Bản giao hưởng Pháp - Phần II - Chương 14

14

Mưa ngừng rơi sáng hôm sau. Mặt trời chiếu xuống mặt đất nóng, ẩm và tốt lành. Từ sáng sớm, sau một đêm ít ngủ, Lucile đã ngồi trên một chiếc ghế băng trong vườn và ngóng gã người Đức đi qua. Vừa nhìn thấy hắn ra khỏi nhà, cô bèn đi về phía hắn và trình bày điều thỉnh cầu của mình; cả hai người đều cảm thấy bị bà già Angellier và bà đầu bếp rình mò, chưa kể đến các bà hàng xóm, mỗi người núp sau cánh cửa chớp đóng kín nhà mình, nhìn hai người đứng giữa một lối đi.

- Nếu bà vui lòng đi cùng tôi đến tận nhà của các quý bà ấy, - gã người Đức nói, - tôi sẽ ra lệnh tìm kiếm trước mặt bà tất cả những thứ mà họ yêu cầu; nhưng nhiều đồng đội của chúng tôi từng đóng quân tại ngôi nhà bị các chủ nhân của nó bỏ rơi này nên tôi nghĩ rằng nó đã bị hư hại nhiều. Chúng ta đi xem nào.

Họ đi qua thị trấn, cạnh nhau, và gần như không nói gì.

Lucile thấy bên một ô cửa sổ của Khách sạn Du khách thấp thoáng tấm voan đen của bà Perrin. Người ta nhìn Lucile và người đi cùng cô với vẻ tò mò nhưng thông đồng và có phần tán thành. Hẳn là tất cả đều biết rằng cô sẽ giành lại từ tay kẻ thù một phần mà chúng đã chiếm (dưới dạng một hàm răng giả, một bộ đồ sứ và những đồ vật khác có giá trị nội trợ hay tình cảm). Một bà già vốn không thể nhìn thấy một bộ quân phục Đức mà không khiếp sợ, tuy vậy đã đến gần Lucile và hạ giọng nói với cô:

- Ra thế đấy... tốt quá... ít ra, cô cũng không sợ bọn chúng...

Viên sĩ quan mỉm cười.

- Họ coi bà như Judith đi thách thức Holophèrne trong lều của gã(8) vậy. Tôi hy vọng là bà không có những ý đồ đen tối như quý bà ấy! Chúng ta đến nơi rồi đây. Xin hãy chịu khó bước vào, thưa bà.

8. Theo Kinh Thánh, Judith, một phụ nữ Do Thái có sắc đẹp tuyệt vời, đã lợi dụng việc tướng địch Holopherne say mê mình để cắt đầu viên tướng đó (N.D).

Hấn đẩy cánh cửa hàng rào sắt nặng nề trước mặt và từ trên đỉnh hàng rào vang lên tiếng leng keng của một quả chuông nhỏ u sầu, quả chuông ngày xưa thường báo cho gia đinh Perrin biết là có khách đến chơi. Trong vòng một năm, khu vườn đã mang cái vẻ bị bỏ bê dễ khiến người ta nhói lòng vào một ngày không đẹp trời như hôm nay. Nhưng đây là một buổi sáng tháng Năm, là một ngày sau cơn giông. Thảm cỏ rực rỡ, những lối đi tràn ngập hoa cúc mắt bò, hoa xa cúc lam, tất cả các loại hoa ướt át và hoang dại rực lên dưới ánh mặt trời. Những thứ cây nhỏ đã mọc lên lộn xộn và những chùm hoa tủ đinh hương tươi tắn đập nhẹ vào Lucile lúc cô đi ngang qua. Chiếm giữ ngôi nhà là khoảng chục tên lính trẻ và tất cả trẻ con trong thị trấn, chúng thưởng ngoạn những ngày đẹp trời trong tiền sảnh (giống như tiền sảnh nhà Angellier, chỗ này tối tăm, với một thứ mùi ẩm mốc thoang thoảng, cửa kính màu lục nhạt và những chiến lợi phẩm săn bắn treo trên tường). Lucile nhận ra hai bé gái con ông thợ đóng xe, chúng ngồi trong lòng một tên lính tóc vàng, cười toe toét. Thằng bé con ông thợ mộc cưỡi ngựa trên lưng một tên lính khác. Bốn đứa nhóc từ hai đến sáu tuổi, con hoang của cô thợ may, ngồi trên sàn gỗ, bện những chiếc vòng bằng hoa lưu ly và những bông cẩm chướng trắng nhỏ mà ngày xưa từng mọc thật ngoan ngoãn xung quanh các bồn hoa.

