Vợ người du hành thời gian - Phần I - Chương 09 phần 3
“Hãy xem Cuộc sống tươi đẹp đi”, Alicia nói, mắt nhìn vào đồng hồ của nó. “Năm phút nữa sẽ chiếu trên kênh 60 đấy.”
“Lại nữa? Chẳng phải em đã xem nó cả hai trăm lần rồi sao?”
Alicia thích Jimmy Stewart.
“Anh chưa xem”, Henry nói.
Alicia có vẻ sốc. “Chưa bao giờ? Tại sao anh có thể?”
“Anh không có ti vi.”
Giờ thì Alicia thực sự sốc. “Ti vi của anh bị hỏng hay sao?”
Henry cười. “Không. Anh chỉ ghét chúng thôi. Chúng khiến anh đau đầu.” Chúng khiến anh ấy du hành thời gian. Vì sự nhấp nháy của màn hình.
Alicia thất vọng. “Vậy là anh không muốn xem?”
Henry nhìn tôi; tôi không phiền. “Dĩ nhiên rồi”, tôi nói. “Nhưng chúng ta sẽ không xem đoạn kết; chúng ta phải chuẩn bị cho lễ mi-sa.”
Chúng tôi kéo sang phòng chiếu phim, ngay bên cạnh phòng khách. Alicia bật máy. Dàn hợp ca đang hát It Came Upon the Midnight Clear. “Kinh”, con bé cười nhạo. “Nhìn đống áo choàng bằng nhựa vàng khè kìa. Chúng trông như những chiếc áo mưa.” Con bé rơi tõm xuống sàn nhà, còn Henry ngồi xuống ghế tràng kỉ. Tôi ngồi xuống bên cạnh anh ấy. Kể từ lúc về nhà, tôi cứ không ngừng lo nghĩ đến chuyện cư xử với Henry như thế nào trước mặt các thành viên đa chủng loại của gia đình tôi. Tôi nên ngồi gần đến mức nào? Nếu Alicia không ở đây, tôi sẽ nằm xuống ghế, tựa đầu lên đùi Henry. Henry giải quyết vấn đề của tôi bằng cách ngồi xích gần lại và quàng tay qua người tôi. Cánh tay ngượng nghịu e dè. Chúng tôi sẽ chẳng bao giờ ngồi như thế này trong hoàn cảnh khác. Dĩ nhiên, chúng tôi chẳng bao giờ xem ti vi cùng nhau. Có thể đây sẽ là cách chúng tôi ngồi gần nếu có lúc nào đó xem ti vi. Dàn đồng ca biến mất và một vài đoạn quảng cáo hiện lên. McDonald’s, đại lý phân phối Buick địa phương, Pillsbury, Red Lobster, họ đều chúc chúng tôi một Giáng Sinh an lành. Tôi nhìn Henry đang lộ vẻ sửng sốt tột độ trên mặt.
“Sao vậy?” tôi hỏi khẽ.
“Tốc độ hình ảnh. Chúng cứ thay phiên nhau nhảy sau vài giây; anh phát ốm mất.” Henry lấy ngón tay xoa mắt. “Anh nghĩ anh sẽ đi đọc sách một lát.” Anh ấy đứng dậy và bước ra khỏi phòng, sau một lát, tôi nghe tiếng bước chân anh ấy đi lên cầu thang. Tôi cầu nguyện nhanh: Chúa ơi, làm ơn đừng để Henry du hành vào lúc này, không phải lúc chúng con chuẩn bị đi lễ nhà thờ và con sẽ chẳng thể nào giải thích. Alicia trườn lên ghế trong lúc đoạn giới thiệu xuất hiện trên ti vi.
“Anh ấy không trụ được lâu cho lắm”, con bé nói.
“Anh ấy bị đau đầu ghê gớm. Cơn đau mà khiến em phải nằm yên trong bóng tối không động đậy, và nếu có ai đó la ó thì đầu em sẽ nổ tung.”
“Ồ.” James Stewart đang lôi ra một đống tờ rơi giới thiệu du lịch, nhưng sự khởi hành của anh ta sẽ sớm bị dập tắt bởi một điệu nhảy. “Anh ấy rất dễ thương.”
“Jimmy Stewart?”
“Anh ấy cũng dễ thương. Nhưng ý em là người đàn ông của chị. Henry.”
Tôi cười. Tôi tự hào như thể đã tạo ra Henry. “Phải.”
