Vợ người du hành thời gian - Phần II - Chương 01 phần 2

Tôi thở dài. “Phải. Rất tuyệt. Chúa ạ. Em ước gì anh có thể quay phim một trong những lần du ngoạn của anh. Em rất muốn được nhìn thấy nơi này. Anh không nhìn thấy địa chỉ sao?”

“Anh xin lỗi. Nó diễn ra quá nhanh.”

Đôi lúc tôi sẵn sàng đánh đổi tất cả để có thể mở đầu Henry ra và nhìn vào các kí ức của anh ấy như một bộ phim. Tôi nhớ lần đầu tiên tôi sử dụng máy tính; lúc đó tôi 14 tuổi và Mark đang cố dạy tôi cách vẽ trên máy Mac của anh ấy. Sau khoảng 10 phút tôi đã muốn thọc tay qua màn hình và túm lấy thứ bên trong đó, bất kể nó là gì. Tôi thích làm mọi việc một cách trực tiếp, chạm vào bề mặt, nhìn thấy màu sắc. Đi mua nhà cùng Henry khiến tôi phát điên lên được. Nó giống như chạy một chiếc xe đồ chơi điều khiển từ xa. Tôi luôn đâm chúng vào tường. Có chủ ý.

“Henry. Anh có phiền nếu em đi lựa nhà một mình một thời gian không?”

“Không, anh nghĩ là không.” Anh ấy có vẻ tổn thương đôi chút. “Nếu em thực sự muốn vậy.”

“Thì đằng nào chúng ta cũng sẽ chọn nơi anh đã đến mà, phải không? Ý em là việc này sẽ chẳng làm thay đổi điều gì.”

“Đúng vậy. Đừng bận tâm đến anh. Nhưng gắng đừng đi đến ổ chuột nào nữa nhé?”

Cuối cùng tôi cũng tìm được nó, một tháng và khoảng 20 căn nhà sau đó. Nó nằm trên đường Ainslie, quảng trường Lincoln, một căn bungalow gạch đỏ xây năm 1926. Carol mở hộp và vật lộn với ổ khóa, ngay khi cánh cửa mở ra tôi có một cảm giác tràn ngập điều gì đó cực kì hòa hợp… tôi đi thẳng đến cửa sổ phía sau, ngó ra vườn, và xưởng vẽ tương lai của tôi đang ở đó, cả giàn nho nữa. Khi tôi quay người lại, Carol đang nhìn tôi tò mò và tôi nói, “Chúng tôi sẽ mua nó.”

Cô ấy ngạc nhiên không ít. “Chị không muốn xem phần còn lại của căn nhà đã sao? Còn chồng chị thì sao?”

“Ồ, anh ấy đã nhìn thấy nó rồi. Nhưng, phải, dĩ nhiên rồi, hãy xem qua một vòng.”

Thứ Bảy, 9/7/1994 (Henry 31 tuổi, Clare 23 tuổi)

HENRY: Hôm nay là ngày chuyển nhà. Cả ngày trời nóng nực; những chiếc áo sơ mi của thợ chuyển đồ dính chặt vào người trong lúc họ bước lên cầu thang căn hộ của chúng tôi sáng nay, miệng mỉm cười vì họ nghĩ chuyển một căn hộ hai phòng ngủ chỉ là chuyện nhỏ, họ sẽ làm xong trước giờ ăn trưa. Nụ cười vụt tắt khi họ đứng trước những món nội thất Victoria nặng nề của Clare và 78 thùng sách của tôi trong phòng khách. Giờ trời đã tối, Clare và tôi đang lượn lờ quanh căn nhà, chạm vào những bức tường, vuốt tay trên những ô cửa sổ làm bằng gỗ anh đào. Hai đôi chân trần của chúng tôi giẫm trên sàn gỗ. Chúng tôi xả nước vào bồn tắm cong cong, bật rồi lại tắt bếp lò Universal. Những khung cửa sổ đang trần trụi, chúng tôi không bật đèn và ánh điện từ ngoài đường tràn vào lò sưởi trống qua lớp kính bụi bặm. Clare đi ra từ phòng này đến phòng khác, âu yếm vuốt ve căn nhà của cô ấy, của chúng tôi. Tôi đi theo sau, ngắm nhìn cô ấy hết mở cửa tủ, lại đến cửa sổ, cửa chạn. Cô ấy nhón chân đứng trong phòng ăn, chạm vào chùm đèn chạm trổ bằng những đầu ngón tay. Rồi cô ấy cởi áo ra. Tôi chạy dọc đầu lưỡi qua ngực cô ấy. Căn nhà bao bọc chúng tôi, ngắm nhìn và suy ngẫm trong lúc chúng tôi quan hệ lần đầu tiên trong nó, lần đầu tiên của nhiều lần về sau, và khi xong, trong lúc chúng tôi đang nằm trên nền nhà, bao quanh bởi những thùng đồ, tôi cảm thấy chúng tôi đã tìm được mái ấm của mình.

