Vợ người du hành thời gian - Phần II - Chương 06-07-08

Khúc nhạc ngắn

Thứ Tư,
12/8/1998 (Clare 27 tuổi)

CLARE: Cuối cùng mẹ cũng đã
ngủ. Bà ngủ trên chiếc giường trong phòng riêng của bà; bà đã trốn khỏi bệnh
viện chỉ để tìm lại căn phòng riêng của mình, nơi ẩn náu đã bị biến thành một
căn phòng bệnh viện. Nhưng giờ bà đã không còn có thể nhận thức được gì. Suốt
đêm bà nói, cười, thổn thức, la hét và gọi tên “Philip!” và “Mẹ ơi!” “Không,
không, không...” Suốt đêm những con ve sầu và những con nhái bén của tuổi thơ
tôi rộn ràng khúc âm sôi nổi của chúng. Ánh đèn ngủ khiến làn da mẹ tựa sáp
ong, đôi bàn tay gầy gò của bà chắp lại van nài, chụp lấy li nước tôi đưa tới
gần đôi môi khô nẻ của bà. Trời đã hửng sáng. Cửa sổ của mẹ tôi nhìn ra phía
đông. Tôi ngồi trên chiếc ghế trắng gần cửa sổ, hướng mặt về phía giường, nhưng
không nhìn gì cả, không nhìn mẹ tôi đang lu mờ trên chiếc giường to lớn của bà,
không nhìn những lọ thuốc, những chiếc thìa và những chiếc cốc, không nhìn cột
IV với túi nước truyền treo lủng lẳng và ánh đèn LED đỏ nhấp nháy và cái bô,
cái chậu hình quả thận dùng để ói mửa dưới gậm giường và hộp găng tay nhựa, giỏ
rác ghi dòng chữ cảnh báo Tác Nhân Sinh Học Nguy Hiểm đựng đầy
kim tiêm dính máu. Tôi nhìn ra cửa sổ, về hướng đông. Lác đác những con chim
đang líu lo hót. Tôi có thể nghe thấy những con bồ câu sống trên giàn đậu tía
đang bắt đầu tỉnh giấc. Cả thế giới là một màu xám xịt, rồi màu sắc chậm rãi
len lỏi vào trong, không phải đỏ rực một góc trời mà chậm rãi lan tỏa một
vệt màu cam. Một giây trước còn lởn vởn phía đường chân trời, rồi tràn qua khu
vườn, rồi ánh sáng vàng rực và bầu trời xanh, tất cả màu sắc ngân vang tại vị
trí mà chúng được phân bổ, những cây loa kèn, hoa hồng, hoa xác pháo trắng và
cúc vạn thọ, tất cả long lanh dưới sương mai như thủy tinh. Những cây bạch
dương ở bìa rừng đang đu đưa như những sợi dây trắng trên bầu trời. Một
con quạ bay ngang qua bãi cỏ, bóng của nó bay song song bên dưới và chạm vào
nhau khi nó đậu xuống dưới bậu cửa sổ và kêu lên chỉ một tiếng. Ánh sáng tìm
đến khung cửa sổ, trùm lên hai bàn tay, lên thân thể nặng
trĩu của tôi trên chiếc ghế trắng của mẹ. Mặt trời đã lên.

Tôi nhắm mắt lại. Tiếng máy
điều hòa rên rỉ. Tôi lạnh. Tôi đứng dậy và đi về phía cửa sổ khác, tắt điều
hòa. Giờ thì căn phòng lặng thinh. Tôi đến bên giường. Mẹ vẫn nằm im bất động.
Tiếng thở khó nhọc ám ảnh những giấc mơ của tôi đã dừng lại. Miệng bà mở he hé,
chân mày nhướn lên như thể đang ngạc nhiên, cho dù mắt bà vẫn nhắm chặt; có thể
bà đang hát. Tôi quỳ gối bên giường, kéo chăn lại và đặt tai lên tim bà. Làn da
của bà vẫn ấm. Chẳng có gì cả. Không có tiếng tim đập, không có tiếng máu chảy,
không có những nhịp thở phập phồng trong phổi. Lặng thinh.

