Vợ người du hành thời gian - Phần II - Chương 01 phần 1

Cuộc sống hôn nhân

Tháng Ba, 1994 (Clare 22
tuổi, Henry 30 tuổi)

CLARE: Và thế là chúng tôi đã
kết hôn. Ban đầu, chúng tôi sống trong căn hộ hai tầng, hai phòng ngủ ở
Ravenswood. Nó luôn tràn ngập ánh sáng, sàn gỗ màu bơ và nhà bếp chứa đầy chạn
tủ và đồ dùng cổ. Chúng tôi mua sắm, dành các buổi chiều Chủ Nhật ở Crate &
Barrel để đổi quà cưới, mua chiếc ghế sofa không thể nhét vừa cửa căn hộ và
phải trả lại. Căn hộ giống như phòng nghiên cứu, nơi chúng tôi đưa ra những thí
nghiệm, khám phá lẫn nhau. Chúng tôi phát hiện ra Henry ghét mỗi khi tôi lơ
đãng gõ thìa vào răng lúc đọc báo trong bữa sáng. Chúng tôi đồng ý với nhau
rằng tôi có thể nghe Joni Nichell và Henry có thể nghe The Shags, trong lúc
người kia không có nhà. Chúng tôi nhận ra Henry nên phụ trách việc bếp núc, còn
tôi phụ trách việc giặt giũ, và không ai trong chúng tôi chịu hút bụi nên chúng
tôi sẽ thuê người dọn dẹp.

Chúng tôi rơi vào một thói
quen trong các công việc hàng ngày. Henry làm từ thứ Ba đến thứ Bảy ở Newberry.
Anh ấy thức dậy lúc 7 giờ 30 và pha cà phê, mặc quần áo thể thao vào và chạy.
Khi trở về, anh ấy tắm gội và mặc đồ, còn tôi đờ đẫn bước ra khỏi giường và nói
chuyện với anh ấy trong lúc anh ấy chuẩn bị bữa sáng. Sau khi ăn, anh ấy đánh
răng và chạy vội ra ngoài để kịp bắt tàu điện, còn tôi quay trở lại giường và
ngủ thêm khoảng một giờ nữa.

Khi tôi thức dậy lần nữa, căn
phòng im lặng như tờ. Tôi đi tắm, chải tóc và mặc quần áo làm việc vào. Tôi tự
rót cho mình một cốc cà phê nữa, rồi đi vào căn phòng phía sau phòng ngủ, nơi
tôi đặt xưởng vẽ, và đóng cửa lại.

Tôi đang gặp phải khó khăn
trong thời gian đầu của cuộc sống hôn nhân bởi xưởng vẽ bé tẹo teo. Khoảng
không tôi có thể gọi là của tôi, mà không tràn ngập bóng dáng Henry, rất nhỏ,
khiến những ý tưởng của tôi cũng trở nên nhỏ theo. Tôi như một con tằm trong
cái kén bằng giấy; xung quanh tôi là những bản phác thảo cho bức tượng, những
bức vẽ nhỏ đến nỗi trông như những con bướm đêm đang vo ve trên cửa sổ, đập
cánh cố thoát khỏi không gian nhỏ hẹp này. Tôi nặn mô hình, các bức tượng nhỏ
thử nghiệm cho bức tượng lớn. Mỗi ngày các ý tưởng lại trở nên khiên cưỡng hơn,
như thể chúng biết tôi sẽ bỏ đói và ngăn chặn sự phát triển của chúng. Ban đêm
tôi mơ về những màu sắc, về hình ảnh đôi tay mình nhúng sâu trong hũ giấy sợi.
Tôi mơ về những khu vườn thu nhỏ mà tôi không thể đặt chân vào, vì tôi là một
người khổng lồ.

