Thảo nguyên - Chương 6 phần 2

Mọi người đều múc cháo trong nồi ra ăn, chỉ có lão Pantelây ngồi riêng ra một chỗ ăn cháo trong cái bát gỗ. Thìa của cụ không giống như của mọi người: nó làm bằng gỗ trắc bá, có khắc hình chữ thập. Iegoruska nhìn lão lại nhớ đến cái chén đựng dầu đốt đèn thờ. Nó hỏi khẽ Xtépka:

- Sao ông cụ lại ngồi riêng ra thế?

- Ông ấy theo cựu giáo, - Xtépka và Vaxia thì thầm đáp, vẻ lấm lét như thể đang nói về một nhược điểm hay một thói xấu cần phải giấu kín.

Ai nấy đều im lặng suy nghĩ. Sau những câu chuyện khủng khiếp ấy chẳng còn ai muốn nói đến những việc bình thường nữa. Bỗng trong không khí trầm ngâm ấy Vaxia đứng thẳng dậy, hai con mắt đục nhìn trừng trừng vào một điểm, tai vểnh lên nghe ngóng.

- Cái gì thế? - Đưmốp hỏi anh ta.

- Có ai đang đi kia, - Vaxia đáp.

- Cậu trông thấy hắn ở đâu?

- Đằng kia kìa! Chỉ loáng thoáng thấy một bóng trắng...

Ở phía Vaxia đang nhìn chẳng ai trông thấy gì cả ngoài bóng đêm tối mịt; ai nấy đều lắng tai, nhưng không hề nghe thấy tiếng chân bước.

- Đi trên đường cái à? - Đưmốp hỏi.

- Không, đi giữa đồng... Đang đi về phía ta đây.

Một phút im lặng trôi qua.

- Có thể là ông lái buôn chôn ở đây đang đi lang thang trên đồng đấy, - Đưmốp nói.

Ai nấy đều liếc mắt về phía cây thánh giá, đưa mắt nhìn nhau rồi bỗng cười phá lên, hơi ngượng vì nỗi lo sợ hão huyền của mình.

- Sao ông ta lại phải đi lang thang? - lão Pantelây nói. - Chỉ có những vong hồn nào đất không dung thì đêm đêm mới phải đi lang thang như thế. Còn như hai ông lái buôn này thì có làm sao đâu... Họ đã chết như những người tuẫn đạo...

Nhưng rồi có tiếng chân bước lại gần, rất gấp.

- Người ấy mang vật gì ấy, - Vaxia nói.

Đã bắt đầu nghe thấy tiếng cỏ sột soạt và tiếng cành khô gãy răng rắc dưới bước chân người nọ, nhưng ngoài cái vùng sáng quanh đống lửa chẳng trông thấy gì hết. Cuối cùng tiếng chân bước gần hẳn lại, có ai đằng hắng một tiếng; ánh lửa chập chờn như thể rẽ ra, cái màn che mắt mọi người biến đi và toán người áp tải chợt trông thấy một người hiện ra trước mặt.

Không biết vì ánh lửa chập chờn hay vì ai nấy đều muốn nhìn cho rõ trước tiên là vẻ mặt người lạ, nhưng có một điều kỳ dị là cái mà mọi người đều trông thấy trước tiên không phải là gương mặt, không phải cách trang phục, mà là nụ cười của người ấy. Đó là một nụ cười hiền hậu lạ lùng, rộng rãi và dịu dàng như nụ cười của đứa bé mới thức giấc, một trong những nụ cười có sức truyền cảm phi thường mà người ta khó lòng có thể không mỉm cười đáp lại. Nhìn kỹ ra, người lạ mặt là một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi, xấu trai và không có gì đặc sắc cả. Đó là một người Ucraina cao lêu nghêu, mũi dài, tay dài, chân cũng dài; nói chung ở hắn ta cái gì nom cũng có vẻ dài lêu nghêu, riêng cái cổ thì lại ngắn, thành thử hắn ta trông như hơi gù. Hắn ta mặc một chiếc sơ mi trắng sạch sẽ, ve cổ có thêu, một cái quần trắng ống rộng, đi một đôi ủng mới, và so với mấy người đi áp tải thì có vẻ khá bảnh bao. Hắn ta cầm một cái gì to to, trắng trắng và mới thoạt trông rất kì dị, sau vai hắn nhô lên một cái nòng súng trường, cũng dài ngoẵng.

