Bản giao hưởng Pháp - Phần I - Chương 31

31

Mùa đông năm trước - mùa đông đầu tiên của chiến tranh - thật dài và khắc nghiệt. Nhưng nói gì đây về mùa đông năm 1940 - 1941? Ngay từ cuối tháng Mười một đã bắt đầu lạnh và có tuyết. Tuyết rơi trên những ngôi nhà đã bị ném bom, trên những chiếc cầu mà người ta xây lại, trên những đường phố Paris, nơi chẳng còn cả ô tô lẫn xe buýt chạy qua, nơi những người đàn bà mặc măng tô lông và đội mũ len bước đi, nơi những người đàn bà khác run lập cập trước cửa các cửa hàng. Tuyết rơi trên những đường ray xe lửa, trên những dây điện báo mà dưới sức nặng của tuyết đã thõng xuống tận mặt đất và đôi khi bị đứt, trên những bộ quân phục màu lục của lính Đức bên cửa các trại lính, trên những lá cờ đỏ với chữ thập ngoặc ở nóc các tòa nhà. Trong các căn hộ giá lạnh, tuyết để lọt vào một thứ ánh sáng nhợt nhạt và thê thảm càng làm tăng lên cảm giác lạnh lẽo và thiếu tiện nghi. Trong các gia đình nghèo, người già và trẻ con ở trên giường hàng tuần lễ: đó là chỗ duy nhất có thể được ấm áp.

Sân hiên nhà Corte, mùa đông này, phủ một lớp tuyết dày và người ta để rượu sâm banh vào đó để ướp lạnh. Corte viết bên một ngọn lửa đốt bằng củi là thứ không thể thay thế được cái ấm áp thiếu vắng của lò sưởi điện. Mũi ông tái xanh; ông gần như khóc vì lạnh. Một tay ông áp vào ngực một cái túi cao su đầy nước nóng, tay kia ông viết.

Đến Noel, cái lạnh dữ dội nhân đôi; chỉ trong những hành lang của tàu điện ngầm người ta mới ấm người lên đôi chút. Và tuyết vẫn rơi, không ngừng được, dịu dàng và bền bỉ trên những hàng cây ở đại lộ Delessert nơi gia đình Péricand đã trở về sinh sống - bởi vì họ thuộc về cái tầng lớp đại trưởng giả Pháp, những người thà nhìn thấy con cái mình thiếu bánh mì, thiếu thịt và thiếu không khí còn hơn là thiếu bằng cấp, và bằng bất cứ giá nào cũng không để gián đoạn việc học hành của Hubert, vốn đã bị thiệt thời nhiều bởi những sự kiện hồi mùa hè vừa qua, cũng như việc học của Bernard lúc này đã hơn tám tuổi rồi mà vẫn bị mẹ bắt học thuộc lòng: “Trái đất là một quả cầu hoàn toàn không có điểm tựa”, cứ như là cậu mới chỉ có bảy tuổi chứ không phải là tám (thật tai hại!)

Những bông tuyết bám vào tấm mạng tang của bà Péricand, khi bà kiêu hãnh đi dọc hàng người đang xếp hàng trước cửa hàng và đến tận ngưỡng cửa mới dừng lại, cầm như phất cờ trong tay tấm thẻ ưu tiên được cấp cho các bà mẹ của những gia đình đông con.

Dưới làn tuyết rơi, Jeanne và Maurice Michaud đợi đến lượt mình, tựa vào nhau như những con ngựa mệt mỏi trước lúc lại lên đường.