Bọn lính bật dậy và đứng nghiêm theo tư thế quy định, cằm nâng lên và vểnh về phía trước, toàn thân căng ra đến nỗi có thể nhìn thấy những mạch máu ở cổ chúng khẽ run rẩy.

Viên sĩ quan nói với Lucile:

- Bà vui lòng trao cho tôi danh sách của bà nhé? Chúng ta sẽ cùng tìm.

Hắn đọc danh sách và mỉm cười.

- Chúng ta bắt đầu bằng chiếc tràng kỷ, chắc nó ở trong phòng khách. Đây là phòng khách, phải không nhỉ?

Hắn đẩy một cánh cửa và đi vào một căn phòng rất rộng, chất đầy đồ đạc, một số đồ bị đổ, một số khác bị gãy, những bức tranh xếp dưới đất dọc theo tường, một vài bức đã bị gót giày đạp thủng. Trên sàn vương vãi những mẩu giấy báo, những cọng rơm (hẳn là tàn tích của cuộc tháo chạy hồi tháng Sáu năn 40) và những điếu xì gà hút dở do kẻ xâm chiếm vứt lại. Trên một cái bệ vẫn còn một con chó bouledogue nhồi rơm đeo một vòng hoa đã phai màu và mõm bị đập vỡ đôi.

- Thật là một cảnh tượng kinh khủng! - Lucile ngao ngán nói.

Dù vậy vẫn có cái gì đó buồn cười trong gian phòng này và nhất là trong vẻ mặt ngượng ngùng của đám lính và viên sĩ quan. Gã này nhìn thấy ánh mắt của Lucile và vẻ chê trách của cô; hắn nói gay gắt:

- Bố mẹ tôi từng có một biệt thự bên bờ sông Rhin; quân lính của các vị đã chiếm giữ biệt thự ấy trong cuộc chiến tranh trước; họ đã phá hỏng những nhạc cụ hiếm và quý giá đã tồn tại trong gia đình tôi từ hai trăm năm, và họ xé vụn những cuốn sách từng thuộc sỏ hữu của Goethe.

Lucile không thể nhịn được cười; hắn bào chữa với cái giọng khó chịu và phật ý như một cậu bé bị kết tội về một việc làm xấu và phẫn nộ trả lời: “Nhưng thưa bà, có phải tôi là người làm điều đó đầu tiên đâu, đấy là bọn khác chứ...’

Cô cảm thấy một sự thích thú rất đàn bà, một sự dịu ngọt nhục cảm khi nhìn thấy cái vẻ con nít này trên một gương mặt mà, dù thế nào đi nữa, cũng là của một kẻ thù sắt đá, một chiến binh nghiệt ngã. “Không nên lẩn tránh chuyện tất cả chúng ta đều đang ở trong tay anh ta,” cô nghĩ. “Chúng ta không có khả năng tự vệ. Nếu như cuộc sống và tài sản của chúng ta còn nguyên vẹn, thì đó chỉ là vì anh ta muốn thế.” Cô gần như thấy sợ những tình cảm đang thức dậy trong mình, nó giống như thứ tình cảm mà có lẽ cô sẽ cảm thấy khi vuốt ve một con thú hoang dã, một cái gì đó dữ dội và thích thú, một sự pha trộn giữa cảm giác mủi lòng và nỗi khiếp sợ.

Cô muốn đóng kịch như vậy lâu hơn nữa; cô nhíu mày.

- Các ông phải thấy xấu hổ chứ! Những ngôi nhà bỏ trống này nằm dưới sự bảo vệ của quân đội Đức, của danh dự quân đội Đức!