Từ bóng tối bước đột ngột vào chỗ sáng, hắn ta dừng phắt lại như bị đinh đóng tại chỗ và trong khoảng nửa phút cứ nhìn mấy người chở hàng như muốn nói: “Các anh xem tôi có cái nụ cười đã hay chưa!” Đoạn hắn ta bước tới bếp lửa, mỉm cười còn rạng rỡ hơn nữa và nói:

- Các anh em, chúc ăn ngon miệng!

- Xin mời anh, - lão Pantelây đáp thay cho cả bọn.

Người lạ mặt để vật đang cầm trong tay xuống cạnh đống lửa. - Đó là một con vạc bị bắn chết, - và chào lại một lần nữa.

Mọi người đều xúm quanh con vạc mà- Con chim khá lắm! Anh bắn bằng gì thế? - Đưmốp hỏi.

- Bằng đạn ria đấy... Đạn viên thì không trúng được, nó có để cho mà tới gần đâu... Anh em mua đi! Hai mươi kôpếch thì tôi để.

- Chúng tôi mua làm gì? Chim này quay thì ăn được chứ luộc thì dai lắm, nhằn không ra đâu...

- Chà bực thật! Giá mang đến trại cho các ông lớn, các ông ấy trả đến nửa rúp đấy, phải cái xa quá: mười lăm vécxta!

Người lạ mặt ngồi xuống, bỏ súng ra đặt bên cạnh. Hắn ta có vẻ buồn ngủ, mệt mỏi. Hắn mỉm cười, nheo nheo mắt vì chói ánh lửa, và hình như đang nghĩ đến một cái gì thú vị lắm. Họ đưa cho hắn ta cái thìa. Hắn bắt đầu ăn.

- Anh là ai thế? - Đưmốp hỏi hắn.

Người lạ mặt không nghe thấy câu hỏi; hắn không đáp và thậm chí cũng không nhìn sang Đưmốp. Có lẽ con người tươi cười này cũng không hề cảm thấy mùi vị của cháo ra sao, vì hắn nhai thẫn thờ như cái máy, đưa thìa lên môi mà cũng chẳng để ý trong thìa có gì, thành thử khi thì thìa đầy tràn, khi thì lại húp thìa không. Say thì hắn không say, nhưng trong đầu hắn đang có một ý gì ngộ nghĩnh lắm.

- Tôi hỏi anh, anh là ai thế? - Đưmốp nhắc lại.

- Tôi ấy à? - người lạ mặt giật mình. - Tôi là Konxtantin Dvoních ở Rốpnưi. Cách đây bốn vécxta.

Và muốn cho người ta thấy ngay từ đầu rằng mình không phải là loại nông phu tầm thường như ai, mà là một thứ gì khá hơn, Konxtantin vội vàng nói thêm:

- Nhà tôi nuôi ong và nuôi lợn.

- Anh ở nhà bố hay có nhà riêng?

- Không, bây giờ tôi ở riêng rồi. Vừa rồi, sau ngày lễ 29 tháng Sáu theo lịch cũ tôi đã cưới vợ. Bây giờ tôi là người có gia thất rồi!... Cưới đến hôm nay đã được mười tám ngày rồi.

- Khá đấy - lão Pantelây nói. - Lấy vợ là tốt... Phước lành Chúa ban đấy...

- Vợ trẻ ngủ ở nhà, thế mà anh ta thì đi lang thang trên thảo nguyên, - Kiriukha cười. - Gàn thật!

Như thể vừa bị véo vào chỗ đau nhất, Konxtantin cuống quít lên, cười theo, mặt đỏ bừng...

- Nhưng cô ta có ở nhà đâu! - hắn rút nhanh cái thìa ra khói mồm nói, đôi mắt vui mừng và ngạc nhiên nhìn khắp cả bọn. - Không có! Cô ta về nhà mẹ hai hôm! Thật đấy mà, cô ta về nhà mẹ, thế là tôi đâm ra như người chưa vợ...