Tôi ôm thân thể đang bốc mùi
của bà vào lòng, và bà lại hoàn hảo, bà lại là người mẹ tuyệt đẹp hoàn mỹ của
tôi, chỉ trong khoảnh khắc, cho dù những lóng xương của bà đang ép vào ngực tôi
và đầu bà đang nghẹo xuống, cho dù cái bụng đầy tế bào ung thư căng tròn như
thể bà đang có mang, bà vẫn trỗi lên trong kí ức của tôi, rực rỡ, vui tươi và
nhẹ nhõm: bà tự do.

Có tiếng bước chân trong hành
lang. Cửa phòng bật mở và giọng Etta vang lên:

“Clare? Ôi.. ”

Tôi đặt mẹ nằm xuống gối
trở lại, vuốt chiếc váy ngủ và vuốt tóc bà.

“Mẹ cháu đã qua đời.”

Thứ Bảy,
12/9/1998 (Henry 35 tuổi, Clare 27 tuổi)

HENRY: Lucille là người
rất yêu vườn tược. Mỗi khi chúng tôi đến thăm, Clare sẽ đi thẳng đến
cửa trước của biệt thự Sáo Bắc Mỹ và ra cửa sau tìm Lucille, người hầu như
lúc nào cũng ở trong vườn, dù nắng hay mưa. Khi bà còn khỏe, chúng tôi luôn
thấy bà quỳ gối bên những luống hoa, gieo hạt hoặc bấng cây đi chỗ khác,
hoặc bón phân cho những bụi hồng. Khi bà ốm, Etta và Philip đã đưa bà
xuống dưới, quấn mình trong chăn và ngồi trên ghế mây, đôi khi bên cạnh vòi
phun nước, đôi khi dưới gốc cây lê nơi bà có thể ngắm Peter làm việc, đào bới,
xén tỉa và ghép cành. Khi Lucille còn khỏe, bà luôn tiêu khiển cho
chúng tôi bằng các câu chuyện làm vườn: những con chim sẻ đầu đỏ rốt
cuộc cũng phát hiện ra tổ mới, những cây thược dược cạnh đồng hồ mặt trời ra
hoa đẹp hơn mong đợi, những khóm hồng mới hóa ra có màu tím oải hương xấu xí
nhưng tươi tốt đến nỗi bà thấy kinh tởm và phải vứt bỏ. Một mùa hè
nọ, Lucillevà Alicia tiến hành một thí nghiệm
mới: Alicia dành hàng giờ mỗi ngày để chơi vi-ô-lông-xen trong vườn,
để xem cây cỏ sẽ phản ứng với âm nhạc như thế nào. Lucille thề rằng những khóm
cà chua của bà chưa bao giờ ra nhiều quả đến thế, và bà đã cho chúng tôi xem
một quả bí dài có kích cỡ bằng một bên đùi của tôi. Thí nghiệm được cho là
thành công, nhưng chưa bao giờ lặp lại vì đó là mùa hè cuối
cùng Lucille đủ khỏe để làm vườn.

Sức khỏe
của Lucille tốt xấu theo mùa, như cây cỏ. Vào mùa hè khi tất cả chúng
tôi về thăm, Lucille khỏe ra và căn nhà tràn ngập những tiếng la hét hạnh phúc,
tiếng huyên náo của con trai Mark và Sharon, nó chạy quanh
vòi phun nước như chó con, nhảy cẫng lên vui sướng và nô đùa trên bãi cỏ.
Lucille rít hay cáu bẳn nhưng luôn luôn tao nhã. Bà đứng dậy khi chào đón chúng
tôi, mái tóc trắng và đỏ đồng của bà được cuộn thành búi dày với những sợi dài
xõa xuống mặt, đôi găng tay làm vườn màu trắng và dụng
cụ Smith &Hawken được bỏ xuống trong lúc bà ôm chúng tôi.
Lucille và tôi luôn hôn nhau chào đón rất chuẩn mực, hôn lên cả hai má, như
thể chúng tôi là hai vị phu nhân bá tước già người Pháp lâu ngày không
gặp. Bà lúc nào cũng rất tử tế đối với tôi, mặc dù bà có thể khiến con gái mình
đau khổ chỉ bằng một cái nhìn. Tôi nhớ bà. Và “nhớ” không phải là một từ
thỏa đáng để diễn tả cảm xúc của Clare. Clare cảm thấy mất mát vô
cùng. Cô ấy có thể bước vào phòng và quên mất tại sao mình ở đó. Cô ấy ngồi
nhìn đăm đăm vào quyển sách mà không hề lật một trang trong suốt cả giờ đồng
hồ. Nhưng cô ấy không khóc. Clare mỉm cười nếu tôi pha
trò. Clare ăn bất kể thứ gì tôi đặt trước mặt. Nếu tôi muốn quan hệ
với Clare, cô ấy sẽ chiều theo, nhưng không lâu sau,
tôi sẽ lại để cho cô ấy được yên, tôi sợ khuôn mặt ngoan ngoãn không nhỏ một
giọt nước mắt nhưng lại có vẻ như đang ở ngàn dặm xa xôi của cô ấy. Tôi nhớ
Lucille, nhưng Clare mới là người tôi đã đánh mất, Clare, người
đã biến mất tự phương nào và bỏ tôi lại với người chỉ có vẻ ngoài
giống Clare.