Donna Reed đang mỉm cười rạng rỡ với Jimmy Stewart ở bên kia căn phòng chật ních người. Giờ họ đang nhảy cùng nhau, và tình địch của Jimmy Stewart đã gạt cần khiến sàn nhảy tách đôi, lộ ra bể bơi bên dưới. “Mẹ rất thích anh ấy.”
“Tạ ơn chúa.” Donna và Jimmy đang nhảy giật lùi về phía bể; sớm thôi mọi người trong những bộ cánh dạ vũ cũng sẽ gia nhập cùng họ khi ban nhạc vẫn đang chơi.
“Nell và Etta cũng duyệt.”
“Tuyệt. Giờ thì bọn chị chỉ cần vượt qua 36 giờ đồng hồ tới mà không làm hỏng ấn tượng ban đầu.”
“Việc đó thì có gì khó? Trừ phi… không, chị đâu có ngốc đến mức đó…”
Alicia nhìn tôi nghi ngờ. “Có không?”
“Dĩ nhiên là không.”
“Dĩ nhiên là không”, con bé lặp lại. “Chúa ạ, em không thể tin được Mark. Ngu ngốc làm sao.” Jimmy và Donna đang hát Những cô gái Buffalo, sao cô không ra đây tối nay trong lúc đi dọc những con đường phố Bedford Falls chói lọi, trong bộ đồng phục bóng đá và áo choàng tắm.
Chị phải ở đây ngày hôm qua mới thấy. Em đã tưởng bố sẽ bị nhồi máu cơ tim ngay trước cây Giáng Sinh. Em đã tưởng tượng cảnh bố ngã xuống, cây đổ lên người và nhân viên cứu thương sẽ phải nhấc đống quà và đồ trang trí khỏi người ông trước khi họ có thể tiến hành CPR[2]…” Jimmy dâng tặng Donna mặt trăng, và Donna đồng ý.
[2] CPR: Cardiopulmonary resuscitation: Xoa bóp tim ngoài lồng ngực.
“Chị tưởng em đã học CPR ở trường.”
“Em sẽ rất bận rộn với việc hồi sức cho mẹ. Đã khủng khiếp lắm, Clare ạ. La hét suốt một hồi.”
“Sharon có ở đó không?”
Alicia cười lớn. “Chị giỡn hả? Em và Sharon đã ngồi đây và cố nói chuyện lịch sự với nhau, còn Mark và bố mẹ ở phòng khách hét vào mặt nhau. Sau một hồi bọn em chỉ ngồi đây và nghe ngóng.”
Alicia và tôi trao đổi cái nhìn như muốn nói, Có gì mới lạ? Chúng tôi đã dành cả cuộc đời này lắng nghe bố mẹ la hét, với nhau, với chúng tôi. Đôi khi tôi có cảm giác như nếu tôi phải nghe mẹ khóc thêm một lần nữa tôi sẽ bỏ đi và không bao giờ quay lại. Ngay lúc này đây tôi muốn túm lấy Henry và trở về Chicago, nơi không ai có thể la hét, không ai có thể giả vờ như mọi chuyện vẫn ổn và không có gì xảy ra. Một người đàn ông bụng phệ, giận dữ, trong chiếc áo ba lỗ đang hét với James Stewart rằng hãy thôi nói chuyện với Donna Reed đi và cứ thế mà hôn cô ấy. Tôi không thể đồng tình hơn, nhưng anh ta không làm theo. Thay vào đó, anh ta giẫm lên áo choàng của cô ấy và dĩ nhiên cô ấy bước ra khỏi áo, điều tiếp theo bạn nhận ra, cô ấy đang trần trụi trốn sau bụi tú cầu lớn.
Mẫu quảng cáo Pizza Hut hiện ra và Alicia tắt tiếng. “Clare?”
“Sao?”
“Henry đã từng đến đây bao giờ chưa?”
Bỏ xừ. “Không, chị không nghĩ vậy? Tại sao em hỏi thế?”
Con bé nặng nề chuyển tư thế và nhìn ra xa trong khoảnh khắc. “Chị sẽ nghĩ em bị khùng.”
“Sao?”