Konxtantin khoát tay và lắc đầu; hắn muốn suy nghĩ tiếp, nhưng niềm vui sướng đang làm cho gương mặt hắn rạng rỡ lên không để cho hắn nghĩ. Như thể chưa tìm được thế ngồi cho thoải mái, hắn trở mình đổi tư thế, cười phá lên rồi lại khoát tay. Hắn ngượng, không dám bày tỏ ra cho người khác biết những ý nghĩ thú vị của mình, nhưng đồng thời lại nóng lòng muốn chia sẻ niềm vui của mình với mọi người.

- Cô ấy về Đêmiđôvô với mẹ! - hắn vừa nói vừa để cái súng sang chỗ khác, mặt đỏ bừng. - Mai cô ta sẽ về với tôi... Cô ta có nói là sẽ về ăn bữa trưa.

- Thế anh có buồn không? - Đưmốp hỏi.

- Trời ơi, sao lại không? Mới cưới được mấy hôm đã đi mất... Hả? Cô ta rất táo bạo, thật thế! Cô nàng vừa xinh đẹp vừa ngoan hết chỗ nói, cười, hát suốt ngày, như con sáo ấy. Có cô ta là đầu cứ quay cuồng lên, không có cô ta thì như thể đánh mất cái gì, cứ đi lang thang khắp đồng nội như thằng ngây. Tôi đi suốt từ bữa ăn trưa đến giờ đây, hết sức buồn rầu.

Konxtantin dụi mắt nhìn ngọn lửa rồi cười.

- Thế là anh yêu vợ đấy... - lão Pantelây nói.

- Cô ấy vừa xinh đẹp vừa dễ mến, - Konxtantin nói tiếp, không thèm nghe nói gì, - thật là một cô chủ nhà thông minh và khôn khéo, trong đám dân thường khắp tỉnh này không tìm được một cô nào như thế. Cô ấy đi vắng rồi. Ấy, cô ta cũng nhớ lắm, tôi biết! Tôi biết rõ con sáo của tôi chứ! Cô ấy bảo là mai đến bữa ăn trưa sẽ về... Mà đây cũng là một chuyện rắc rối chứ không phải vừa! - Konxtantin gần như reo lên, đột nhiên chuyển sang một giọng cao hơn hẳn và đổi tư thế ngồi. - Bây giờ cô ta yêu và nhớ tôi, chứ hồi trước mãi không chịu lấy đấy!

- Nhưng anh ăn đi chứ! - Kiriukha nói.

- Mãi không chịu lấy tôi đấy! - Konxtantin nói tiếp, không thèm nghe. - Suốt ba năm tôi phải vất vả với cô nàng. Tôi gặp cô ta ở phiên chợ Kalatsik, yêu cô ta chết mê chết mệt đi, dù có phải lên giá treo cổ cũng theo cho kỳ được... Tôi ở Rốpnưi, cô ta ở Đêmiđôvô, cách nhau đến hai mươi lăm vécxta, tôi chẳng biết xoay xở thế nào. Tôi nhờ người đến làm mối, cô ta cứ một mực: “Tôi chả thích”. Tôi mới gửi biếu quà này cáp nọ, nào là đôi hoa tai, nào là bánh ngọt, nào là mật ong - vẫn “chả thích!” như thường. Thế cơ chứ! Mà nghĩ cho kỹ ra, như cái thứ tôi đây thì sao có thể sánh đôi được với cô ấy; cô ấy trẻ, đẹp, linh hoạt, còn tôi thì già nua - gần ba mươi còn gì, với lại cái mã mới đẹp chứ, râu thì oai ra phết, nhọn hoắt như cái đinh, mặt thì sạch ra trò: toàn những nốt trứng cá sần sùi. Tôi sánh sao nổi? May ra chỉ được cái gia đình tôi cũng khá phong lưu, nhưng gia đình cô ta, nhà Vakhramenkô ấy, cũng có máu mặt lắm. Có ba cặp bò thiến và thuê hai người làm công cơ đấy. Tôi phải lòng cô ta rồi đâm ra như điên như dại... Ngủ chẳng ngủ, ăn chẳng ăn, đầu óc cứ nghĩ liên miên rồi mụ mằn đi không còn ra hồn người nữa. Muốn được gặp cô nàng, nhưng cô nàng ở mãi Đêmiđôvô kia... Các anh nghĩ sao nào? Tôi mà nói dối có Chúa phạt, cứ mỗi tuần tôi đã đi bộ đến đấy ba lần để nhìn nàng một tí. Công việc bỏ bê hết! Tôi mê đến nỗi đã toan lên Đêmiđôvô xin làm công cho người ta, ấy, để được gần nàng hơn. Khổ quá chừng! Mẹ tôi mời bà lang đến, bố tôi nọc tôi ra đánh đến chục lần. Ấy, tôi mê mệt đi ba năm ròng như vậy và đã quyết là dù có bị nguyền rủa ba lần bảy lượt tôi cũng sẽ ra thành phố làm xà ích... Tôi nghĩ bụng: thế là mình không có số rồi! Thế rồi nhân Tuần lễ Thánh tôi đi Đêmiđôvô để được nhìn thấy nàng lần cuối...