Chủ Nhật, 28/8/1994 (Clare 23 tuổi, Henry 31 tuổi)

CLARE: Đang là buổi trưa Chủ Nhật nóng nực, ẩm ướt và nhớp nháp, Henry, Gomez và tôi nhởn nhơ ở Evanston. Chúng tôi đã dành cả buổi tối trên biển Lighthouse, chơi bên hồ Michigan và tự nướng thân mình. Gomez muốn được chôn dưới cát nên tôi và Henry đã cho anh ấy thỏa nguyện. Chúng tôi đã ăn bữa trưa ngoài trời, và đã ngủ. Giờ chúng tôi đang đi trên vỉa hè đổ bóng râm của đường Church, mút kem và chệnh choạng dưới cái nóng.

“Clare, tóc em đầy cát”, Henry nói. Tôi dừng lại, nghiêng đầu và lấy tay vỗ tóc như đang vỗ thảm trải sàn. Cả một bãi biển rơi ra từ tóc.

“Hai tai anh đầy cát. Và cả ở những chỗ không nên gọi tên ra nữa”, Gomez nói.

“Em sẵn sàng vỗ vào đầu anh, những chỗ khác thì anh phải tự làm lấy”, tôi nói. Một cơn gió nhẹ thổi qua và chúng tôi đưa người theo nó. Tôi cuốn tóc lên đỉnh đầu và ngay lập tức cảm thấy thoải mái hơn.

“Chúng ta nên làm gì tiếp theo?” Gomez hỏi. Henry và tôi trao đổi anh mắt.

Con hẻm của học giả”, chúng tôi đồng thanh nói.

Gomez rên rỉ, “Ôi, Chúa ạ. Không phải một cửa hàng sách chứ. Lãnh Chúa, Phu Nhân, xin hãy thương cho bầy tôi hèn mọn…”

Con hẻm của học giả thẳng tiến”, Henry nói vô tình.

“Hứa với tớ rằng các cậu sẽ không ở đó nhiều hơn, xem nào, chừng, ba tiếng?”

“Em nghĩ họ đóng cửa lúc năm giờ”, tôi bảo anh ấy, “Và giờ đã là 2 giờ 30 phút.”

“Cậu có thể đi uống bia”, Henry nói.

“Tớ tưởng Evanston cấm nấu và bán rượu?”

“Không, tớ nghĩ họ đã sửa luật. Nếu cậu có thể chứng minh cậu không phải thành viên của YMCA, thì cậu có thể uống.”

“Tớ sẽ đi với cậu. Mọi người vì một người, một người vì mọi người.” Chúng tôi rẽ qua Sherman, đi qua nơi từng là Marshall Field, giờ là cửa hàng đại lí giày, đi qua nơi từng là nhà hát Varity và giờ là Gap. Chúng tôi rẽ vào con hẻm chạy giữa cửa hàng hoa và hiệu sửa giày; và Con hẻm của học giả kia rồi. Tôi đẩy cửa ra và chúng tôi lũ lượt kéo vào cửa hàng mát mẻ tối mập mờ như thể chúng tôi đang ngã nhào vào quá khứ.