Điều thú vị trong sáng tác
nghệ thuật – hay trong sáng tác bất kể thứ gì – là khoảnh khắc khi một ý tưởng
mơ hồ trở thành hiện thực, một món đồ, một thể vật chất trong thế giới của vật
chất. Nữ thần Circe, Nimbue, Artemis, Athena, các nữ pháp sư chắc hẳn hiểu cảm
giác đó, vì họ đã biến những người đàn ông tầm thường thành những sinh vật
tuyệt mỹ nhất, ăn cắp bí mật của các ma pháp sư, các đội quân bí mật: nhìn kìa,
nó đây rồi, thứ đồ mới. Gọi nó là một con heo, một cuộc chiến tranh, một cây
nguyệt quế. Gọi nó là nghệ thuật. Ma thuật tôi có thể tạo ra bây giờ chỉ là một
ma thuật nhỏ, một ma thuật trì hoãn. Mỗi ngày tôi đều làm việc, nhưng chẳng có
gì được tạo ra. Tôi cảm thấy mình như Penelope, cứ dệt rồi gỡ, gỡ rồi lại dệt.

Còn Henry, Odysseus của tôi?
Henry là một nghệ sĩ trường phái khác, nghệ sĩ của sự tan biến. Cuộc sống của
chúng tôi trong căn hộ quá chật hẹp này bị ngắt quãng bởi những lần biến mất
ngắn ngủi của Henry. Đôi khi anh ấy im lặng biến mất; tôi có thể đang đi từ nhà
bếp vào hành lang và thấy một đống quần áo trên sàn nhà. Tôi có thể bước xuống
giường buổi sáng và thấy vòi nước trong nhà tắm đang xả mà không có ai. Đôi lúc
nó thật đáng sợ. Tôi đang làm việc trong xưởng một buổi trưa nọ và nghe có
tiếng rên rỉ ngoài cửa; khi mở cửa tôi thấy Henry đang khụy cả tay chân xuống
sàn, trần truồng, trong hành lang, máu đang chảy ròng ròng trên đầu. Anh ấy mở
mắt ra, nhìn thấy tôi, rồi tan biến. Đôi khi tôi thức dậy vào ban đêm và Henry
đã biến mất. Sáng ra anh ấy sẽ kể cho tôi nghe về nơi anh ấy đã đến, theo cách
mà các đấng ông chồng khác kể cho vợ nghe về những giấc mơ họ đã mơ thấy: “Anh
đã ở trong bóng tối thư viện Selzer, năm 1989.” Hay: “Anh bị cảnh sát Đức đuổi
khắp sân sau nhà ai đó và anh đã phải trèo lên cây để trốn.” Hay: “Anh đã đứng
trong mưa gần căn hộ của bố mẹ anh và nghe mẹ anh hát.” Tôi đợi Henry nói với
tôi rằng anh ấy đã ở cùng tôi khi còn là một đứa trẻ, nhưng đến giờ nó vẫn chưa
xảy ra. Khi còn nhỏ, tôi đã rất mong ngóng đến ngày được gặp Henry. Mỗi lần gặp
là một sự kiện đáng nhớ. Còn giờ, mỗi lần biến mất là một lần xa cách, là một
cuộc hành trình tôi sẽ được nghe kể khi kẻ phiêu du của tôi trở về, máu chảy
ròng ròng hoặc hớn hở thổi sáo, miệng mỉm cười hoặc run rẩy toàn thân. Giờ, tôi
sợ mỗi khi anh ấy biến mất.