Konxtantin ngả đầu ra sau, cười khúc khích như thể vừa bày được một trò rất tinh quái lừa ai.

- Tôi nhìn thấy nàng đứng bên bờ sông với mấy anh chàng. - Hắn nói tiếp. - Thế là tôi cáu tiết lên... Tôi gọi nàng ra một nơi và có lẽ suốt một tiếng đồng hồ tôi nói với nàng đủ thứ... Thế là nàng yêu tôi! Ba năm ròng không thèm yêu, nhưng tôi nói một thôi một hồi, thế là yêu ngay

- Anh nói những gì thế? - Đưmốp hỏi.

- Nói những gì à? Cũng chẳng nhớ nữa... Nhớ sao nổi? Lúc bấy giờ cứ nói như nước trong máng đổ ra, cứ liên hồi không kịp thở! Giá là bây giờ thì tôi chẳng nói được một câu nào... Ấy, thế là cô ả bằng lòng lấy tôi... Bây giờ con sáo về thăm mẹ, và vắng nó tôi cứ lang thang trên thảo nguyên thế này đấy. Tôi không thể ngồi nhà được. Không chịu nổi!

Konxtantin vụng về duỗi chân ra, nằm xuống đất, gối đầu lên hai nắm tay, rồi lại ngồi dậy. Bây giờ thì mọi người đều đã hiểu rất rõ rằng đây là một con người đang yêu và đang sung sướng, sung sướng đến thờ thẫn ra, nụ cười khóe mắt và đôi môi cử động của hắn đều biểu hiện niềm vui sướng ngây ngất. Hắn đứng ngồi không yên, không biết chọn tư thế nào cho ổn, không biết mình nên làm gì để khỏi phát ốm lên vì quá tràn trề những ý nghĩ thú vị. Sau khi đã trút bầu tâm sự ra trước mặt toàn người không quen biết, hắn mới ngồi yên lại được, và nhìn ánh lửa mà trầm ngâm suy nghĩ.

Trông thấy một con người hạnh phúc, ai nấy đều thấy buồn buồn, và thèm hạnh phúc. Cả bọn đều trầm ngâm. Đưmốp đứng dậy, rón rén đi qua cạnh đống lửa, và cứ trông những cử động của đôi bả vai cũng có thể thấy rõ là hắn đang buồn chán. Hắn đứng nhìn Konxtantin một lát rồi ngồi xuống.

Bếp lửa đã tàn lụi. Ánh lửa không còn chập chờn nữa, cái vệt đỏ ở xung quanh đã thu hẹp lại, mờ đi... Và lửa càng tàn lụi, ánh trăng lại càng sáng rỡ. Bấy giờ đã nhìn thấy suốt chiều rộng con đường cái, nhìn thấy những kiện lông cừu, những cặp càng xe, những con ngựa; ở bên kia đường, cây thánh giá thứ hai hiện ra mờ mờ...