“Đã có chuyện rất kỳ quái xảy ra. Lâu lắm rồi… khi em chừng 12 tuổi. Hôm đó em phải đi tập đàn, nhưng em nhớ ra mình không có áo sơ mi sạch cho buổi diễn thử hay gì đó, Etta và mọi người đều đã ra ngoài, Mark đáng lẽ phải đi trông trẻ nhưng anh ấy trốn trong phòng và hút thuốc phiện. Em đi xuống dưới nhà, đến phòng giặt đồ. Khi đang tìm áo, em nghe thấy có tiếng động, như tiếng cửa phòng cuối tầng hầm, phòng chứa xe đạp, nghe như tiếng gió rít. Em đã nghĩ chắc hẳn là Peter. Nên em đứng ở ngưỡng cửa phòng giặt đồ và lắng nghe, rồi cánh cửa phòng để xe mở ra và Clare ạ, chị sẽ không tin đâu, đó là một người đàn ông trần như nhộng, trông giống hệt Henry.”
Tôi bật cười, tiếng cười nghe hoàn toàn giả tạo, “Ồ, thôi mà.”
Alicia cười theo. “Thấy chưa, em biết ngay chị sẽ nghĩ em bị khùng mà. Nhưng em thề, nó thực sự đã xảy ra. Người đàn ông này chỉ nhìn em hơi chút ngạc nhiên. Ý em là, em đứng ở đó, miệng há hốc và tự hỏi không biết người đàn ông trần truồng này sẽ cưỡng hiếp mình, hay giết mình gì đó, nhưng anh ta chỉ nhìn em và thản nhiên nói, “Ồ, xin chào, Alicia”, rồi đi vào phòng đọc và đóng cửa lại.”
“Hả?”
“Nên em chạy lên nhà và gõ cửa phòng Mark thình thịch, anh ấy bảo em biến đi, cuối cùng em cũng khiến được anh ấy mở cửa ra, anh ấy phê bí tỉ nên mất một lúc mới hiểu em nói gì, rồi, dĩ nhiên, anh ấy không tin lời em nói nhưng em cũng thuyết phục được anh ấy xuống dưới nhà, anh ấy gõ cửa phòng đọc, cả hai bọn em đều sợ mất vía, hệt như Nancy Drew, chị biết đấy, như lúc chị nghĩ. ‘Mấy đứa con gái đó thật ngu, đáng lẽ chúng nên gọi cảnh sát’, nhưng chẳng có gì xảy ra cả, rồi Mark mở cửa và chẳng có ai ở đó, anh ấy đã nổi giận với em vì cho rằng em đã bịa chuyện, nhưng rồi bọn em nghĩ người đàn ông đó đã đi lên nhà, nên bọn em bò đi và ngồi trong nhà bếp, bên cạnh chiếc điện thoại và con dao băm của Nell để trên bàn.”
“Sao chưa bao giờ em kể cho chị nghe chuyện này?”
“Thì, đến lúc mọi người về nhà, em cảm thấy thật ngu ngốc, và em biết chắc rằng bố sẽ nghĩ đó là chuyện lớn, nhưng chẳng có gì thực sự xảy ra cả… nhưng nó cũng không khôi hài một chút nào, vả lại em đã không muốn nói về nó.” Alicia cười. “Em đã từng hỏi bà ngoại xem trong nhà này có ma không, nhưng bà bảo không, ít nhất theo bà là không.”
“Và người đàn ông đó, hoặc con ma đó, trông giống hệt Henry?”
“Phải! Em thề đấy, Clare, suýt chút nữa em đứng tim mà chết khi bọn chị bước vào, ý em là, anh ấy là người đàn ông đó! Ngay cả giọng nói cũng giống hệt. Có điều, người đàn ông em thấy trong tầng hầm có tóc ngắn hơn, và già hơn, có lẽ khoảng 40 tuổi…”
“Nhưng nếu người đàn ông đó khoảng 40 tuổi, và chuyện này xảy ra đã 5 năm trước… Hiện nay Henry 28 tuổi, có nghĩa là lúc ấy Henry mới 23 tuổi, Alicia ạ.”
“Ừ nhỉ. Nhưng Clare, thật kỳ quái mà… Henry có anh trai nào không?”
“Không. Và anh ấy không giống bố nhiều lắm.”
“Có thể đó là một hiện tượng hồn lìa khỏi xác cũng nên.”
“Hoặc du hành thời gian”, tôi mỉm cười.