HENRY: Khi sống cùng một
người phụ nữ, mỗi ngày bạn sẽ học được một điều gì đó. Cho đến giờ tôi đã học
được rằng tóc dài sẽ làm tắc ống dẫn nước của nhà tắm nhanh hơn cả thời gian
bạn dành để nói “Nước vải”; rằng không nên cắt bất cứ thứ gì ra khỏi tờ báo
trước khi vợ bạn đọc, cho dù đó là báo của tuần trước; rằng tôi là người duy
nhất trong gia đình của hai người có thể ăn cùng một món ba bữa tối liên tiếp
mà không ngán ngẩm; và rằng tai nghe được sáng chế để giúp các cặp vợ chồng
chịu đựng thẩm mỹ âm nhạc của nhau. (Tại sao Clare có thể nghe Cheap Trick? Tại
sao cô ấy thích The Eagles? Tôi sẽ chẳng bao giờ biết được, vì cô ấy cứ sửng cồ
lên mỗi khi tôi hỏi. Tại sao người phụ nữ tôi yêu có thể không muốn nghe Musique du Garrot et
de la Farraille?) 
Bài học khó khăn nhất là sự biệt lập của Clare. Đôi
lúc tôi về nhà và Clare có vẻ cáu tiết; tôi đã làm gián đoạn dòng tư duy của cô
ấy, phá vỡ sự yên tĩnh mơ màng trong ngày của cô ấy. Đôi lúc tôi thấy biểu cảm
trên khuôn mặt của Clare như một cánh cửa đóng kín. Hồ như cô ấy đã nhốt mình
trong căn phòng suy tư và ngồi đó đan áo. Tôi khám phá ra rằng Clare thích được
ở một mình. Nhưng khi tôi trở về sau mỗi lần du hành thời gian, cô ấy luôn nhẹ
nhõm khi thấy tôi.

Khi người phụ nữ bạn sống cùng là một nghệ sĩ, mỗi ngày sẽ là một bất ngờ.
Clare đã biến phòng ngủ thứ hai thành một ngăn tủ kì quan, đầy những bức tượng
nhỏ và các bản phác thảo được gắn đầy trên từng phân của bức tường. Những cuộn
dây và các nắm giấy được nhét trên giá và ngăn kéo. Các bức tượng khiến tôi nhớ
đến những con diều, hay các mô hình máy bay. Tôi nói điều này với Clare một
buổi tối nọ, đứng ở ngưỡng cửa phòng vẽ của cô ấy trong bộ com-lê và cà vạt của
mình, vừa từ nơi làm việc về, chuẩn bị nấu bữa tối, và cô ấy ném một trong số
chúng vào tôi; chúng bay xa đến kinh ngạc, và không lâu sau chúng tôi đã đứng
hai đầu hành lang ném những bức tượng tí hon vào nhau, kiểm tra khí động lực
học của chúng. Ngày hôm sau tôi về nhà và thấy Clare đã tạo ra một đàn chim
được làm từ giấy và dây nhợ, chúng được treo trên trần nhà rũ xuống phòng
khách. Một tuần sau cửa sổ phòng ngủ của chúng tôi đã tràn ngập những khối hình
màu xanh pha trộn trong suốt mà mặt trời chiếu vào, dọc qua căn phòng tới những
bức tường, tạo ra một bầu trời cho những con chim mà Clare đã vẽ ở đó. Chúng
đẹp tuyệt vời.

Buổi tối hôm sau, tôi đang đứng trên ngưỡng cửa phòng vẽ của Clare, ngắm cô
ấy hoàn tất bản vẽ một bụi cây từ những đường đen u ám quanh một con chim nhỏ
màu đỏ. Bất chợt tôi nhìn thấy Clare, trong căn phòng nhỏ của cô ấy, ngổn ngang
những đồ vật, và tôi nhận ra cô ấy đang cố nói điều gì đó, và tôi biết mình
phải làm gì.

Thứ Tư, 13/4/1994 (Clare
22 tuổi, Henry 30 tuổi)

CLARE: Tôi nghe tiếng chìa
khóa của Henry đút vào cửa trước và tôi đi ra khỏi xưởng vẽ đúng lúc anh ấy
bước vào. Trước sự ngạc nhiên của tôi, anh ấy đang ôm một dàn ti vi. Chúng tôi
không có ti vi vì Henry không thể xem nó và tôi không muốn phải xem một mình.
Đó là một chiếc ti vi trắng đen cũ, nhỏ và bụi bặm với một chiếc ăng-ten hỏng.

“Chào em yêu, anh về rồi.”
Henry nói trong lúc đặt ti vi xuống bàn ăn.

“Bẩn quá”, tôi nói. “Anh đã
nhặt nó trong hẻm hả?”