Tuyết phủ trên ngôi mộ của Charlie ở Père-Lachaise và trên nghĩa địa ô tô gần cầu Gien - tất cả những chiếc ô tô bị trúng bom, bị thiêu cháy, bị bỏ rơi hồi tháng Sáu và nằm hai bên đường, nghiêng trên một bánh xe hay trên sườn xe, hoặc ngoác miệng hoặc chỉ còn cho thấy một đống sắt vụn cong queo. Làng quê trắng xóa, mênh mông, câm lặng; tuyết tan trong vài ngày; những người nông dân vui sướng. “Thật dễ chịu khi được nhìn thấy đất,” họ nói. Nhưng ngày hôm sau tuyết lại rơi, quạ kêu quàng quạc trên bầu trời. “Năm nay thật quá đáng,” những người trẻ khẽ nói và nghĩ tới những bãi chiến trường, những thành phố bị ném bom, nhưng những người già trả lời: “Chẳng hơn thường lệ đâu!” Ở làng quê không có gì thay đổi cả, người ta chờ đợi. Người ta chờ đợi chiến tranh kết thúc, cuộc phong tỏa kết thúc, các tù binh trở về, mùa đông chấm dứt.

“Năm nay sẽ không có mùa xuân,” những người đàn bà than thở khi nhìn tháng Hai trôi qua, rồi đầu tháng Ba nữa mà nhiệt độ không khá lên. Tuyết đã biến mất, nhưng đất xám xịt, cứng, kêu vang như sắt. Khoai tây bị giá lạnh. Gia súc không còn cỏ khỏ, lẽ ra chúng đã phải ra ngoài kiếm thức ăn, nhưng chẳng có một cọng cỏ nào xuất hiện. Trong cái xóm nhỏ nơi gia đình Sabarie sống, những người già ru rú sau những cánh cửa gỗ lớn mà đến đêm người ta đóng chặt lại. Gia đình tụ tập quanh lò sưởi và người ta đan áo cho các tù binh, không trao đổi một lời. Madeleine và Cécile cất những chiếc áo nhỏ và tã lót từ những tấm vải trải giường cũ: Madeleine đã cưới Benoît hồi tháng Chín và cô sắp có con. Khi một cơn gió quá mạnh làm lung lay cánh cửa, “Ôi giời ơi, khổ quá đi mất,” các bà già nói.

Ở trang trại bên cạnh một cậu bé sinh trước Noël ít lâu có cha bị bắt làm tù binh đang khóc. Người mẹ đã có ba con. Đó là một nữ nông dân cao và gầy, tiết hạnh, lặng lẽ, dè dặt, không bao giờ than phiền. Khi người ta nói với chị: “Chị làm sao mà xoay xở được hả Louise, không có đàn ông ở nhà, với tất cả những công việc ấy, chẳng có ai giúp chị và còn bốn đứa nhỏ?”, chị khẽ mỉm cười trong lúc đôi mắt vẫn lạnh lẽo và buồn bã rồi trả lời: “Cần phải thế mà...” Buổi tối, khi lũ trẻ đã ngủ, người ta thấy chị xuất hiện ở nhà Sabarie. Chị ngồi với món đồ đan, ngay cạnh cửa ra vào để nghe được trong sự tĩnh mịch ban đêm giọng của lũ trẻ nếu chúng gọi chị. Khi người ta không nhìn chị, chị lén ngước mắt và ngắm nhìn Madeleine với anh chồng trẻ của cô, không ghen tị, không ác ý, với một nỗi buồn câm lặng, rồi chị hạ nhanh cái nhìn xuống công việc đang làm và sau khoảng mười lăm phút thì đứng dậy, đi guốc vào, nói khẽ: “Thôi, tôi phải về đây. Chúc các vị một buối tối tốt lành và một đêm tốt lành”, và trở về nhà. Đó là một đêm tháng Ba. Chị không ngủ được. Gần như đêm nào của chị cũng trôi qua như vậy với việc tìm kiếm giấc ngủ trong cái giường lạnh lẽo và trống rỗng này. Chị đã nghĩ đến việc cho đứa con lớn nhất ngủ với chị, nhưng chị lại thôi vì một kiểu sợ hãi mê tín: chỗ đó cần phải để trống cho người vắng mặt.