Hắn vừa nghe cô nói vừa dùng một chiếc roi mảnh quất nhẹ lên chỗ mép gập ở đôi bốt của mình. Hắn quay về phía bọn lính và xẵng giọng nói với chúng một cách gay gắt. Lucile hiểu là hắn ra lệnh cho bọn này thiết lập lại trật tự trong nhà, sửa chữa những thứ bị hỏng, lau sàn nhà và đồ gỗ. Khi hắn nói tiếng Đức, nhất là bằng cái giọng chỉ huy này, âm giọng hắn rung rung và vang như tiếng kim loại nó đem lại cho Lucile một khoái cảm giống như một cái hôn hơi thô bạo kết thúc bằng miếng cắn. Cô khẽ đưa hai bàn tay lên đôi má nóng bỏng của mình và tự nói với chính mình: “Thôi đi! Đừng có nghĩ về anh ta nữa, mình đang đi vào một con đường đáng sợ...”

Cô bước mấy bước về phía cửa.

- Tôi không ở lại đây đâu. Tôi về đây. Ông đã có danh sách rồi; ông cứ bảo lính của ông tìm những đồ vật mà người ta yêu cầu ấy.

Hắn chạy vội đến chỗ cô.

- Tôi xin bà, đừng tức giận bỏ đi thế... Tất cả sẽ được sửa chữa lại trong chừng mực có thể, tôi hứa với bà như vậy. Này nhé! Chúng ta cứ để cho họ tìm; họ sẽ chất tất cả lên một chiếc xe cút kít và đem đặt dưới chân các bà Perrin ấy, theo lệnh của bà. Tôi sẽ đi cùng bà đến xin lỗi. Tôi không thể làm hơn được nữa. Trong lúc chờ đợi, chúng ta hãy ra vườn. Chúng ta sẽ đi dạo một lúc và tôi sẽ hái cho bà những bông hoa đẹp.

- Không! Tôi về đây!

- Không thể được! Bà đã hứa với các bà kia là đem trả cho họ tài sản của họ. Bà cần phải theo dõi việc thực hiện mệnh lệnh của bà chứ, - hắn vừa nói vừa khoác tay cô.

Họ đi ra khỏi nhà. Họ đến một lối đi ven đường có những cây tử đinh hương đang nở hoa. Vô số ong mật, ong gấu và ong vò vẽ bay lượn quanh họ, len vào những bông hoa, hút nhụy hoa rồi đến đậu trên hai cánh tay và tóc Lucile; cô không yên tâm; cô cười vẻ bồn chồn.

- Chúng ta đi khỏi đây thôi. Tôi đi từ tai họa này đến tai họa khác.

- Đi ra xa hơn nhé.

Ở cuối vườn, họ gặp lại những đứa trẻ trong làng. Một vài đứa chơi trong các bồn hoa, giữa những khóm cây bị giẫm nát, bị nhổ lên; những đứa khác trèo lên bẻ cành các cây lê.

- Lũ nhóc man rợ, - Lucile nói. - Sẽ không có trái cây đâu.

- Đúng vậy, nhưng hoa thì đẹp quá!

Hắn chìa tay về phía lũ trẻ, bọn chúng ném cho họ những bó hoa cánh mềm mại.

- Bà cầm lấy đi, thưa bà, cắm vào một cái cốc đặt trên bàn thì sẽ đẹp lắm.

- Không bao giờ tôi dám đi ngang qua vùng với một cành cây ăn quả đâu, - Lucile vừa cười vừa phản đối... - Đợi đấy, lũ ranh mãnh. Cảnh sát sẽ bắt chúng mày!

- Chẳng sợ đâu, - một cô bé đeo tạp dề đen nói.

Nó cắn một lát bánh và trèo lên một cái cây, quặp đôi chân nhỏ đầy bụi của mình vào đó.

- Không sợ đâu... bọn... người Đức sẽ không để cho cảnh sát vào đâu.

Thảm cỏ không được cắt xén đã hai mùa hè nay, giờ lấm tấm những cây khuy vàng. Viên sĩ quan ngồi xuống cỏ và ném xuống đất tấm áo choàng rộng của hắn có màu lục nhạt ngả xám, màu hạnh nhân. Lũ trẻ đã đi theo họ; cô bé đeo tạp dề đen hái hoa báo xuân; nó gộp những bông hoa lại thành một khói tròn to màu vàng tươi mát và sục cái mũi nhỏ của mình vào, nhưng cặp mắt đen của nó, vừa ranh ma vừa ngây thơ, không rời khỏi những người lớn. Nó nhìn Lucile với vẻ tò mò và với một thái độ phê phán nhất định nữa: cái nhìn của phụ nữ đối với phụ nữ. “Cô ấy có vẻ sợ,” nó nghĩ. “Chẳng biết tại sao cô ấy lại sợ nhỉ. Cái ông sĩ quan này không ác đâu. Mình biết rõ ông ta mà, ông ta cho mình tiền xu, và có lần ông ta lấy hộ mình quả bóng bị mắc vào cành cây tuyết tùng cao. Ông sĩ quan này đẹp quá! Ông ấy đẹp hơn cả bố và tất cả con trai trong vùng. Cô này có cái váy đẹp thật!”