Thứ Tư,
26/12/1998 (Clare 27 tuổi, Henry 35 tuổi)

CLARE: Phòng của mẹ tôi trắng
phau và trống trải. Tất cả các thiết bị y tế đã được đem đi. Chiếc
giường bị lột sạch chỉ còn tấm đệm hoen ố và xấu xí trong căn phòng sạch
tinh tươm. Tôi đang đứng trước bàn của mẹ. Đó là một chiếc bàn mi-ca nặng nề
màu trắng, tân thời và lạ lẫm trong căn phòng nữ tính và thanh cao đầy các món
nội thất Pháp cổ xưa. Chiếc bàn của mẹ tôi nằm trong một gian nhỏ được bao
quanh bởi các ô cửa sổ. Ánh sáng ban mai đang chìm lên bề mặt trống trơn của
nó. Ngăn kéo được khóa. Tôi đã dành cả giờ đồng hồ để tìm chìa khóa nhưng vẫn
không tìm thấy. Tôi tì khuỷu tay lên phía sau chiếc ghế xoay của mẹ và
nhìn chằm chằm vào ngăn kéo. Cuối cùng tôi đi xuống dưới nhà. Phòng khách và
phòng ăn trống trơn. Tôi nghe có tiếng cười trong bếp, nên tôi đẩy cửa bước
vào. Henry và Nell đang túm tụm quanh đống bát, bột mì và que lăn.

“Khẽ thôi nhóc, khẽ thôi! Cậu
sẽ khiến nó trở nên cứng ngắc nếu cứ lăn như vậy. Chỉ chạm khẽ vào chúng thôi,
Henry, hoặc chúng sẽ nhẵn thín như kẹo cao su đấy.”

“Cháu xin lỗi. Cháu sẽ nhẹ
tay, bác đừng đánh cháu như vậy. Chào em, Clare.” Henry quay người lại mỉm cười
và tôi có thể thấy anh ấy đang lem luốc bột mì.

“Anh đang nấu gì vậy?”

“Bánh sừng bò. Anh đã thề sẽ
thành thục nghệ thuật làm bánh bột gấp hoặc sẽ chết trong sự nỗ lực.”

“Yên nghỉ nhé, con trai”,
Nell nói, miệng cười toe toét.

“Có chuyện gì vậy?” Henry hỏi
trong lúc Nell điêu luyện lăn một cục bột, gấp nó lại, cắt và bọc trong giấy
dầu.

“Cho cháu mượn Henry vài phút
nhé, Nell.” Nell gật đầu và chỉ que lăn của bà vào Henry. “Quay trở lại sau 15
phút và chúng ta sẽ bắt đầu làm nước ướp thịt.”

“Vâng, thưa bà.”

Henry đi theo tôi lên
lầu. Chúng tôi đứng trước bàn của mẹ.

“Em muốn mở nó nhưng
không thể tìm được chìa khóa.”