Henry có vẻ tự ái. “Anh đã mua nó ở Unique.
Giá 10 đô la.”

“Để làm gì vậy?”

“Tối nay có một chương trình mà anh nghĩ chúng ta nên xem.”

“Nhưng…” Tôi không thể hình dung chương trình gì khiến Henry mạo hiểm du
hành thời gian.

“Không sao đâu. Anh sẽ không ngồi xem. Anh muốn em xem.”

“Ồ. Chương trình gì vậy?” Tôi chẳng biết về những gì trên ti vi.”

“Đó là một bí mật. 8 giờ sẽ có.”

Chiếc ti vi yên vị trên sàn phòng ăn trong lúc chúng tôi dùng bữa. Henry từ
chối trả lời bất kì câu hỏi nào về nó, và không ngừng chòng ghẹo tôi bằng cách
hỏi tôi sẽ làm gì nếu có một xưởng vẽ lớn.

“Chuyện đó thì có gì quan trọng? Em có tủ quần áo của mình. Có thể em sẽ
học nghệ thuật xếp giấy Nhật Bản.”

“Thôi nào, anh nghiêm túc đấy.”

“Em không biết.” Tôi cuốn mì sợi vào dĩa. “Em sẽ làm mô hình to gấp một
trăm lần hiện tại. Em sẽ vẽ trên giấy cao ba mét. Sẽ đi giầy trượt để di chuyển
trong xưởng. Em sẽ đặt những hũ làm giấy khổng lồ, và một hệ thống hong khô của
Nhật, máy dập Reina mười pound…” Tôi say đắm trong hình ảnh của xưởng vẽ tưởng
tượng này, nhưng rồi tôi nhớ tới xưởng vẽ thật của tôi, và tôi nhún vai. “Ờ thì, có lẽ một ngày nào đó.” Chúng tôi đủ sống bằng
lương của Henry và lãi từ quỹ tín nhiệm của tôi, nhưng để có thể chi trả cho
một xưởng vẽ thực sự tôi sẽ phải đi tìm việc, và rồi tôi sẽ không có chút thời
gian nào để có mặt trong xưởng. Đó là một lựa chọn không hoàn hảo. Tất cả những
người bạn nghệ sĩ của tôi đều đang đói tiền, hoặc đói thời gian, hoặc cả hai.
Charisse đang phải thiết kế phần mềm vào ban ngày và hoạt động nghệ thuật vào
buổi tối. Cậu ấy và Gomez sẽ kết hôn vào tháng sau. “Chúng ta nên mua gì làm
quà cưới cho Gomez và Charisse nhỉ?”

“Hả? Ồ, anh không biết. Chúng
ta không thể tặng họ tất cả máy cà phê mà chúng ta đã được tặng sao?”

“Chúng ta đã đổi chúng lấy lò
vi sóng và máy làm bánh mì rồi mà.”

“Ồ, phải. Mà đã gần tám giờ rồi.
Lấy cà phê của em đi, hãy ra phòng khách nào.” Henry đẩy ghế ra sau và nhấc
bổng chiếc ti vi lên, còn tôi mang theo cả hai tách cà phê của chúng tôi vào
phòng khách. Anh ấy đặt ti vi lên bàn uống nước và sau khi loay hoay một hồi
với đống dây nhợ và những cái nút, chúng tôi ngồi xuống sofa và xem quảng cáo
giường nước trên kênh 9. Trông như đang có tuyết rơi trong phòng trưng bày
giường nước. “Khỉ thật”, Henry nói, hé mắt nhìn màn hình. “Nó đã chạy tốt hơn
khi ở Unique.” Logo của xổ số Illinois
nhá trên màn hình. Henry thò tay vào túi quần và đưa cho tôi một mẩu giấy
trắng, nhỏ. “Em cầm đi.” Đó là một tấm vé xổ số.