“Ồ, phải. Chúa ạ, quái dị làm sao.” Màn hình ti vi tối đi trong khoảng khắc, chúng tôi quay trở lại với Donna trốn sau bụi tú cầu và Jimmy Stewart đi vòng quanh với áo choàng tắm của cô ấy gọn lỏn trên tay. Anh ấy đang bỡn cợt với cô, nói với cô rằng anh ấy sẽ bán vé cho mọi người xem cảnh tượng này. Đồ đểu cáng, tôi nghĩ, mặc dù tôi đỏ mặt khi nhớ tới những chuyện còn tồi tệ hơn mà tôi đã nói và làm với Henry trong lĩnh vực quần áo và sự trần trụi. Rồi một chiếc xe chạy tới và Jimmy Stewart ném cho Donna chiếc áo choàng của cô. “Bố cậu bị đột quỵ!” người ngồi trong xe lên tiếng, và anh ta chạy đi mà không thèm ngoảnh lại, bỏ Donna Reed đứng hụt hẫng trong những tán lá. Mắt tôi ướt nhòe. “Chúa ạ, Clare, anh ta sẽ quay lại mà”, Alicia nhắc tôi. Tôi mỉm cười, và chúng tôi chỉnh đốn lại để xem ông Potter ép Jimmy Stewart phải từ bỏ việc học và điều hành văn phòng cho vay xây dựng đang bi đát của gia đình. “Đồ đáng ghét”, Alicia nói. “Đồ đáng ghét”, tôi đồng tình.
HENRY: Khi chúng tôi bước ra từ khí đêm lạnh lẽo đi vào cái ấm và những ngọn đèn nhà thờ, ruột gan tôi chao đảo. Tôi chưa từng đến dự lễ mi-sa của đạo Công giáo bao giờ. Lần cuối cùng tôi tham dự bất kể hoạt động tín ngưỡng nào là ở đám tang của mẹ. Tôi nắm lấy tay Clare như một người mù cần được cô ấy dẫn qua lối đi giữa các dãy ghế trung tâm, rồi chúng tôi an tọa tại một hàng ghế trống. Clare và gia đình cô ấy quỳ lên tấm đệm lót gối, còn tôi ngồi trên ghế, như lời Clare bảo. Chúng tôi đến sớm. Alicia đã biến mất, và Nell đang ngồi đằng sau chúng tôi cùng với chồng và con của bà, lính hải quân đang nghỉ phép. Bà dì Dulcie đang ngồi với các cụ đồng trang lứa khác. Clare, Mark, Sharon và Philip quỳ cạnh nhau với những thái độ khác nhau: Clare rất tự giác, Mark quỳ cho có, Sharon bình tĩnh và chăm chú, Philip kiệt quệ. Nhà thờ chứa đầy những cây trạng nguyên. Nó có mùi như mùi nến và những chiếc áo choàng ẩm ướt. Có một mô hình dàn dựng tỉ mỉ cảnh Mary và Joseph cùng những tùy tùng của họ bên phải án thờ. Mọi người dần kéo tới, chọn ghế và chào hỏi lẫn nhau. Clare khẽ ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh tôi, Mark và Philip cũng làm theo, chỉ có Sharon là vẫn quỳ thêm một vài phút rồi tất cả chúng tôi im lặng ngồi trong một hàng, chờ đợi. Người đàn ông mặc áo vét bước lên sân khấu...án thờ, gì cũng được… và thử chiếc mic được gắn vào một cái bục nhỏ, rồi lại biến mất vào phía sau. Đã có thêm rất nhiều người, chật cứng. Alicia và hai người phụ nữ cùng một người đàn ông xuất hiện bên phía cánh trái của sân khấu, mang theo nhạc cụ của họ. Người phụ nữ tóc vàng chơi violin, người phụ nữ tóc nâu xám chơi viola; còn người đàn ông, già đến nỗi lưng đã còng và chân lê từng bước nặng nhọc, cũng chơi violin. Tất cả bọn họ đều mặc quần áo màu đen. Họ ngồi trên những chiếc ghế gập, bật đèn trên giá đỡ bảng phổ, lật qua lật lại các tấm nhạc phổ, tạo ra tiếng kêu lanh canh trên những sợi dây đàn, và nhìn nhau, để tìm sự đồng nhất. Mọi người bỗng nhiên im lặng, và trong sự im lặng đó một nốt trầm, chậm, và dài ngân lên lấp đầy khoảng không, nó chẳng kết nối đến một bản nhạc phổ biến nào nhưng đơn giản tồn tại và kéo dài, âm thanh mà cô ấy tạo ra có vẻ như