Nó ranh mãnh tiến lại gần và chạm ngón tay nhỏ bé lem luốc của mình vào một mảnh diềm của chiếc váy mồng, giản dị, bằng vải mousseline màu ghi chỉ được trang điểm bằng một cái cổ áo nhỏ và những măng-sét bằng vải phin mỏng xếp nếp. Nó giật mảnh vải khá mạnh khiến Lucile quay phắt lại; cô bé nhảy lùi một bước về phía sau, nhưng Lucile nhìn nó bằng đôi mắt to hốt hoảng như thể cô không nhận ra nó. Cô bé thấy cô rất nhợt nhạt và miệng cô run rẩy. Rõ ràng, cô ấy sợ vì ở đây một mình với ông người Đức. Cứ như là ông ta sẽ làm hại cô ấy! Ông ta nói với cô ấy rất lịch sự. Nhưng, ơ kìa, ông ta nắm tay cô ấy chặt đến nỗi cô ấy không thể nghĩ đến việc chạy thoát được. Cô bé mơ hồ tự nhủ rằng tất cả bọn con trai, lớn hay bé, đều giống nhau! Chúng thích trêu ghẹo con gái và làm bọn con gái sợ. Nó nằm hẳn xuống bãi cỏ mọc cao đến nỗi nó mất hút vào trong đó; nó tự cảm thấy mình bé tí và vô hình, và cỏ cù vào cổ, vào chân, vào mi mắt nó, thật là thích!

Ông Đức và cô kia nói khe khẽ. Ông ta bây giờ cũng trắng nhợt như một tấm vải ga giường. Thỉnh thoảng, nó nghe thấy ông ta kìm lại cái giọng nói chói lên, như thể ông ta muốn gào thét hay khóc mà không dám. Những lời nói của ông ta chẳng có ý nghĩa gì đối với cô bé cả. Nó hiểu lờ mờ rằng ông ta nói về vợ của ông ta và chồng của cô kia. Nó nghe thấy ông ta nói đi nói lại nhiều lần: “Nếu như ít ra bà cũng hạnh phúc... Tôi biết bà sống như thế nào rồi... Tôi biết bà cô đơn, chồng bà bỏ mặc bà... Tôi đã hỏi mọi người trong vùng.” Hạnh phúc ư? Vậy ra cô ấy không hạnh phúc, người đàn bà có những chiếc váy đẹp và một ngôi nhà đẹp kia? Dù thế nào đi nữa, cô ấy cũng không muốn được thương hại, cô ấy muốn bỏ đi. Cô ấy ra lệnh cho ông ta để cho cô ấy đi và im đi. Thực vậy, cô ấy không sợ nữa rồi, đúng hơn là chính ông ta mới có vẻ rất rụt rè, mặc dù ông ta có đôi bốt to và vẻ mặt kiêu hãnh. Đúng lúc ấy, một con bọ rùa đậu lên bàn tay cô bé; nó quan sát con bọ một lúc lâu; nó muốn giết con bọ nhưng nó biết rằng giết một con vật của Đức Chúa sẽ mang lại tai họa. Nó đành thổi vào con bọ, đầu tiên thật nhẹ nhàng, để nâng những cái cánh mỏng trau chuốt và trong suốt lên, rồi lấy hết sức ra thổi, đến nỗi chắc con bọ phải có cảm giác như một kẻ đắm tàu trên một tấm bè giữa biển cả nổi sóng dữ dội, nhưng con bọ rùa đã bay đi. “Nó đậu trên tay cô đấy, cô ơi!” cô bé kêu lên. Một lần nữa, viên sĩ quan và người đàn bà đảo mắt và nhìn nó mà không nhận thấy. Tuy vậy viên sĩ quan nôn nóng phẩy tay như đuổi một con ruồi. “Mình sẽ không đi khỏi đây đâu,” cô bé tự nhủ vẻ thách thức. Trước hết, họ làm gì ở đây nào? Một ông lớn và một bà lớn: họ cứ việc ở lại trong phòng khách chứ! Một cách ác ý nó lắng tai nghe. Họ nói cái gì vậy? “Không bao giờ,” viên sĩ quan nói bằng một giọng trầm và đục, “không bao giờ tôi quên bà đâu!”