Roger ngồi sau chiếc bàn bừa bãi nhỏ xíu của mình và nói chuyện với một quý ông bệ vệ tóc bạc về điều gì đó liên quan đến nhạc cổ điển. Ông ấy mỉm cười khi nhìn thấy chúng tôi. “Clare, ta có thứ cháu sẽ thích đây”, ông ấy nói. Henry bay thẳng đến cuối cửa hàng nơi để những cuốn sách hiếm. Gomez lởn vởn vòng quanh và nhìn vào những đồ vật nhỏ kì quái được nhét vào các khu vực khác nhau: một cái yên ngựa Miền Tây, một cái mũ thợ săn thời Trung cổ. Anh ấy nhặt một thỏi kẹo cao su từ chiếc tô khổng lồ ở khu vực sách trẻ em, không nhận ra rằng những thỏi kẹo cao su này đã ở đó hàng năm trời. Cuốn sách Roger lấy cho tôi là một cuốn danh mục của Hà Lan làm từ những mảnh giấy được trang trí hấp dẫn với các mẫu giấy thực gấp bên trong. Ngay lập tức tôi có thể thấy đây là một phát hiện quý báu nên tôi trải nó ra bàn. Và tôi bắt đầu hăm hở nghiên cứu nó một cách tỉ mỉ, hít sâu mùi bụi bặm của giấy, keo, thảm cũ và gỗ. Tôi thấy Henry đang ngồi trên sàn trong khu vực sách Nghệ Thuật với một cuốn sách giở ra trên đùi. Anh ấy đã bị cháy nắng, và tóc dựng ngược khắp nơi. Tôi rất mừng vì anh ấy đã cắt nó. Đối với tôi, giờ, anh ấy trong giống với chính mình hơn với mái tóc ngắn. Tôi ngắm anh ấy đưa tay lên xoăn một lọn tóc quanh đầu ngón tay, rồi nhận ra nó quá ngắn để làm vậy, rồi gãi tai. Tôi muốn chạm vào anh ấy, muốn luồn tay qua mái tóc dựng ngược kì khôi của anh ấy, nhưng thay vào đó tôi quay người và thả mình vào khu vực sách du lịch.

HENRY: CLARE đang đứng trong phòng chính bên cạnh một chồng khổng lồ những cuốn sách mới nhập về, Roger không thích người khác đụng vào những món đồ chưa được định giá, nhưng tôi thấy ông ấy để Clare làm bất cứ điều gì cô ấy muốn trong cửa hàng của ông ấy. Clare đang cúi đầu xuống một cuốn sách nhỏ màu đỏ. Tóc cô ấy đang tìm cách thoát ra khỏi búi trên đầu, và một bên dây chiếc váy đầm mùa hè của cô ấy đang tuột ra khỏi vai, để lộ một phần chiếc áo tắm. Cảnh tượng này rất cảm động, rất quyền năng, đến nỗi tôi cảm thấy cần phải ngay lập tức đến bên cô ấy, chạm vào cô ấy, và có thể, nếu không ai nhìn, sẽ cắn cô ấy; nhưng đồng thời tôi cũng không muốn khoảnh khắc đó biến mất.

Đột nhiên tôi để ý đến Gomez, đang đứng trong khu vực sách Kì Bí và nhìn Clare với biểu cảm giống như sự phản chiếu cảm xúc của chính tôi…

Đúng lúc đó, Clare ngước lên nhìn tôi và nói, “Henry, xem này, là Pompeii.” Cô ấy giơ cao cuốn sách tranh bưu thiếp nhỏ, và có điều gì đó trong giọng nói của cô ấy như muốn nói, Em đã chọn anh. Tôi bước lại gần cô ấy, quàng tay qua vai cô ấy và kéo dây váy thẳng lại. Khi tôi nhìn lên một giây sau đó, Gomez đã quay lưng lại phía chúng tôi và đang chăm chú xem Agatha Christies.