“À.” Anh ấy ném cho tôi một
cái nhìn, nhanh đến nỗi không thể hiểu nó có nghĩa là gì. “Đơn giản
thôi.“Henry đi ra khỏi phòng và quay trở lại sau vài phút. Anh
ấy ngồi trên sàn trước mặt bàn, nắn thẳng hai cái kẹp giấy lại. Anh
ấy bắt đầu với ngăn dưới bên trái, cẩn thận dò và xoay một cái kẹp giấy, rồi
nhét cái còn lại vào sau đó. “Voila!” anh ấy nói, kéo ngăn bàn ra. Nó
đựng đầy giấy. Henry dễ dàng mở bốn ngăn còn lại. Không lâu sau
chúng đều mở toang hoác cả, phơi bày ra những thứ bên trong: sổ tay, giấy
lò xo, danh mục dụng cụ làm vườn, túi hạt giống, bút mực và bút chì
ngắn, sổ séc, một thanh kẹo Hershey, thước dây, và nhiều đồ vật nhỏ khác mà giờ
đây trông có vẻ trơ trọi và bẽn lẽn trước ánh sáng ban ngày. Henry đã
không đụng vào bất kì thứ gì bên trong. Anh ấy nhìn tôi; tôi hững hờ nhìn vào
cửa và Henry hiểu ý. Tôi quay lại với chiếc bàn của mẹ.

Những tờ giấy không được sắp
xếp theo thứ tự. Tôi ngồi trên sàn nhà vì xếp các đồ vật bên trong ngăn
bàn ra trước mặt. Những món có chữ viết tay của bà được tôi vuốt phẳng và xếp
sang bên trái. Một vài trong số chúng là các danh sách và ghi chú mà bà viết
cho chính mình: Đừng hỏi P về S. Hay: Nhắc Etta về
bữa tối thứ Sáu của B.
 Có rất nhiều tờ giấy được viết xiên xẹo, nguệch
ngoạc, bôi đen và các đánh dấu như bàn chân của những con chim. Một vài trong
số chúng có một câu hoặc một cụm từ được viết lên. Để nó cắt tóc
mình bằng một con dao.
 Và: không thể làm nó. Và:Nếu
tôi yên lặng nó sẽ trôi qua thôi.
 Một vài tờ là những bài thơ
được đánh dấu và gạch xóa gần hết, rất ít từ còn lại, như những khúc thơ
của Sappho:

Như miếng thịt cũ, thanh
thản và mong manh

chẳng còn chút không
khí XXXXXXX cô đồng ý


nói rằng XXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXX

Hay:

bàn tay của anh
ấy XXXXXX

XXXXXXXXXXXX

trong cùng
cực XXXXXXXX

Một số bài thơ đã được
chép lại:

Vào lúc này đây

mọi hi vọng thật mong
manh

và nhỏ bé.

Âm nhạc và vẻ đẹp

là những hạt muối nêm
vào nỗi đau;

một khoảng trống xé
toạc băng giá

Ai có thể nói

rằng thiên thần tình
ái

lại buồn đến thế?

hay có thể biết đam

lại thiêu chảy đêm
mùa đông

dài đằng đẵng thành
cơn lũ

của bóng đêm.

23/1/79

Khu vườn mùa xuân:

con thuyền của mùa hạ

bơi

trong ảo ảnh mùa
đông.

6/4/79

1979 là năm em tôi mất
và mẹ tôi đã tìm cách tự tử. Ruột gan tôi đau thắt và mắt nhòe lệ. Giờ thì
tôi đã có thể hiểu cảm giác của bà lúc đó. Tôi đặt tất cả đống giấy tờ
sang một bên, không đọc thêm nữa. Trong ngăn kéo khác, tôi tìm thấy những bài
thơ viết gần đây. Và tôi tìm thấy một bài dành cho tôi:

Khu vườn dưới tuyết

tặng Clare

Giờ, khu vườn đã chìm dưới
tuyết

một tờ giấy trắng chúng ta
viết lên bằng những bước chân

Clare, người chưa bao
giờ là của tôi

người luôn thuộc về chính

Công Chúa Ngủ Trong Rừng

đắp chiếc chăn bằng pha lê

nó chờ đợi

đây là mùa xuân của nó

là giấc ngủ là sự thức
tỉnh của nó

con bé chờ

mọi thứ chờ

chờ một nụ hôn

những hình hài bất định
của thân củ gốc rễ

tôi chưa
bao giờ nghĩ

con gái tôi

khuôn mặt nó

một khu vườn, đang đợi

HENRY: Đã gần đến giờ ăn
tối và tôi đang làm Nell chộn rộn, nên khi bà nói, “Chẳng phải cậu
nên đi xem người đàn bà của mình đang làm gì sao ?” thì nó có vẻ là một ý hay.