hiện lên từ một nơi bất chợt nào đó, có lẽ khởi nguồn từ giữa hai tai của tôi, vang dội trong hộp sọ của tôi như những ngón tay đang vuốt ve não bộ. Rồi cô ấy dừng lại. Sự tĩnh lặng kéo theo tuy ngắn ngủi nhưng cùng cực. Rồi cả bốn nhạc công dâng lên vào cuộc. Sau sự mộc mạc giản đơn của một nốt nhạc duy nhất hồi nãy đó, âm nhạc của họ bất hòa, hiện đại và chói tai, tôi nghĩ có lẽ một bản của Bartok? Nhưng rồi tôi phân tích những gì mình đang nghe và nhận ra họ đang chơi Silent Night. Tôi không thể hiểu vì sao nó nghe thật kỳ quái cho đến khi tôi nhìn thấy người phụ nữ tóc vàng chơi violin đá vào ghế Alicia, và sau một nhịp, bản nhạc trở nên hòa hợp. Clare liếc nhìn tôi và mỉm cười. Tất cả mọi người trong nhà thờ nhẹ nhõm hơn. Silent Night mở đường cho một bài thánh ca tôi không nhận ra. Mọi người đứng dậy. Họ quay về phía sau nhà thờ, và một mục sư bước trên lối đi chính với một đoàn tùy tùng đông đúc những cậu bé và một vài người đàn ông đóng bộ đĩnh đạc. Họ trịnh trọng diễu hành đến phía trước của nhà thờ và đứng vào vị trí của mình. Âm nhạc dừng lại đột ngột. Ối, không, tôi nghĩ, lại gì nữa đây? Clare nắm lấy tay tôi, và chúng tôi đứng cùng nhau, giữa đám đông, và nếu Chúa trời có tồn tại, thì Chúa ơi, hãy để tôi được đứng đây, trong yên lặng và kín đáo, ở đây ngay lúc này.
CLARE: Henry trông có vẻ như chuẩn bị lăn ra bất tỉnh. Chúa nhân từ, đừng để anh ấy biến mất vào lúc này. Cha Compton đang chào đón chúng tôi bằng giọng diễn thuyết phát thanh của ông. Tôi thò tay vào túi áo choàng của Henry, thọc qua cái lỗ ở đáy túi, tìm thằng nhỏ của anh ấy và bóp mạnh. Anh ấy nhảy dựng lên như thể tôi vừa sốc điện vào anh ấy. “Chúa ban phước lành cho con”, Cha Compton nói. “Và cho cả Cha”, tất cả chúng tôi đồng thanh đáp lại. Vẫn như vậy, mọi thứ vẫn như vậy. Thế mà, chúng tôi đang ở đây, cuối cùng cũng có thể, để mọi người cùng ngắm. Tôi có thể cảm nhận được cặp mắt buồn chán của Helen đang gắn chặt sau lưng tôi. Ruth đang ngồi ở năm hàng ghế phía sau chúng tôi, với anh trai và bố mẹ của cậu ấy. Nancy, Laura, Mary Christina, Patty, Dave và Chris, thậm chí cả Jason Everleigh; có vẻ như tất cả những ai đã từng đi học cùng tôi đều có mặt tại đây vào tối nay. Tôi nhìn sang Henry, người chẳng hiểu gì về tất cả những chuyện này. Anh ấy đang đổ mồ hôi ròng ròng. Anh ấy liếc nhìn tôi, nhướn một bên lông mày. Lễ mi-sa được bắt đầu. Những bài cầu nguyện, bài kinh, Cầu phước lành đến với con: và với Cha. Tất cả mọi người đứng dậy khi đọc Phúc Âm, Luca, Chương 2. Những người thuộc đế chế La Mã, hồi hương về đất tổ, Joseph và Mary, sự ra đời của đứa trẻ, phép màu, sự khiêm tốn, những cái tã, máng ăn. Sự logic của câu chuyện đã biến mất khỏi tôi từ khi nào, nhưng vẻ đẹp của nó là không thể chối cãi. Những người chăn cừu, gắn chặt vĩnh cửu với đồng cỏ. Thiên thần nói: đừng sợ, hãy xem, ta mang tin tốt lành đến cho các ngươi… Henry đang lắc nhẹ hai chân xao nhãng. Mắt anh ấy nhắm nghiền, môi mím chặt. Nhiều thiên thần hơn. Cha Compton ngân nga, “Nhưng Mary giữ tất cả những đồ vật ấy, và trân quý chúng bằng cả trái tim” “Amen”, chúng tôi nói, và ngồi xuống nghe thuyết pháp. Henry nhoài người lại và thì thầm, “Nhà vệ sinh ở đâu vậy?”
