở bên dưới mái nhà. Cậu giữ tư thế treo trên máng nước trong vài giây, rồi đu đưa hai lần và tung chân phải lên trên. Trong khi cậu lấy thăng bằng, có vật gì đó từ trong túi cậu tuột ra và rơi xuống chân Helen.

- Con dao của anh! Cậu gọi xuống. Nhặt giúp anh!

Helen cúi xuống và nhặt con dao nhíp khá nặng phải có đến ít nhất sáu lưỡi.

Tiếp sau đó, một sự im lặng kéo dài. Milos đã biến mất. Helen cảm thấy không khí lạnh len lỏi dưới lớp áo khoác. Cô đứng làm gì ở đây, vào giữa đêm, với anh chàng này, chàng trai có tài nhào lộn và có ”nhiều điều nghiêm trọng” để nói với cô?

Cô vẫn hướng mắt lên mái nhà mà không thấy chút tăm hơi gì thì một tiếng va chạm nhẹ làm cô chú ý. Ở phía xa hơn một chút, một sợi dây nằm sát máng nước và buông xuống theo bức tường. Cô vội chạy đến, cởi cúc chiếc áo khoác để khỏi bị vướng, kẹp sợi dậy vào giữa hai đầu gối chân như cô vẫn thường làm thế rất thuần thục, và bắt đầu trèo lên. Đến tầng thứ ba, cô liếc nhìn xuống dưới và thấy chóng mặt. Chưa bao giờ, khi học thể dục, cô leo đến độ cao thế này. Và ở đây, không có tấm thảm nào đỡ cô trong trường hợp bị ngã. Chắc chắn, cô nghĩ, đây là một cuộc gặp gỡ yêu đương đầy kỳ cục! Hay nó vẫn luôn diễn ra như thế? Cô hít thở sâu và tiếp tục. Đến chỗ chiếc máng dưới nhà, cô không có thời gian để tự hỏi làm sao cô có thể trèo lên mái. Bàn tay Milos đã chìa ra về phía cô:

- Đưa tay phải của em đây và bám lấy cổ anh! Không phải bàn tay anh, mà là cổ tay nhé!

Cô nắm lấy cổ tay cậu ta, và chàng trai cũng nắm lấy cổ tay cô. Ngay lập tức Helen cảm thấy bay bổng trên không. Gần như không phải nhờ đến khuỷu tay và đầu gối, cô đã ở bên cạnh Milos, ở trên mái nhà, cách mặt đất mười hai mét, cũng thoải mái như đang ngồi trên chiếc trường kỷ ở phòng khách.