Clare đang ngồi trên sàn
nhà trước chiếc bàn của mẹ cô ấy, vây quanh bởi những tờ giấy trắng và
vàng. Chiếc đèn bàn thả một bể ánh sáng xung quanh Clare, nhưng khuôn mặt
của cô ấy ẩn trong bóng tối; mái tóc màu đồng của cô ấy chói lòa. Clare
ngẩng đầu lên nhìntôi, giơ một mẩu giấy ra và nói, “Hãy xem này,
Henry, bà viết cho em một bài thơ”. Trong lúc ngồi bên cạnh Clare và
đọc bài thơ, tôi tha thứ cho Lucille, đôi chút, vì sự ích kỉ lớn lao và cái
chết tàn ác của bà. Tôi nhìn Clare, nói, “Nó thật hay”, và cô ấy gật đầu, mãn nguyện trong
giây lát rằng mẹ cô ấy đã thực sự yêu cô ấy. Tôi nghĩ đến mẹ tôi đang hát lieder sau
bữa trưa một buổi chiều mùa hè, mỉm cười với hình ảnh phản chiếu của chúng tôi
trong cửa sổ một cửa hàng, quay vòng trong chiếc váy xanh dương dọc căn phòng
thay đồ của bà. Bà đã rất yêu tôi. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ tình yêu của bà.
Còn Lucille thay đổi như một cơn gió. Bài thơ Clare đang giữ là một bằng chứng
bất biến, không thể chối cãi, là sự lưu giữ của một cảm xúc. Tôi nhìn quanh
biển giấy trên sàn nhà và cảm thấy nhẹ nhõm khi biết trong đống lộn xộn này đã
có thứ nổi lên khỏi mặt nước và trở thành con thuyền cứu nạn cho Clare.

“Bà đã viết cho em một bài
thơ”, Clare lặp lại trong kinh ngạc. Nước mắt đang chảy ra trên má cô ấy. Tôi đưa tay
ôm lấy cô ấy, cô ấy đã trở lại, vợ của tôi, Clare, đã bình an đáp bờ sau khi
đắm thuyền, đang thút thít như một đứa trẻ khi thấy mẹ vẫy tay từ
trên boong chiếc tàu đắm.

Giao thừa, một

Thứ Sáu, 31/12/1999, 11
giờ 55 phút đêm (Henry 36 tuổi, Clare 28 tuổi)

HENRY: Clare và tôi đang
đứng trên một sân thượng ở Wicker
Park cùng với vô số
những người can trường khác, chờ đợi sự đến gần của một thiên niên kỉ mới. Trời
đêm nay trong trẻo và không quá lạnh; tôi có thể nhìn thấy hơi thở của chính
mình, tai và mũi tôi hơi tê lại. Clare đang rúc trong chiếc khăn choàng lớn màu
đen, khuôn mặt cô ấy sáng bừng trong ánh đèn đường và ánh trăng. Sân thượng này
thuộc về một cặp tình nhân nghệ sĩ, bạn của Clare. Gomez và Charisse
đang ở gần đây, ôm nhau khiêu vũ chậm rãi trong âm nhạc mà chỉ họ mới nghe
thấy. Mọi người xung quanh đang say sưa đùa bỡn trong hơi men về những những
món đồ hộp họ đã tích trữ, các biện pháp hùng mạnh họ sử dụng để bảo vệ máy
tính của mình khỏi bị tiêu hủy. Tôi mỉm cười, tự nhủ rằng tất cả những
điều vô nghĩa về thiên niên kỉ mới này sẽ hoàn toàn bị quên lãng khi những
nhánh cây giáng sinh được dọn đi khỏi lề đường bởi nhân viên vệ sinh môi
trường.