Đêm hôm ấy, một trận gió dữ dội thổi, một cơn bão từ những ngọn núi Morvan tràn qua vùng. “Ngày mai lại có tuyết nữa!” mọi người nói. Người đàn bà, trong ngôi nhà to lặng lẽ của mình, ngôi nhà kêu răng rắc khắp mọi phía như một con tàu bị sóng gió xô dạt, lần đầu tiên chị buông xuôi, òa lên khóc. Điều đó đã không xảy ra với chị khi chồng chị ra đi vào năm 39, cả khi anh từ biệt chị sau một chuyến về phép ngắn ngủi, cả khi chị nhận được tin anh bị bắt làm tù binh, cả khi chị sinh con mà không có anh. Nhưng chị đã kiệt sức rồi: bao nhiêu là công việc... đứa con nhỏ thật khỏe và làm chị kiệt sức với sự háu ăn và những tiếng kêu gào của nó... con bò cái thì gần như không cho sữa nữa vì trời lạnh... lũ gà mái không còn thóc ăn và không muốn đẻ trứng, chỗ nước đóng băng cần phải phá vỡ đi ở bể giặt... Thật là quá sức... Chị không thể chịu được nữa, chị không còn sức khỏe nữa... chị thậm chí không còn muốn sống nữa... mà sống để làm gì nhỉ? Chị sẽ không được gặp lại chồng chị đâu, họ quá buồn vì vắng nhau, anh sẽ chết ở Đức thôi. Trong chiếc giường to này lạnh quá: chị lấy ra cái bầu sành để sưởi mà chị đã nhét vào dưới chăn hai giờ trước khi nó đang nóng giãy và bây giờ không còn ấm tí nào nữa, chị nhẹ nhàng đặt nó xuống nền nhà lát đá và, khi rút tay ra, chị chạm một lát vào sàn nhà buốt giá và lại bị lạnh thêm, thấm vào tận tim. Những tiếng nức nở làm người chị rung lên. Có thể nói gì để an ủi chị? “Chị không phải là người duy nhất...” Chị biết rõ điều đó nhưng có những người khác lại gặp may... Madeleine Sabarie chẳng hạn... Chị không muốn điều xấu cho cô... Nhưng thực quá sức! Thế giới quá đau khổ. Tấm thân gầy guộc của chị rét cóng lại. Chị cố thu mình lại trong chăn, dưới lớp chăn lông nhưng chẳng ích gì, chị cảm thấy như cái lạnh thấm vào chị cho đến tận những khớp xương. “Rồi sẽ qua thôi, anh ấy sẽ trở về và chiến tranh sẽ kết thúc!” mọi người nói. Không! Không! Chị không tin vậy nữa, nó sẽ kéo dài và sẽ kéo dài... Ngay cả mùa xuân cũng không muốn đến... Có phải là người ta chưa từng bao giờ thấy thời tiết như thế này vào tháng Ba không? Sắp hết tháng Ba mà mảnh đất này vẫn băng giá, băng giá đến tận trong lòng như chính chị. Giờ mạnh khiếp quá! Tiếng ồn ghê quá! Chắc mái ngói sắp bị tốc đi. Chị nhỏm dậy nửa người trên giường, nghe ngóng một lát, và đột nhiên, trên gương mặt đẫm nước mắt và đau khổ thoáng hiện một vẻ dịu lại, hoài nghi. Gió im bặt; chẳng biết nó đã sinh ra như thế nào, nó lại bay đi đâu chị cũng không biết nữa. Nó đã bẻ gãy những cành cây, lay các mái nhà trong cơn điên giận mù quáng của nó; nó đã mang đi những dấu vết cuối cùng của tuyết trên đồi, và bây giờ từ trên vòm trời u ám và xáo động bởi cơn bão, cơn mưa mùa xuân đầu tiên rơi xuống hãy còn lạnh lẽo nhưng ào ạt, vội vã, lách lối đi đến tận những rễ cây tăm tối, đến tận lòng đất đen và sâu thẳm.