“Chúa ơi. Anh đã không…”

“Suỵt. Hãy xem đi.” Sau một
tràng kèn trống ầm ĩ, chương trình xổ số chính thức bắt đầu, những người đàn
ông nghiêm nghị trong những bộ com-lê, công bố các con số được chọn ngẫu nhiên
từ những quả bóng bàn nhảy ra từng quả một vào vị trí trên màn hình. 43, 2, 26,
51, 10, 11. Dĩ nhiên chúng trùng với các con số trên tấm vé trong tay tôi. MC
chúc mừng chúng tôi. Chúng tôi vừa trúng tám triệu đô la.

Henry tắt ti vi. Anh ấy mỉm
cười. “Ngoạn mục chứ?”

“Em không biết phải nói gì
nữa.” Henry nhận ra tôi không nhảy lên vì vui mừng.

“Nói, ‘Cảm ơn anh yêu, vì đã
kiếm vài đồng cắc chúng ta cần có để mua nhà.’ Vậy là đủ rồi.”

“Nhưng… Henry… nó không
thật.”

“Dĩ nhiên là thật. Đó là tấm vé thật. Nếu em
mang nó đến Katz’s Deli, Minnie sẽ ôm hôn em thắm thiết và bang Illinios sẽ
viết cho em tấm séc thật.”

“Nhưng anh đã biết.”

“Dĩ nhiên rồi. Chỉ cần nhìn vào tờ Tribune của ngày mai là
xong.”

“Chúng ta không thể… như vậy là gian lận.”

Henry vỗ vào trán mình, vờ vĩnh. “Anh mới ngớ ngẩn làm sao. Anh hoàn toàn
quên mất anh phải mua vé số mà không hề hay biết số trúng thưởng là gì. Chúng
ta có thể sửa lại mà.” Anh ấy biến mất vào hành lang, vào trong bếp và quay trở
ra với một hộp diêm trên tay. Anh ấy quẹt diêm và đưa tấm vé số lại gần ngọn
lửa.

“Không!”

Henry thổi diêm. “Chẳng có gì quan trọng, Clare. Chúng ta có thể trúng số
mỗi tuần trong suốt một năm tới nếu muốn. Nên nếu em thấy khó khăn để chấp
nhận, cũng đừng bận tâm.” Tấm vé đã hơi bén lửa ở một bên mép. Henry ngồi xuống
bên cạnh tôi trên ghế. “Nghe này, chúng ta sẽ giữ tấm vé này lại, và nếu em cảm
thấy muốn nhận thưởng, chúng ta sẽ đi nhận, hoặc nếu muốn, em cũng có thể đưa
nó cho người vô gia cư đầu tiên em gặp…”

“Thật bất công.”

“Điều gì bất công?”

“Anh không thể ném cho em trách nhiệm hệ trọng này được.”

“Anh thì thế nào cũng được. Nên nếu em nghĩ chúng ta gian lận bang Illinois
những đồng tiền mà họ lừa gạt từ những gã khờ đã phải làm việc vất vả, thì quên
nó đi. Anh chắc rằng chúng ta sẽ tìm được cách khác để trang trải cho em một
xưởng làm việc lớn hơn.”

Ôi. Một xưởng làm việc lớn hơn. Tôi chợt nhận ra rằng Henry có thể trúng số
bất kì lúc nào nếu anh ấy muốn, nhưng anh ấy chưa bao giờ làm vậy, vì nó trái
với tự nhiên; rằng anh ấy đã quyết định gạt bỏ sự cố gắng mãnh liệt để sống như
một người thường, để tôi có thể có một xưởng vẽ đủ lớn để trượt patin trong đó;
rằng tôi đang tỏ ra vô ơn.

“Clare?”

“Cảm ơn anh”, tôi nói lấc cấc.

Henry nhướn mày. “Có nghĩa là chúng ta sẽ đi nhận thưởng?”

“Em không biết. Nó có nghĩa là, ‘Cảm ơn anh’”.

“Không có gì.” Chúng tôi im lặng ngượng ngùng. “Anh tự hỏi không biết có gì
trên ti vi nhỉ?”

“Có tuyết.”