“Đằng sau cánh cửa đó”, tôi bảo anh ấy, tay chỉ về phía cửa mà Alicia, Frank và những người khác đi qua. “Làm thế nào để có thể đến đó?”
“Đi ra phía sau của nhà thờ rồi qua lối đi bên kia.”
“Nếu anh không quay trở lại…”
“Anh phải quay trở lại.” Trong lúc Cha Thompton nói, “Trong buổi tối tràn ngập niềm vui này…” Henry đứng dậy và bước đi nhanh lẹ. Cha Compton đưa mắt dõi theo anh ấy đang bước ngược trở lại rồi quay lên và đi ra phía cửa. Tôi nhìn anh ấy mở cửa rồi đóng lại.
HENRY: Tôi đang đứng ở nơi trông có vẻ là hành lang của một trường tiểu học. Đừng hoảng hốt, tôi tự nhủ với chính mình. Không ai có thể thấy mày. Trốn đi. tôi dáo dác nhìn quanh, có một cánh cửa: BOYS. Tôi mở ra, và đứng giữa phòng vệ sinh nam nhỏ, lát gạch nâu, tất cả đồ vật đều nhỏ xíu và thấp sát mặt đất, lò sưởi làm tăng thêm mùi xà phòng. Tôi mở cửa sổ he hé và thò đầu ra ngoài. Những cây thường xuân chắn hết mọi lối nhìn vào, khiến không khí lạnh ngắt tôi đang hít vào có mùi nhựa thông. Sau một vài phút, tôi cảm thấy bớt mong manh. Tôi nằm xuống sàn nhà, cuộn tròn lại, gối chạm vào cằm. Rồi đấy, tôi đã chắc chắn.
Giờ thì. Nằm giữa sàn nhà lát gạch nâu này. Nó có vẻ là một điều thật nhỏ nhoi để đưa ra hỏi. Nếu Chúa có tồn tại, ngài sẽ muốn chúng ta làm người tốt, và sẽ thật vô lý khi trông đợi ai đó làm người tốt mà không có sự khích lệ, Clare là người rất, rất tốt, cô ấy thậm chí tin vào Chúa, vậy mà tại sao ngài lại quyết định làm bẽ mặt cô ấy trước bàn dân thiên hạ…
Tôi mở mắt. Tất cả những đồ vật bằng sứ nhỏ xíu đang sáng lên óng ánh, bầu trời xanh trong, tím ngắt, tôi cam chịu biến mất một lần nữa, đã chẳng thể nào dừng lại, tôi run rẩy, “Không!” nhưng tôi đã biến mất.
CLARE: Cha Compton đã kết thúc bài thuyết pháp về hòa bình thế giới, bố tôi nhoái người qua Sharon và Mark thì thầm, “Bạn của con không được khỏe hả?”
“Vâng”, tôi thì thầm đáp lại, “anh ấy bị đau đầu và đôi khi chúng làm anh ấy buồn nôn.”
“Ta có nên đi xem có giúp được gì không?”
“Không! Anh ấy sẽ ổn thôi.” Bố tôi có vẻ không được thuyết phục, nhưng ông vẫn ngồi lại ghế. Cha Compton đang chúc phúc. Tôi gắng gượng kìm nén nỗi thúc giục muốn tự mình chạy đi tìm Henry. Hàng ghế đầu đứng dậy đón nhận thánh thể. Alicia đang chơi một bản nhạc của Bach. Nó rất buồn và đáng yêu. Hãy quay trở lại, Henry. Hãy trở lại.
HENRY: Tôi đang trong căn hộ của mình ở Chicago. Căn phòng tối om, và tôi đang quỳ gối xuống sàn phòng khách. Tôi lảo đảo đứng dậy và huých cùi chỏ vào giá sách. “Chết tiệt!” Không thể tin được. Tôi thậm chí không thể trải qua một ngày trọn vẹn với gia đình Clare, bị hút đi và ném vào căn hộ chết tiệt của chính mình như một quả bóng…
“Này.” Tôi quay lại, và tôi đang ngái ngủ ngồi dậy, trên ghế sô-pha kiêm giường ngủ.
“Hôm nay là ngày bao nhiêu?” Tôi hỏi.