Đưmốp chống tay lên má và khe khẽ hát một bài gì rất ai oán. Konxtantin nở một nụ cười ngái ngủ và cất giọng thanh thanh hát theo. Họ hát khoảng nửa phút rồi im bặt... Emelian nhích nhích hai khuỷu tay và ngọ nguậy mười đầu ngón tay.

- Anh em à, - anh ta nói, giọng van lơn. - Ta hát một bài gì cho nó thiêng liêng một chút đi!

Mắt anh ta ứa lệ.

- Anh em ạ! - anh ta nhắc lại, bàn tay ép lên tim. - Ta hát một bài ì cho thật thiêng liêng đi!

- Tôi không hát được đâu, - Konxtantin nói.

Mọi người đều từ chối, Emelian đành hát một mình. Anh ta khua cả hai tay, gật gật cái đầu, mở to miệng ra, nhưng từ thanh quản của anh ta chỉ phát ra một hơi thở phều phào không thành tiếng. Anh ta hát bằng tay, bằng đầu và bằng mắt, bằng cả cái mụn cóc nữa, anh ta hát say sưa, thống thiết, và lồng ngực của anh càng căng ra để cố phát thành tiếng thì hơi thở của anh ta lại càng phều phào.

Iegoruska cũng thấy buồn chán như mọi người. Nó trở về xe, leo lên kiện lông cừu và nằm xuống. Nó nhìn lên trời và nghĩ đến anh chàng Konxtantin diễm phúc và cô vợ của anh ta. Người ta lấy vợ để làm gì nhỉ? Trên đời này đàn bà sinh ra để làm gì? Iegoruska tự đặt ra cho mình những câu hỏi mơ hồ, và nghĩ rằng người đàn ông chắc phải sung sướng lắm nếu bên cạnh họ luôn luôn có một người đàn bà dịu dàng, vui vẻ và xinh đẹp. Không hiểu sao nó nhớ đến bá tước phu nhân Đranítxkaia và tự nhủ rằng sống với một người đàn bà như thế chắc thích lắm; giá có thể, có lẽ nó sẽ vui lòng lấy bá tước phu nhân, chỉ hiềm một nỗi là nó sẽ ngượng chết mất thôi. Nó nhớ đến đôi lông mày của phu nhân, đôi mắt của nàng, chiếc xe song mã, cái đồng hồ có tượng kỵ sĩ... Trời đêm tĩnh mịch, ấm áp cúi xuống với nó và ghé tai nó thì thầm điều gì, và nó có cảm giác là chính người đàn bà xinh đẹp ấy cúi xuống với nó, mỉm cười nhìn nó và muốn hôn nó...

Đống lửa chỉ còn là hai con mắt đỏ lòm bé tí, và mỗi lúc một nhỏ hơn. Mấy người chở hàng và Konxtantin đang ngồi cạnh hai con mắt ấy, tối tăm, im lìm, và bây giờ họ có vẻ đông hơn lúc nãy nhiều. Cả hai cây thánh giá đều trông rõ như nhau và ở xa tắp đâu trên con đường cái lớn, lập lòe một đốm lửa đỏ - chắc ở đấy cũng có ai đang nấu cháo ăn.

- “Nước Nga, mẹ hiền của chúng ta, đứng đầu cả thiên hạ!” - Kiriukha bỗng cất cái giọng ông ổng hát tướng lên, nhưng rồi bị vỡ giọng và câm bặt. Tiếng vang vẫn truyền đi rất xa, và người ta có cảm giác như đích thân sự ngu xuẩn đang lăn bánh nặng nề trên thảo nguyên.

- Đến giờ lên đường rồi đấy! - lão Pantelây nói. - Đứng dậy, các cậu!

Trong khi họ thắng ngựa, Konxtantin đi đi lại lại bên đoàn xe và hân hoan ca ngợi vợ

- Thôi anh em đi nhé! - hắn nói to khi đoàn xe chuyển bánh. - Cám ơn anh em đã tiếp tôi niềm nở như vậy! Tôi lại tìm đến nơi nào có đốt lửa đây! Chịu không nổi mà!