Chủ Nhật, 15/1/1995 (Clare 23 tuổi, Henry 31 tuổi)

CLARE: Tôi đang rửa bát đĩa và Henry đang thái ớt xanh. Mặt trời đang ửng hồng trên những ụ tuyết tháng Một trong sân sau nhà chúng tôi vào buổi tối Chủ Nhật. Chúng tôi đang nấu thịt nêm ớt và hát Yellow Submarine:

Trong thị trấn nơi tôi sinh ra,

Có một người đàn ông căng buồm ra biển cả…

Những lát hành đang kêu xì xèo trong chảo trên bếp. Khi chúng tôi đang hát Và những người bạn của chúng tôi đều đã lên thuyền, đột nhiên tôi thấy giọng mình tôi bồng bềnh một mình, tôi quay lại và thấy quần áo của Henry đang chất thành đống, con dao nằm trên sàn nhà bếp. Một nửa quả ớt xoay nhẹ trên thớt.

Tôi tắt bếp và đậy chảo hành. Tôi ngồi xuống cạnh đống quần áo rồi nhặt chúng lên, vẫn còn ấm hơi Henry. Tôi ngồi cho đến khi tất cả hơi ấm của chúng là từ người tôi tỏa ra, khi đang ôm chúng. Rồi tôi ngồi dậy và đi vào phòng ngủ, gấp quần áo cẩn thận và đặt chúng lên giường. Tôi tiếp tục nấu bữa tối hết mức có thể, rồi ăn một mình, chờ đợi và phân vân.

Thứ Sáu, 3/2/1995 (Clare 23 tuổi, Henry 31, và 39 tuổi)

CLARE: Gomez, Charisse, Henry và tôi đang ngồi quanh bàn ăn chơi Chủ Nghĩa Tư Bản Hiện Đại Chết Tiệt. Đó là một trò chơi do Gomez và Charisse sáng tạo ra. Chúng tôi chơi nó bằng bộ cờ Tỷ Phú. Nó yêu cầu phải trả lời các câu hỏi, đi đến các điểm, tích lũy tiền, và bóc lột người cùng chơi. Đang đến lượt Gomez. Anh ấy đổ xúc xắc, được sáu điểm, và đi tới Khí Vận. Anh ấy rút một tấm thẻ.

“Được rồi, mọi người. Phát minh công nghệ hiện đại nào đáng bị xóa bỏ vì lợi ích của cộng đồng?”

“Ti vi”, tôi nói.

“Nước xả vải”, Charisse nói.

“Máy dò chuyển động”, Henry nói dữ dội.

“Còn tôi nói thuốc súng.”

“Đó đâu phải hiện đại”, tôi cự nự.

“Được rồi, dây chuyền lắp ráp.”

“Cậu không được trả lời hai lần”, Henry nói.

“Dĩ nhiên được. Mà ‘máy dò chuyển động’ là thể loại câu trả lời ngớ ngẩn gì thế?”

“Tớ không ngừng bị hại bởi cái máy dò chuyển động ở Newberry. Tuần này đã hai lần tớ hiện hình trong thư viện sau giờ làm việc, và ngay khi tớ xuất hiện, bảo vệ đã chạy lên kiểm tra. Nó đang khiến tớ phát điên.”

“Tớ không nghĩ giai cấp vô sản sẽ bị ảnh hưởng nhiều bởi sự hủy bỏ sáng chế máy cảm biến chuyển động đâu. Clare và tớ mỗi người được 10 điểm cho câu trả lời đúng, Charisse được năm điểm vì sáng tạo, còn Henry đi lùi lại ba bước vì tội đặt nhu cầu của một cá nhân lên trước lợi ích tập thể.”

“Như vậy tớ được quay trở lại Điểm Xuất Phát. Đưa anh 200 đô la, Ngân Hàng.” Charisse đưa Henry tiền của anh ấy.

“Ối”, Gomez nói. Tôi cười với Gomez. Đến lượt tôi. Tôi có bốn điểm.

“Công viên. Em sẽ mua nó.” Để có thể mua bất cứ thứ gì, tôi phải trả lời đúng một câu hỏi. Henry rút một tấm từ xấp Cơ Hội.

“Em muốn ăn tối với ai trong số những người sau và tại sao: Adam Smith, Karl Marx, Rosa Luxembourg, Alan Greenspan?”