“28 tháng Mười Hai, năm 1991.” Bốn ngày sau.
Tôi ngồi uống giường. “Không thể chịu đựng nổi.”
“Bình tĩnh đi. Cậu sẽ quay lại sau vài phút nữa. Sẽ không ai để ý. Cậu sẽ an toàn trong suốt quãng thời gian còn lại của kỳ nghỉ.”
“Thật không?”
“Thật. Thôi than vãn đi”, tôi nói, bắt chước y hệt giọng của bố. Tôi muốn đấm cho cậu ta một cái, nhưng để làm gì chứ? Có tiếng nhạc êm ái đang cất lên.
“Bach hả?”
“Sao? Ồ, phải, nó ở trong đầu của cậu. Là Alicia.”
“Kì quái. Ôi!” Tôi chạy vào phòng tắm, và mém chút nữa thì đến nơi.
CLARE: Những người cuối cùng đang nhận thánh thể khi Henry bước qua ngưỡng cửa, hơi xanh xao, nhưng vẫn đi vững vàng. Anh ấy đi vòng ra sau rồi đi lên lối đi giữa các dãy ghế và nép vào bên tôi. “Lễ mi-sa đã kết thúc, hãy ra về trong bình an”, Cha Compton nói. “Amen”, chúng tôi đáp lại. Các cậu bé đoàn tùy tùng tụ quanh Cha như những con cá nhỏ theo đàn, họ thong dong bước dọc lối đi chính giữa và tất cả mọi người nối đuôi theo sau. Tôi nghe Sharon hỏi Henry có ổn không, nhưng tôi không kịp nghe câu trả lời vì Helen và Ruth đã chặn đầu chúng tôi và tôi giới thiệu Henry với họ.
Helen cười ý nhị. “Nhưng chúng ta đã gặp nhau rồi!”
Henry nhìn tôi cảnh giác. Tôi lắc đầu với Helen, người đang cười đắc thắng. “Có lẽ chưa”, cậu ấy nói. “Rất vui được gặp anh, Henry.” Ruth bẽn lẽn đưa tay cho Henry. Trước sự bất ngờ của tôi, anh ấy giữ nó một lúc rồi nói, “Xin chào, Ruth”, trước khi tôi kịp giới thiệu tên cậu ấy. Nhưng theo tôi biết, cậu ấy không nhận ra anh ấy. Laura gia nhập cùng chúng tôi đúng lúc Alicia chạy lại, va đập chiếc vi-ô-lông-xen của con bé vào đám đông. “Ngày mai ghé qua nhà tớ nhé”, Laura ngỏ ý. “Bố mẹ tớ sẽ đi Bahamas lúc bốn giờ.” Tất cả chúng tôi nhiệt tình đồng ý; cứ hàng năm bố mẹ Laura lại đi đến một địa danh nhiệt đới nào đó ngay khi các món quà đã được mở, và cứ hàng năm chúng tôi lại tụ tập ở nhà Laura ngay khi chiếc xe của bố mẹ cậu ấy khuất bóng khỏi lối đi. Chúng tôi chia tay trong tiếng đồng thanh “Chúc mừng Giáng Sinh!” và ngay sau khi chúng tôi ra khỏi cửa hông của nhà thờ để ra bãi đỗ xe, Alicia nói, “Khỉ, em biết ngay mà!” một lớp tuyết mới rơi phủ kín khắp nơi, thế giới đã được làm mới lại trong màu trắng tinh khôi. Tôi đứng yên nhìn những ngọn cây và những chiếc xe bên kia đường về phía hồ, mà đang đâm sầm, một cách vô hình, ra biển xa xa dưới nhà thờ bên kia con dốc. Henry đứng bên tôi, chờ đợi. Mark nói, “Đi thôi, Clare”, và tôi bắt đầu bước đi.
HENRY: Chúng tôi bước qua ngưỡng cửa căn nhà Sáo Bắc Mỹ lúc 1 giờ 30 sáng. Suốt quãng đường về, Philip đã không ngừng quở trách Alicia vì “lỗi lầm” của con bé ở đoạn đầu bản Silent Night, và con bé chỉ ngồi yên không nói nửa lời, nhìn ra ngoài cửa sổ tới những ngôi nhà tối om im lìm và những ngọn cây. Giờ thì mọi người đã lên nhà trở về phòng của mình sau khi nói “Chúc mừng Giáng Sinh” lần thứ 50, trừ Alicia và Clare, những người đã biến mất vào căn phòng cuối hành lang tầng một. Tôi tự hỏi mình nên làm gì, và trong một phút bốc đồng, tôi đi theo họ.