Chúng tôi đang đợi đợt pháo
hoa đầu tiên bắn lên. Clare và tôi tựa người vào lan can của sân thượng và ngắm
trung tâm thành phố Chicago. Chúng
tôi đang quay mặt về phía đông, nhìn ra hồ Michigan. “Xin chào mọi
người”, Clare nói, vẫy tay về phía hồ, về Nam Haven, Michigan. “Thật
buồn cười”, cô ấy quay sang tôi. “Ở đó bây giờ đã là năm mới. Chắc rằng tất cả
mọi người đều đã lên giường đi ngủ.” Chúng tôi đang trên tầng sáu, tôi
ngạc nhiên về những gì tôi có thể nhìn thấy trên này. Nhà của chúng tôi ở
quảng trường Lincoln
nằm đâu đó phía tây bắc; khu phố của chúng tôi tối om và yên tĩnh.
Khu trung tâm, ở phía đông nam, đang sáng bừng rực rỡ. Một vài tòa nhà lớn được
trang hoàng Giáng Sinh, xanh rì và đỏ rực ánh đèn trên các khung cửa sổ. Tòa Sears
và Hancock nhìn nhau như những con rô-bốt khổng lổ trên đầu các tòa nhà chọc
trời nhỏ hơn đôi chút khác. Tôi gần thấy tòa nhà tôi đã ở khi mới
gặp Clare, ở nam Dearborn,nhưng nó bị lu mờ bởi tòa nhà cao hơn,
xấu xí hơn bên cạnh mà họ mới xây vài năm sau đó. Chicago có quá nhiều công trình kiến
trúc xuất sắc đến nỗi họ cảm thấy có trách nhiệm phải lâu lâu đập bỏ một vài
trong số chúng và dựng nên những tòa nhà gớm ghiếc chỉ để giúp tất cả chúng ta
cảm kích những điều tốt đẹp hơn. Giao thông không có nhiều, ai cũng muốn có mặt
ở một nơi nào đó lúc nửa đêm, không phải trên đường. Tôi nghe có tiếng pháo nổ
rải rác, đôi khi ngắt quãng bởi tiếng súng của những kẻ ngu độn quên mất rằng
súng đạn có nhiều công dụng hơn là chỉ tạo ra những tiếng động ầm ĩ. Clare nói,
“Em tê cứng cả rồi”, và nhìn vào đồng hồ đeo tay của cô ấy. “Hai phút nữa.”
Tiếng reo vui mừng nổ ra đâu đó trong vùng ngụ ý rằng, đồng hồ của ai đó đang
chạy nhanh.

Tôi nghĩ về Chicago của thế kỉ
tiếp. Nhiều người hơn, rất rất nhiều. Giao thông lố bịch, nhưng ít ổ
gà. Sẽ có một tòa nhà gớm ghiếc trông giống như một lon Co-ca nổ tung giữa công
viên Grant; phía tây sẽ dần thoát khỏi cảnh nghèo túng và phía nam sẽ
tiếp tục suy tàn. Cuối cùng họ cũng sẽ đập bỏ Wrigley Field và xây một
sân vận động khổng lồ xấu xí, nhưng lúc này nó vẫn đứng rực rỡ trong ánh đèn
phía đông bắc.

Gomez bắt đầu đếm ngược:
“Mười, chín, tám...” và tất cả chúng tôi hùa vào bắt nhịp: “Bảy, sáu, năm, bốn,
BA! HAI! MỘT! CHÚC MỪNG NĂM MỚI!” Nắp Champagne được
bật, pháo hoa được đốt và lướt qua bầu trời, Clare và tôi ngụp trong
vòng tay nhau. Thời gian ngừng lại, và tôi hi vọng những điều tốt đẹp hơn sẽ
tới.

Ba

Chủ Nhật, 13/3/1999 (Henry
35 tuổi, Clare 27tuổi)

HENRY: Charisse và Gomez vừa
sinh đứa con thứ ba, Rosa Evangeline Gomolinski. Chúng tôi chờ cho một tuần
trôi qua rồi bất ngờ đến thăm họ với hàng đống quà và thức ăn.

Gomez mở cửa. Maximilian, ba
tuổi, đang bám vào chân và giấu mặt sau đầu gối của Gomez khi chúng tôi
nói, “Xin chào, Max!” Joseph, hướng ngoại hơn ở độ tuổi lên một, chạy bổ lại
gần Clare và bi bô, “Ba ba ba” rồi ợ to khi cô ấy bế nó lên. Gomez đảo mắt, còn
Clare cười, Joe cười, đến cả tôi cũng phải cười trước sự hỗn loạn tuyệt đối
này. Nhà của họ trông như một dòng sông băng với cửa hàng Toys “R” Us bên trong
vừa di chuyển, để lại hàng đống những đồ chơi Lego và những con gấu nhồi bông
bị bỏ rơi.