Chẳng bao lâu hắn đã khuất trong bóng tối và một hồi lâu vẫn còn nghe tiếng bước chân của hắn đi về phía có ánh lửa, để lại cho người khác nghe biết niềm hạnh phúc của mình.

Khi Iegoruska thức dậy thì trời vừa hửng sáng. Mặt trời chưa mọc. Đoàn xe đã dừng lại. Một người lạ mặt đội mũ lưỡi trai trắng, mặc một bộ áo quần bằng thứ vải màu xám rẻ tiền, cưỡi một con ngựa Côdắc, đang đứng cạnh cái xe đi đầu nói chuyện gì với Đưmốp và Kiriukha. Phía trước, cách đoàn xe khoảng hai vécxta, thấp thoáng những cái vựa thóc thâm thấp và những mái ngói; quanh mấy ngôi nhà ấy chẳng thấy có chuồng mà cũng chẳng thấy cây cối gì cả.

- Ông ơi, làng nào đấy hở ông? - Iegoruska hỏi.

- Đấy là mấy cái ấp của người Ácmêni đấy cậu ạ, - lão Pantelây đáp. - Người Ácmêni ấy sống ở đấy. Dân khá lắm...

Người mặc bộ đồ xám đã nói chuyện với Đưmốp và Kiriukha xong, cho ngựa quay lại và nhìn về phía mấy cái ấp.

- Công việc nó như thế đấy, rõ thật! - lão Pantelây thở dài, mắt cũng nhìn về phía ấp, người co ro lại vì khí lạnh ban mai. - Ông ấy cho người đến ấp lấy cái giấy gì ấy, mà mãi chưa thấy trở về... Giá phái Xtépka đi!

- Thế ai đấy hở ông? - Iegoruska hỏi.

- Varlamốp đấy.

Trời ơi! Iegoruska ngồi phắt dậy, quỳ lên cái mũ lưỡi trai trắng. Trông con người thấp bé mặc áo xám, chân đi đôi ủng to, cưỡi con ngựa bé xấu xí, đang nói chuyện với hai người nông phu trong khi những người tử tế đều đang ngủ yên, thật khó lòng có thể thấy có gì tương ứng với cái tên Varlamốp bí ẩn, với con người khó gặp ấy, con người mà mọi người đều phải tìm kiếm luôn luôn “quanh quẩn” đâu đây và có nhiều tiền hơn bá tước phu nhân Đranítxkaia

- Ông ta cũng khá lắm, một người rất tốt... - lão Pantelây vừa nói vừa nhìn về phía ấp. - Cầu Chúa ban sức khỏe cho ông ấy... Ông chủ ấy tốt lắm, ông Varlamốp ấy, Xêmiôn Alếchxanđrơvíts ấy... Nhờ những người như thế mà đất đai được vững chãi đấy cậu ạ. Đúng thế... Gà chưa gáy sáng ông ta đã dậy rồi... Giá là người khác thì đang ngủ khì hay ở nhà nói chuyện phiếm với khách, đằng này ông ta suốt ngày trên thảo nguyên, chạy hết chỗ này đến chỗ khác... Ông này thì không bỏ bê công việc đâu... Không đời nào! Thật là một con người cừ khôi!...

Varlamốp vẫn nhìn chăm chăm về phía ấp và đang nói gì, con ngựa sốt ruột cứ đổi chân đứng luôn luôn.

- Ông Xêmiôn Alếchxanđrơvíts, - lão Pantelây cất mũ gọi to, - xin ông phái Xtépka đi. Emelian à, cậu nói hộ là bảo Xtépka đi nhé!

Nhưng rồi cuối cùng từ trong ấp cũng thấy ló ra một người cưỡi ngựa. Người nghiêng hẳn sang một bên và tay vung ngọn roi quá đầu, như thể đang thao diễn tài phi ngựa giỏi và muốn làm cho mọi người phải kinh ngạc vì nước phi táo bạo của mình, hắn phóng như bay về phía đoàn xe.

- Chắc là người liên lạc của ông ấy, - lão Pantelây nói. - Dễ ông có đến hàng trăm người liên lạc như thế, có khi còn nhiều hơn cũng nên.