Henry cười, đứng dậy và kéo tôi ra khỏi ghế. “Thôi nào, hãy đi tiêu gia tài
chúng ta vừa nhận được.”

“Đi đâu cơ?”

“Anh chưa biết.” Henry mở tủ đồ ở hành lang, đưa áo khoác cho tôi. “Hãy mua
cho Gomez và Charisse một chiếc xe làm quà cưới.”

“Em nghĩ họ đã tặng chúng ta li uống rượu.” Chúng tôi nhảy tung tăng xuống
cầu thang. Bên ngoài đang là một buổi tối mùa xuân tuyệt đẹp. Chúng tôi đứng
trên vỉa hè trước tòa nhà căn hộ của mình, Henry nắm tay tôi và tôi nhìn anh
ấy; tôi giơ đôi bàn tay đang nắm nhau lên, Henry xoay tôi vòng quanh và không
lâu sau chúng tôi khiêu vũ xuống đại lộ Belle Plaine, không có tiếng nhạc mà
chỉ có âm thanh từ những chiếc xe đang rít qua mặt chúng tôi cùng với tiếng
cười của tôi và Henry, mùi của những bông hoa anh đào đang rụng xuống như tuyết
trên vỉa hè trong lúc chúng tôi nhảy dưới bóng những tán cây.

Thứ Tư, 18/5/1994 (Clare
22 tuổi, Henry 30 tuổi)

CLARE: Chúng tôi đang chọn
mua nhà. Đây là một công việc thật thú vị. Những người sẽ chẳng bao giờ mời bạn
vào tổ ấm của họ trong bất kì hoàn cảnh nào giờ mở rộng cửa, cho phép bạn ngó
vào tủ quần áo, nhận xét về giấy dán tường của họ, và hỏi những câu tọc mạch về
máng nước nhà họ.

Henry và tôi có cách chọn nhà
rất khác nhau. Tôi bước chậm rãi qua từng ngóc ngách, quan sát sàn nhà, đồ
dùng, hỏi về hệ thống sưởi, kiểm tra mức độ hư hại của đường nước dưới tầng
hầm. Còn Henry chỉ đi thẳng tới sau nhà, ngó qua cửa sổ phía sau, và lắc đầu
với tôi. Nhân viên nhà đất của chúng tôi, Carol, nghĩ anh ấy bị khùng. Tôi nói
với cô ấy rằng Henry là người say mê làm vườn. Sau một ngày dài như vậy, chúng
tôi trở về nhà từ văn phòng của Carol và tôi quyết định hỏi về sự điên khùng
này của anh ấy.

“Anh đang làm cái quỷ gì
vậy?” Tôi hỏi, nhã nhặn.

Henry bẽn lẽn. “Anh không
chắc em có muốn biết điều này không, nhưng anh đã tới ngôi nhà tương lai của
chúng ta. Anh không biết khi nào, nhưng anh đã ở - sẽ ở - đó vào buổi chiều
muộn một ngày mùa thu đẹp trời. Anh đã đứng ở cửa sổ phía sau nhà, bên cạnh
chiếc bàn cẩm thạch nhỏ mà em nhận được từ bà, anh đã nhìn qua khu vườn vào một
ô cửa sổ bằng gạch mà có vẻ là xưởng vẽ của em. Em đang kéo những phiến giấy
trong đó. Chúng có màu xanh. Em đã dùng một chiếc khăn để buộc tóc ra phía sau,
áo len và chiếc tạp dề hằng ngày của em. Có một cây nho trong vườn. Anh đã ở đó
chừng hai phút. Nên anh đang cố hình dung lại khung cảnh đó, khi anh thấy lại
nó, đó sẽ là nhà của chúng ta.”

“Chúa ạ. Tại sao anh không
nói cho em biết sớm hơn? Giờ thì em cảm thấy mình đã thật ngớ ngẩn.”