“Rosa.”

“Tại sao?”

“Cái chết thú vị nhất.” Henry, Charisse, và Gomez bàn bạc và đồng ý cho tôi mua Công Viên. Tôi đưa tiền cho Charisse và cậu ấy đưa khế ước cho tôi. Henry đổ và đi tới Thuế Thu Nhập. Thuế Thu Nhập có những tấm thẻ riêng, đặc biệt của nó. Tất cả chúng tôi căng thẳng, vì sợ hãi. Anh ấy đọc thẻ.

“Bước Nhảy Vĩ Đại.”

“Chết tiệt!” Chúng tôi đưa lại cho Charisse tất cả đất đai của mình và cậu ấy cất chúng vào Nhà Băng, cùng với đất đai của cậu ấy.

“Vừa mua được Công Viên đã mất.”

“Anh xin lỗi.” Henry di chuyển quá nửa bàn, đưa anh ấy tới St. James. “Anh sẽ mua nó.”

“St. James bé nhỏ tội nghiệp của ta”, Charisse rên rỉ. Tôi rút một tấm thẻ từ chồng Bãi Đỗ Xe Miễn Phí.

“Tỷ giá giữa đồng yên Nhật và đô la Mỹ ngày hôm nay là bao nhiêu?”

“Anh chịu. Câu hỏi này từ đâu ra vậy?”

“Từ em.” Charisse mỉm cười.

“Câu trả lời là gì?”

“99.8 yên một đô la.”

“Được rồi. Không St. James. Đến lượt em.” Henry đưa xúc xắc cho Charisse. Cậu ấy đổ được bốn điểm và phải vào Tù. Cậu ấy bốc một tấm thẻ nói rằng tội của cậu ấy là: Tiết lộ thông tin nội bộ. Chúng tôi cười.

“Nghe giống các cậu hơn là Charisse”, Gomez nói. Henry và tôi cười e thẹn. Gần đây chúng tôi đang kiếm bộn tiền trên thị trường chứng khoán. Để ra khỏi Tù, Charisse phải trả lời ba câu hỏi.

Gomez rút từ chồng Cơ Hội. “Câu hỏi thứ nhất: kể tên hai nghệ sĩ nổi tiếng Trotsky quen biết ở Mexico.”

“Diego Rivera và Frieda Kahlo.”

“Tốt. Câu hỏi thứ hai: Nike trả cho công nhân Việt Nam của họ bao nhiêu mỗi ngày để làm ra những đôi giày đắt đến ngớ ngẩn đó?”

“Ôi, Chúa ạ, em không biết… 3 đô la? Mười xu?”

“Câu trả lời của em là gì?” Có tiếng động lớn vang lên trong bếp. Tất cả chúng tôi nhảy dựng lên, và Henry nói, “Ngồi im!” dứt khoát đến nỗi chúng tôi làm theo. Anh ấy chạy vào trong bếp. Charisse và Gomez nhìn tôi hoảng hốt. Tôi lắc đầu nói: “Tôi không biết gì cả”. Nhưng thực ra tôi biết. Có những tiếng thì thầm khẽ và tiếng rên rỉ. Charisse và Gomez cứng đơ người, lắng nghe. Tôi đứng dậy và nhẹ nhàng đi theo Henry.

Anh ấy đang quỳ gối dưới sàn, giữ tấm giẻ lau đầu người đàn ông trần truồng đang nằm trên sàn nhà, người dĩ nhiên là Henry. Chiếc tủ gỗ đựng chén đĩa đang bổ nhào; cốc vỡ tan tành và tất cả bát đĩa tung tóe thành từng mảnh văng khắp nơi. Henry đang nằm giữa đống hỗn loạn đó, máu chảy ròng ròng và giữa những mảnh vỡ. Cả hai Henry nhìn tôi, một thảm thương, một hối hả. Tôi quỳ gối đối diện Henry, phía trên Henry. “Máu chảy từ đâu vậy?” tôi thì thầm. “Anh nghĩ từ trên đầu”, Henry thì thầm đáp lại. “Hãy gọi xe cứu thương đi”, tôi nói. Tôi nhặt những mảnh vỡ ra khỏi ngực Henry. Anh ấy nhắm mắt lại và nói, “Đừng.” Tôi dừng lại.