Đến ngang chiếc xe đi đầu, người liên lạc ghì cương, bỏ mũ và đưa cho Varlamốp một quyển sổ. Varlamốp rút từ trong quyển sổ ra mấy tờ giấy, đọc chúng rồi quát:

- Thế tờ giấy của Ivantsúc đâu hả?

Người cưỡi ngựa lấy lại quyển sổ, nhìn qua mấy tờ giấy và so vai; hắn bắt đầu nói những gì không rõ, chắc là để tự thanh minh, và xin phép phóng ngựa đến ấp Ácmêni một lần nữa. Con ngựa của Varlamốp cưỡi bỗng chao người đi như thể người cưỡi đột nhiên nặng hẳn lên. Varlamốp cũng chao người đi.

- Cút ngay! - ông ta quát, vẻ giận dữ và giơ cao ngọn roi lên, toan đánh người liên lạc.

Đoạn ông ta cho ngựa quay lại, rồi vừa xem mấy tờ giấy trong sổ, cho ngựa đi bước một dọc theo đoàn xe. Khi ông ta tới gần chiếc xe sau cùng, Iegoruska trương hết nhãn lực ra để nhìn ông ta cho thật kỹ. Varlamốp đã già. Khuôn mặt ông ta, với chòm râu hoa râm mỏng, một khuôn mặt Nga bình dị, rám nắng, lúc bấy giờ đỏ bừng lên, ướt đẫm sương mai và chằng chịt những đường gân xanh; nó cũng có cái vẻ khô khan của người làm ăn tần tảo như vẻ mặt của ông Ivan Ivanứts, cũng có cái vẻ ham mê kinh doanh như thế. Nhưng người ta vẫn cảm thấy Varlamốp khác Ivan Ivanứts vô cùng. Ở ông cậu Kudmitsốp, bên cạnh cái vẻ khô khan sự vụ kia bao giờ trên gương mặt cũng thấy nỗi lo sợ là sẽ không tìm ra được Varlamốp, sẽ đến muộn và không bán hàng cho được giá; còn trên gương mặt cũng như trong dáng dấp của Varlamốp thì không hề có một chút gì như vậy, không hề thấy cái vẻ lo sợ của những con người nhỏ bé và lệ thuộc. Con người này thì tự mình đặt ra giá cả, không thèm đi tìm ai và không lệ thuộc vào ai hết; vẻ bên ngoài của ông ta không có gì đặc sắc thật, nhưng trong tất cả cái dáng dấp của ông ta, kể cả cách cầm roi ngựa, đều có thể thấy rõ ông ta có ý thức về sức mạnh của mình và đã quen ngự trị ở chốn thảo nguyên này.

Khi ngựa đi ngang chỗ Iegoruska, ông ta không nhìn nó; chỉ có con ngựa hạ cố nhìn nó bằng đôi mắt to ngây dại, nhưng cũng chỉ nhìn một cách dửng dưng. Lão Pantelây cúi chào Varlamốp; thấy thế, ông ta vẫn không rời mắt nhìn vào cuốn sổ, cất cái giọng nói:

- Chào ông già!

Câu chuyện trao đổi giữa Varlamốp với người liên lạc và cái cử chỉ giơ cao roi ngựa của ông ta hình như đã gây ra một ấn tượng nặng nề đối với cả đoàn xe. Vẻ mặt mọi người đều nghiêm lại. Người liên lạc, hoang mang trước cơn giận của con người đầy quyền lực kia, đầu vẫn để trần, buông thõng dây cương đứng yên cạnh chiếc xe đi đầu; lặng thinh và dường như không tin rằng mới sáng ra mình đã gặp một chuyện rủi ro như vậy.

- Ông già này bẳn tính quá... - lão Pantelây lẩm bẩm. - Thật khổ, ai đời lại bẳn thế. Nhưng nói chung thì ông ta khá lắm, cũng là người rất tốt... Không bao giờ vô cớ xúc phạm đến ai... Khá lắm...

Xem xét xong các giấy tờ, Varlamốp đút quyển sổ vào túi, con ngựa như hiểu được ý chủ, không đợi cho ông ta giục đã tung bờm cất vó phi nhanh trên con đường cái lớn.