“... thật đáng ghét”, Alicia đang nói trong lúc tôi thò đầu vào cửa. Căn phòng bị chế ngự bởi chiếc bàn bi-a khổng lồ đang tắm trong ánh sáng huyền ảo của ngọn đèn treo lơ lửng phía trên. Clare đang xếp bóng trong lúc Alicia đi tới đi lui trong bóng tối bên cạnh bờ mép của chiếc bàn đầy ánh sáng.
“Nếu em cố tình khiến ông tức giận và ông đã tức giận, thì chị không hiểu tại sao em còn bực mình”, Clare nói.
“Ông ấy thật tự mãn”, Alicia nói, giơ tay đấm vào không khí. Tôi đằng hắng. Hai chị em bọn họ nhảy dựng lên, rồi Clare nói, “Ôi, Henry, Chúa ạ, em tưởng anh là bố.”
“Anh muốn chơi không?” Alicia hỏi tôi.
“Không, anh chỉ xem thôi.” Có một chiếc ghế đẩu cao bên cạnh bàn, và tôi ngồi lên nó.
Clare đưa cơ cho Alicia, con bé xoa phấn rồi phá bóng, sắc lẹm. Hai bi sọc rơi vào lỗ góc. Alicia đưa thêm hai bị nữa vào lỗ trước khi đánh hụt, chỉ tí chút, một cú căn băng liên hoàn. “Chà”, Clare nói. “chị gặp thế khó rồi.” Clare dễ dàng đưa bi số 2 đang nằm sát cạnh bàn bên góc vào lỗ. Trong lượt cơ tiếp theo cô ấy để lọt bi cái vào lỗ sau bi số 3, Alicia nhặt cả hai bi lên và tìm vị trí cho cơ tiếp theo của con bé. Con bé ăn hết các bị sọc khác mà không gặp trở ngại nào. “Bi số tám, lỗ bên”, Alicia nói, và trận đấu kết thúc. “Ôi”, Clare thở dài. “Anh có chắc là không muốn chơi chứ?” Cô ấy đưa cơ của mình cho tôi.
“Chơi nào, Henry”, Alicia nói. “Mà anh chị muốn uống gì không?”
“Không”, Clare đáp.
“Em có gì?” tôi hỏi. Alicia bật đèn và một quầy bar cũ tuyệt đẹp xuất hiện cuối căn phòng. Alicia và tôi lọ mọ phía sau quầy, hầu như có đủ hết các loại rượu trên đời. Alicia pha cho mình một ly Rum Coke. Tôi ngần ngại trước đống đồ phong phú, rồi cuối cùng tự lấy cho mình một ly whiskey loại nặng. Clare quyết định cũng sẽ uống, và trong lúc cô ấy cạy đá từ khay vào cốc Kahlua của mình thì cửa phòng mở ra và tất cả chúng tôi giật nảy mình.
Là Mark. “Sharon đâu?” Clare hỏi anh ta. “Khóa cửa lại”, Alicia ra lệnh.
Mark quay người khóa cửa và bước tới quầy bar. “Sharon đang ngủ”, anh ta nói, lôi một chai Heineken từ trong chiếc tủ lạnh bé xíu ra. Anh ta vặn nút và thong dong đi về phía bàn. “Ai đang chơi?”
“Alicia và Henry”, Clare nói.
“Hừm. Đã có ai cảnh báo cậu ấy chưa?”
“Im đi, Mark”, Alicia nói.
“Con bé là Jackie Gleason giả trang đấy”. Mark nhắc nhở tôi.
Tôi quay sang Alicia. “Vậy thì hãy để trận đấu bắt đầu.” Clare lại xếp bóng. Alicia được quyền phá bóng. Whiskey đã lan ra khắp các tế bào trong tôi, mọi thứ trở nên sắc cạnh và rõ ràng. Những viên bi nổ ra như pháo hoa và trổ ra một đường nét mới. Bi 13 lảo đảo bên mép lỗ góc rồi rơi xuống. “Lại bi sọc”, Alicia nói. Con bé đưa thêm bi số 15, 12 và bi số 9 vào lỗ trước khi rơi vào thế bí khiến con bé phải thực hiện cú dội băng kép bất khả thi.