“Ôi, chết tiệt.” Gomez đứng giữa ngưỡng cửa. Tôi thấy Charisse đang nhón chân đứng sau anh ấy, cố nhìn qua vai. “Ối”, cậu ấy nói, đẩy Gomez ra một bên. Henry ném tấm vải lau lên trên phần kín của bản sao đang nằm sóng xoài trên sàn.

“Ôi, Henry, đừng bận tâm. Em đã vẽ hàng tỉ người mẫu…”

“Anh đang cố giữ lại chút riêng tư ít ỏi”, Henry ngắt lời. Charisse phản ứng như thể Henry vừa tát cậu ấy.

“Nghe này, Henry…” Gomez đùng đùng.

Tôi không thể nghĩ được gì trước sự hỗn loạn này. “Mọi người làm ơn yên lặng đi”, tôi nói, cáu tiết. Trước sự ngạc nhiên của tôi, họ đều làm theo. “Chuyện gì xảy ra vậy?” Tôi hỏi Henry, người đang nằm nhăn nhó trên sàn và gắng không nhúc nhích. Anh ấy mở mắt và nhìn tôi chằm chằm trong một khoảnh khắc trước khi trả lời.

“Anh sẽ biến mất sau vài phút nữa,” cuối cùng anh ấy nói, khẽ khàng. Anh ấy nhìn Henry. “Tớ muốn uống chút gì đó.” Henry nhảy dựng dậy và quay trở lại với một cốc Daniles đầy. Tôi đỡ đầu Henry và anh ấy uống hết một phần ba cốc.

“Đó có phải ý hay không đấy?” Gomez hỏi.

“Không biết. Không quan tâm”, Henry trả lời anh ấy từ dưới sàn. “Đang đau muốn chết.” Anh ấy thở dốc, “Đứng lùi ra! Nhắm mắt lại…”

“Tại sao?...” Gomez lại bắt đầu.

Henry giãy giụa trên sàn như thể anh ấy đang bị sốc điện. Đầu anh ấy giật dữ dội liên hồi và anh ấy hét lên “Clare!” và tôi nhắm mắt lại. Một tiếng động như thể tiếng ga trải giường bị giật tung lên nhưng lớn hơn nhiều, vang lên và rồi những mảnh vỡ thủy tinh, mảnh sành đổ xuống như thác, và Henry đã biến mất.

“Ôi Chúa ơi”, Charisse nói. Henry và tôi nhìn nhau đăm đăm. Thật khác quá, Henry. Nó rất hung bạo và đau đớn. Chuyện gì đang xảy ra với anh vậy? Khuôn mặt trắng bệch của anh ấy nói với tôi rằng anh ấy cũng không biết. Anh ấy kiểm tra kĩ li rượu whiskey để tìm mảnh thủy tinh vỡ rồi uống cạn nó.

“Đống đổ vỡ này là sao?” Gomez hỏi, cẩn thận phủi các mảnh vỡ khỏi người.

Henry đứng dậy, đưa tay cho tôi. Anh ấy dính đầy máu và mảnh thủy tinh, mảnh sành. Tôi cũng đứng dậy và nhìn Charisse. Cậu ấy bị một vết cắt dài trên mặt, máu đang chảy trên má như nước mắt.

“Tất cả những gì không phải một phần của cơ thể tớ sẽ bị bỏ lại”, Henry giải thích. Anh ấy chỉ cho họ thấy lỗ hổng nơi chiếc răng bị nhổ vì anh ấy không ngừng bỏ lại phần trám vào. “Nên bất kể nơi nào tớ trở về, ít nhất những mảnh vỡ đã không còn, họ sẽ không phải ngồi lấy nhíp mà nhặt chúng ra.”

“Không. Nhưng chúng ta sẽ phải”, Gomez nói, từ tốn nhặt một mảnh thủy tinh từ tóc Charisse. Anh ấy nói có lí.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3