“Đừng nhìn”, Gomez nói.
“Chẳng có thứ gì ở đây là thực cả. Bọn tớ chỉ đang thử nghiệm một trong những
trò chơi mô phỏng thực tế của Charisse. Bọn tớ gọi nó là Làm cha mẹ.”

“Gomez?” tiếng Charisse vọng
ra từ phòng ngủ. “Có phải Clare và Henry đấy không?”

Chúng tôi kéo nhau đi qua
hành lang vào phòng ngủ. Tôi liếc nhìn vào nhà bếp trong lúc đi qua. Một phụ nữ
trung niên đang rửa bát.

Charisse đang nằm trên giường
với em bé trong tay. Con bé đang ngủ. Nó nhỏ xíu và có mái tóc đen, trông như
thổ dân Mehico. Max và Joe có tóc màu sáng. Charisse trông thật khủng
khiếp (đối với tôi. Về sau Clare quả quyết rằng cô ấy trông “tuyệt vời”). Cô ấy
đã tăng cân rất nhiều, có vẻ kiệt quệ và ốm yếu. Cô ấy phải mổ đẻ. Tôi ngồi
xuống một chiếc ghế. Clare và Gomez ngồi trên giường, Max trèo lên với mẹ
rồi rúc vào dưới cánh tay còn rảnh rang của Charisse. Thằng bé nhìn tôi chằm
chằm và đút một ngón tay vào miệng, Joe ngồi trên đùi Gomez.

“Con bé thật đáng yêu”, Clare
nói. Charisse mỉm cười. “Và cậu trông rất rạng rỡ.”

“Tớ mệt muốn chết”, Charisse nói. “Nhưng vậy là xong. Bọn tớ đã có cô con
gái của mình.” Cô ấy vuốt má đứa bé, Rosa ngáp và đưa bàn tay nhỏ xíu lên. Cặp
mắt con bé chỉ là một đường đen kịt.

“Rosa Evangeline”, Clare thủ thỉ với con bé. “Thật là một cái tên đẹp.”

“Gomez muốn đặt tên nó là Wednesday[1], nhưng tớ cương
quyết không cho”, Charisse nói.

[1]Wednesday: thứ Tư. 

“Dù sao thì con bé cũng sinh vào thứ Năm”, Gomez giải thích.

“Cậu muốn bế nó không?” Clare gật đầu, Charisse cẩn thận đặt cô con gái của
mình vào tay Clare.

Nhìn Clare bế đứa trẻ trong tay, hiện thực của những lần xảy thai lại vây
lấy tôi, và trong giây lát tôi cảm thấy buồn nôn. Tôi hi vọng mình không sắp
sửa biến mất. Cảm giác nôn nao biến mất và tôi bị bỏ lại với thực tế của những
gì chúng tôi đang làm: chúng tôi đang đánh mất những đứa con của mình. Chúng
đang ở đâu, những đứa trẻ bị đánh mất này? Lang thang, quanh quất trong bối rối
ở một nơi nào đó?

“Henry, anh có muốn bế Rosa không?” Clare
hỏi tôi.

Tôi hoảng hốt. “Không”, tôi
nói quá mạnh. “Anh cảm thấy thông khỏe”, tôi giải thích. Tôi đứng dậy và đi ra
khỏi phòng ngủ, qua nhà bếp và ra cửa sau. Tôi đứng trong sân. Trời
đang mưa lất phất. Tôi chỉ đứng và thở.

Cánh cửa sau bật mở. Gomez
bước ra và đứng cạnh tôi.

“Cậu ổn chứ?” cậu ấy hỏi.

“Tớ nghĩ vậy. Chỉ cảm thấy
hơi tù túng ở trong kia thôi.”

“Tớ hiểu cảm giác đó.”

Chúng tôi đứng im lặng trong
vài phút. Tôi đang gắng nhớ lại những khoảnh khắc khi bố bế tôi lúc còn nhỏ. Tất
cả những gì tôi có thể nhớ là chơi cùng ông, chạy nhảy, cười đùa và cưỡi trên
vai ông. Tôi nhận ra Gomez đang nhìn tôi, và những giọt nước mắt đang thi
nhau chảy trên má tôi. Tôi quẹt tay áo ngang mặt. Phải có ai lên tiếng nói điều
gì đó.