Một đám mây to phủ hết nửa bầu trời, những bông hoa, những sắc màu tươi tắn và rực rỡ của thảm cỏ, tất cả đều xỉn đi. Người đàn bà bứt những bông hoa nhỏ màu tím của cỏ ba lá và ngắt vụn ra.

- Không thể được, - cô nói, và giọng cô đầy nước mắt.

Cái gì không thể được nhỉ? Cô bé tự hỏi.

- Tôi cũng vậy, tôi đã nghĩ... tôi thú nhận với ông, tôi không nói... về tình yêu đâu... nhưng tôi những muốn có được một người bạn như ông... Tôi chưa từng bao giờ có bạn cả. Tôi chẳng có ai cả! Nhưng điều đó không thể được.

- Tại mọi người à? Viên sĩ quan nói với một vẻ kiêu kỳ khinh miệt.

Nhưng cô kiêu hãnh nhìn hắn.

- Mọi người ấy à? Nếu như đối diện với chính mình tôi tự cảm thấy mình vô tội... Nhưng không! Không thể có gì giữa chúng ta được đâu.

- Đã có nhiều thứ mà bà sẽ chẳng bao giờ xóa bỏ được: cái ngày mưa của chúng ta, đàn dương cầm, buổi sáng hôm nay, những cuộc dạo chơi trong rừng của chúng ta…

- A! Lẽ ra tôi không nên...

- Nhưng điều đó đã xảy ra rồi! Đã quá muộn... bà chẳng làm gì với chuyện đó được đâu! Tất cả những điều đó đã...

Cô bé úp mặt vào hai cánh tay gập lại và không còn nghe thấy gì nữa ngoài một tiếng rì rầm xa xăm như tiếng vo ve của loài ong. Đám mây to kia, ánh mặt trời thiêu đốt kia báo trước một cơn mưa. Nếu mưa đột ngột đổ xuống, người đàn bà và ông sĩ quan sẽ làm gì nhỉ? Chắc sẽ ngộ lắm nhỉ nếu thấy họ chạy dưới mưa rào, cô ấy với chiếc mũ rơm và ông ta với cái áo choàng màu lục đẹp đẽ? Nhưng họ có thể nấp trong vườn. Nếu họ muốn theo nó, nó sẽ chỉ cho họ một lối đi trồng cây duyên khuất mắt người ngoài. “Đến buổi trưa rồi đấy,” nó tự nhủ khi nghe hồi chuông cầu kinh Đức Bà. “Họ có về nhà ăn trưa không? Những người giàu này họ ăn cái gì nhỉ? Pho mát trắng như chúng mình? Bánh mì? Khoai tây? Kẹo? Hay là mình xin họ kẹo nhỉ?” nó đã đến gần họ và định kéo tay họ hỏi xin kẹo, - cái cô bé Rose này là một đứa bạo dạn, - thì nó thấy họ bật dậy và đứng thẳng, run rẩy. Phải, ông lớn và bà lớn này run lên, như khi ta đang trèo cây anh đào ở trường và miệng vẫn còn đầy quả anh đào, thì nghe thấy tiếng cô giáo ra lệnh: “Rose, con nhóc trộm cắp kia, xuống đầy ngay lập tức!” Nhưng người mà họ thấy không phải là cô giáo, mà là một người lính đang đứng ở tư thế nghiêm, nói rất nhanh bằng thứ tiếng khó hiểu của hắn; những lời nói làm trong miệng hắn phát ra tiếng động như tiếng thác đổ xuống lớp sỏi.

Viên sĩ quan đứng tách ra khỏi người đàn bà tái nhợt và mệt mỏi.

- Có chuyện gì đấy? Anh ta nói gì vậy? - cô hỏi khẽ.

Viên sĩ quan có vẻ cũng hốt hoảng như cô; hắn nghe mà không hiểu. Cuối cùng, gương mặt nhợt nhạt của hắn sáng lên bởi một nụ cười.