“Ồ, không. Đừng. Anh chỉ nghĩ
em sẽ thấy thích thú khi mua nhà theo cách thông thường. Ý anh là, em có vẽ cẩn
thận, và em đọc đủ loại sách hướng dẫn, anh nghĩ em muốn mua sắm, chứ
không bị thuận theo điều không thể tránh khỏi.”

“Phải có ai đó hỏi về mối
mọt, khô mục, và thối rữa…”

“Đúng vậy. Thế nên hãy cứ
tiếp tục theo cách chúng ta đang làm, chắc chắn rồi chúng ta sẽ có chung đích
đến từ hai hướng khác nhau.”

Đó là điều cuối cùng xảy ra,
mặc dù có một số thời điểm khá căng thẳng trước đó. Tôi bị mê hoặc bởi một căn
nhà cũ mà sẽ tốn khá nhiều tiền tu sửa ở công viên East Roger, khu vực rùng rợn
ở vành đai phía bắc thành phố. Đó là một căn biệt thự Victoria, một con quỷ đủ lớn cho gia đình 12
người và người giúp việc. Tôi biết trước cả khi hỏi, rằng đây không phải nhà
của chúng tôi; Henry sợ nó trước cả khi chúng tôi bước qua cửa chính. Sân sau
là bãi đỗ xe của một hiệu thuốc lớn. Bên trong biệt thự có kết cấu của một ngôi
nhà thực sự hoàn hảo: trần cao, những chiếc lò sưởi có bề mặt cẩm thạch, sàn gỗ
hoa mỹ… “Đi mà”, tôi vòi vĩnh. “Nó thật không thể tin nổi.”

“Phải, không thể tin nổi
chính xác là từ dành cho nó. Chúng ta sẽ bị cưỡng hiếp và bị cướp sạch chỉ
trong một tuần. Chưa kể nó cần phải được tu sửa hoàn toàn, đường dây điện,
đường nước, hệ thống sưởi mới, và nhiều khả năng cả mái nhà mới nữa… Không phải
căn nhà này.” Anh ấy quả quyết, giọng của một người đã nhìn thấy tương lai và
không định đùa giỡn với nó. Tôi hờn dỗi suốt mấy ngày sau đó. Henry dẫn tôi đi
ăn sushi.

“Nói anh nghe nào.”

“Em đâu có im lặng với anh.”

“Anh biết. Nhưng em đang
giận. Và anh không muốn là nguyên nhân của sự hờn dỗi.”

Cô bồi bàn xuất hiện, và
chúng tôi vội vã xem thực đơn. Tôi không muốn cãi nhau ở Katsu, nhà hàng sushi
ưa thích của tôi, nơi chúng tôi rất thường đến ăn. Tôi nhận ra Henry đã tính
đến việc này, bên cạnh tình yêu sushi, để làm cho tôi bớt giận. Chúng tôi gọi goma-ae,
hijuki, futomaki, kappamaki và một danh sách ấn tượng những món gỏi trên các
nắm cơm hình chữ nhật. Kiko, cô bồi bàn, biến mất với thực đơn của chúng tôi.

“Em không giận anh.” Điều này
chỉ đúng một phần.

Henry nhướn mày. “Tốt. Vậy
thì rốt cuộc có chuyện gì không ổn?”

“Anh có thực sự chắc nơi anh
đã đến là nhà của chúng ta? Lỡ như anh đã sai và chúng ta đã từ chối nhiều căn
nhà tuyệt đẹp chỉ vì chúng không có khung cảnh phía sau vườn như anh đã thấy
thì sao?”

“Có rất nhiều đồ đạc của
chúng ta trong đó, nên nó không thể không phải là nhà của chúng ta. Anh đồng ý
với em rằng đó có thể không phải là ngôi nhà đầu tiên của chúng ta.
Anh đã đứng không đủ gần để biết em đang bao nhiêu tuổi. Anh nghĩ em khá trẻ,
có thể chỉ vì em sẽ trẻ lâu. Nhưng anh thề rằng nó rất đẹp, và chẳng phải tuyệt
lắm sao nếu có một xưởng vẽ sau nhà như thế?”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3