“Đừng bận tâm đến tớ”, tôi
nói.

Gomez làm một cử chỉ kì cục
rồi nói, “Tớ sẽ quay lại ngay”, và biến mất vào trong nhà. Tôi đã nghĩ cậu ấy
sẽ đi hẳn, nhưng rồi cậu ấy trở ra với một điếu thuốc đang cháy trên tay. Tôi
ngồi xuống chiếc bàn picnic xập xệ đang ẩm ướt vì mưa và phủ đầy lá thông. Trời
ngoài này khá lạnh.

“Các cậu vẫn đang cố sinh
con?”

Tôi giật mình vì điều này,
rồi nhận ra chắc hẳn Clare đã kể cho Charisse nghe mọi chuyện, và Charisse chắc
hẳn chẳng giấu Gomez điều gì.

“Phải.”

“Clare vẫn buồn vì vụ xảy
thai đó sao ?”

“Các vụ xảy thai. Số nhiều.
Bọn tớ xảy thai ba lần tất cả rồi.”

“Ông DeTamble, để mất một đứa
con có thể bị coi là bất cẩn, nhưng để mất ba đứa thì thật cẩu thả quá mức
đấy.”

“Không phải lúc tấu hài đâu,
Gomez.”

“Xin lỗi.” Lần đầu tiên Gomez
tỏ ra lúng túng. Tôi không muốn nói về chuyện này. Tôi chẳng có gì để nói; tôi
hầu như không thể nói với Clare, với Kendrick và với các bác sĩ khác mà chúng
tôi đã đặt gánh nặng lên vai họ. “Xin lỗi”, Gomez lặp lại.

Tôi đứng dậy. “Chúng ta nên
vào thì hơn.”

“Họ không muốn chúng ta có
mặt, họ muốn nói chuyện đàn bà với nhau.”

“Vậy thì chúng ta sẽ nói về
đội Cubs nhé?” Tôi lại ngồi xuống. “Im đi.” Chẳng ai trong chúng tôi theo dõi
bóng chày. Gomez đang đi tới đi lui. Tôi ước gì cậu ấy dừng lại, hoặc tốt hơn
là đi vào trong. “Vấn đề là gì ?" cậu ấy hỏi, thản nhiên.

“Về cái gì? Đội Cubs hả? Theo
tớ thì vì không có tay ném bóng tốt.”

“Không, nhóc thủ thư, không
phải đội Cubs. Nguyên nhân khiến cậu và Clare không thể sinh con là gì?”

“Đó không phải là chuyện của
cậu, Gomez.”

Cậu ấy vẫn không chịu dừng
lại. “Cậu có biết nguyên nhân nằm ở đâu không?”

“Biến đi, Gomez.”

“Chậc, chậc. Coi chừng miệng
lưỡi chứ. Chẳng là tớ biết một bà bác sĩ tài ba...”

“Gomez...”

“Bà ấy chuyên về rối loạn
nhiễm sắc thể bào thai.”

“Tại sao cậu biết...”

“Nhân chứng chuyên gia.”

“Ồ.”

“Tên bà ấy là Amit Montague”,
Gomez tiếp tục, “Bà ấy là một thiên tài. Bà ấy đã xuất hiện nhiều lần trên
ti vi và đạt được đủ kiểu giải thưởng. Bồi thẩm đoàn yêu bà ấy.”

“Nếu bồi thẩm đoàn yêu bà ấy
thì...” tôi bắt đầu bật lại, châm biếm.

“Cứ đi gặp bà ấy đi. Chúa ạ,
tớ chỉ đang cố tìm cách giúp đỡ cậu.”

Tôi thở dài. “Được rồi. Cảm
ơn.”

“Đó là ‘Cảm ơn, bọn tớ sẽ
chạy đến gặp bà ấy ngay như lời cậu bảo, chiến hữu đáng mến’, hay ‘Cảm ơn, giờ
thì đi chết đi’?”

Tôi đứng dậy, phủi lá thông
dính trên mông. “Vào nhà thôi”, tôi nói, và chúng tôi đi vào.

 

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3