- Cậu ấy bảo rằng đã tìm được tất cả mọi thứ... nhưng hàm răng giả của ông già thì bị gãy vì bọn trẻ con lấy để nghịch chúng nó muốn nhét cái đó vào trong mõm con chó bouledogue nhồi rơm.

Cả hai người, - viên sĩ quan và người đàn bà, - dường như đang từ từ dứt ra khỏi một thứ lễ nghi nào đó và trở lại với thực tế. Họ hạ mắt xuống nhìn về phía cô bé Rose và lần này thì họ thấy nó. Viên sĩ quan kéo tai nó.

- Tụi bay đã làm cái gì vậy, lũ ranh mãnh?

Nhưng giọng ông ta lưỡng lự còn trong tiếng cười của người đàn bà nghe như có một thứ âm vang run rẩy giống tiếng nức nở bị chặn lại. Cô cười như những người đã bị một phen hoảng sợ và tuy cười, nhưng vẫn chưa thể quên được rằng họ đã thoát khỏi một hiểm họa chết người. Cô bé Rose đã rất buồn chán, nó định bỏ trốn nhưng không được. “Hàm răng giả à... ừ... tất nhiên rồi... bọn mình đã muốn xem liệu con chó bouledogue có vẻ sẽ cắn không khi có hàm răng trắng đẹp mới toanh ấy...” Nhưng nó sợ viên sĩ quan tức giận (nhìn gần, ông ta trông rất cao lớn và đáng sợ) và nó thấy tốt hơn là vừa nói vừa thút thít:

- Chúng cháu có làm gì đâu, không... chúng cháu chỉ không nhìn thấy hàm răng giả của ông thôi mà.

Thêm nữa, từ tứ phía, lũ trẻ đang chạy tới. Giọng nói vui tươi và chói tai của chúng lẫn lộn với nhau. Người đàn bà năn nỉ.

- Thôi! Thôi! Im đi nào! Không sao cả đâu! Tìm được phần còn lại là đã tốt rồi.

Một giờ sau, từ vườn nhà Perrin đi ra là một toán trẻ con đeo tạp dề lem luốc, hai tên lính Đức đẩy một xe cút kít chứa những chiếc chén sứ đặt trong một cái giỏ, một cái tràng kỷ chổng bốn chân lên trời trong đó một chân bị gãy, một cuốn album bọc vải lông, cái lồng của một con chim hoàng yên mà bọn Đức tưởng là cái giỏ đựng sa lát mà các chủ nhân đòi và nhiều đồ vật khác. Cuối cùng, đi cuối đoàn người là Lucile và viên sĩ quan. Họ đi qua thị trấn dưới những ánh mắt tò mò của đám phụ nữ, người ta nhận thấy là họ không nói chuyện với nhau, họ thậm chí không nhìn nhau và trông họ tái mét; viên sĩ quan có vẻ lạnh băng và khó hiểu. Đám phụ nữ thì thầm:

- Chắc là cô ấy đã nói cho hắn biết cô ấy nghĩ thế nào... rằng thật đáng xấu hổ khi để một ngôi nhà trong tình trạng như thế. Hắn đang tức điên lên. Có thế chứ! Bọn chúng không quen thấy người ta chống lại chúng! Cô ấy có lý đấy! Chúng ta có phải là chó đâu! Cô Angellier trẻ này can đảm thật, cô ấy không sợ, - đám phụ nữ nói.

Thậm chí một người trong đám này, bà già chăn một con dê cái (chính là bà già bé nhỏ từng nói với đám phụ nữ nhà Angellier khi họ đi lễ đọc Kinh chiều, hôm Chủ nhật ngày lễ Phục sinh về: “Cái bọn Đức này ấy à, rặt những thứ xấu xa.”), một phụ nữ rất nhỏ bé chất phác, tóc bạc, mắt xanh, đã thì thầm khi đi ngang qua gần Lucile:

- Nào, cô ơi! Hãy chứng tỏ cho bọn chúng; là chúng ta không sợ! Ông chồng tù binh của cô sẽ tự hào về cô đấy, - bà nói thêm, và bà bật khóc, không phải vì bà cũng có người thân là tù binh, bởi lẽ bà đã quá tuổi có chồng và con trai ra trận từ lâu rồi, mà vì các thiên kiến tồn tại dai dẳng hơn những đam mê và vì bà là một người yêu nước và đa cảm.