Vợ người du hành thời gian - Phần II - Chương 26-27
Những giấc mơ chân
Tháng 10, tháng 11/2006
(Henry 43)
HENRY: Tôi mơ thấy mình đang
ở Newberry, đang tổ chức Show’N Tell cho các sinh viên cao học của Cao đẳng Columbia. Tôi đang chỉ
cho họ xem cổ tịch – các cuốn sách đầu tiên được in, rồi các mẩu tích của
Gutenberg, Game and Play of Chess của Caxton,Eusebius của
Jensen. Buổi giới thiệu diễn ra rất suôn sẻ, họ hỏi những câu hỏi rất thú vị.
Tôi lục lọi trong xe đẩy để tìm cuốn sách đặc biệt tôi vừa tìm được trong thư
viện, một cuốn sách mà tôi đã không biết chúng tôi có. Nó được bọc trong một
chiếc hộp nặng nề màu đỏ không tiêu đề, chỉ có số hiệu CASE WING fZW 983.D 453,
dán tem vàng có đóng dấu của thư viện Newberry. Tôi đặt chiếc hộp lên bàn và trải
miếng lót ra. Tôi mở hộp, bên trong là đôi chân của tôi, hồng hào và khoẻ
khoắn. Chúng nặng đến bất ngờ. Khi tôi đặt chúng lên miếng lót, những ngón chân
ngoe nguẩy như muốn nói những lời chào, để nói với tôi rằng chúng vẫn có thể
làm vậy. Tôi bắt đầu thuyết trình về chúng, giải thích sự liên quan giữa đôi
chân của tôi với nghệ thuật in ấn Venice
thế kỉ XV. Các cô cậu sinh viên chăm chú ghi chép lại. Một người trong số họ,
cô gái tóc vàng xinh xắn trong chiếc áo hai dây điểm xuyết những vật trang trí
sáng loá, chỉ vào đôi chân của tôi và nói, “Nhìn kìa, chúng trắng ởn!” Đúng
vậy, lớp da đã chuyển sang màu trắng chết chóc, đôi chân đã không còn sự sống
và đang bắt đầu phân huỷ. Tôi buồn bã nhắc mình rằng việc đầu tiên phải làm vào
sáng mai là gửi chúng đến bộ phận bảo tồn.
Trong giấc mơ, tôi đang chạy.
Mọi việc đều yên ổn và tốt đẹp. Tôi chạy ven hồ, từ bãi biển đường Cây sồi
hướng về phía Bắc. Tôi thấy trái tim mình đập hối hả, thấy phổi mình nâng lên
rồi hạ xuống nhịp nhàng. Tôi đang di chuyển đều đặn. Thật nhẹ nhõm làm sao. Tôi
đã sợ mình sẽ không bao giờ có thể chạy được nữa, thế mà giờ đây tôi đang phóng
như bay. Thật tuyệt.
Nhưng rồi chuyện bắt đầu tệ
hại. Từng phần của cơ thể tôi lần lượt rụng rời. Đầu tiên là tay trái. Tôi dừng
lại và nhặt nó lên, phủi sạch cát, rồi lại gắn vào người, nhưng nó không thể
dính chặt, nó tiếp tục rụng ra chỉ sau nửa dặm. Tôi đành kẹp nó vào nách bằng
tay còn lại, tự nhủ có lẽ khi về nhà, tôi có thể gắn nó chặt hơn. Nhưng rồi đến
lượt tay còn lại rụng ra, và tôi chẳng còn tay nào để nhặt đôi tay tôi đã mất.
Nên tôi tiếp tục chạy. Không quá tệ; nó không hề đau. Liền sau đó tôi nhận thấy
của quý của mình đã tuột ra và rơi vào ống quần bên trái. Nó cứ nẩy quanh khó
chịu, rồi mắc kẹt ở gấu quần bằng chun. Tôi chẳng thể làm được gì, nên tôi lờ
nó đi. Rồi tôi lại cảm thấy hai bàn chân của mình đang rạn nứt trong đôi giày
bên dưới, chúng rụng khỏi mắt cá khiến tôi ngã dập mặt xuống đường. Tôi biết
rằng nếu tôi cứ nằm ở đây, tôi sẽ bị những người đang chạy khác dẫm đạp lên
mình, nên tôi bắt đầu lăn lộn. Tôi lăn và lăn cho đến khi ra tới mặt nước biển,
và những con sóng cuốn tôi ra khơi, bên dưới đại dương. Và tôi tỉnh giấc, thở
hổn hển.
Tôi mơ thấy mình đang diễn
ba-lê. Tôi là vũ công nữ chính. Tôi đứng trong phòng thay đồ và bị Barbara,
chuyên viên phục trang của mẹ tôi, quấn lên người bộ váy nỉ bó sát màu hồng.
Barbara là một người cứng cỏi, nên ngay cả khi chân tôi đang đau phát điên, tôi
cũng không dám mở miệng phàn nàn trong lúc bà ân cần ấn hai gót chân của
tôi vào trong đôi giày múa bằng xa-tanh màu hồng dài ngoằng. Xong xuôi, tôi
loạng choạng đứng dậy và rên rỉ. “Đừng có ẻo lả như vậy” Barbara nói, nhưng rồi
bà dịu lại và tiêm cho tôi một liều moóc-phin. Chú Ish xuất hiện ở ngưỡng cửa
phòng thay đồ rồi chúng tôi vội vã đi qua những dãy hành lang bất tận phía sau
sân khấu. Tôi biết chân của mình đang đau mặc dù tôi không thể nhìn thấy hay
cảm nhận được chúng. Chúng tôi hối hả đi đến sàn diễn, và đột nhiên, khi đã đến
bên cánh gà, nhìn vào sân khấu, tôi nhận ra đây là vở kịch Kẹp Hạt
dẻ và tôi sắm vai bà tiên. Chẳng hiểu sao nó khiến tôi khó chịu. Đây
không phải điều mà tôi trông đợi. Nhưng có ai đó khẽ đẩy tôi, và tôi lảo đảo
tiến ra sân khấu. Tôi nhảy. Mắt tôi như đui chột giữa ánh đèn sân khấu, tôi
nhảy mà không cần nghĩ ngợi, không cần biết đến vũ điệu, trong cơn đau mãnh
liệt. Cuối cùng tôi ngã sõng soài, thút thít khóc, và khán giả đứng dậy, vỗ tay
khen ngợi.
Thứ Sáu, 3/9/2006 (Clare
35, Henry 43)
CLARE: Henry giơ củ hành lên
và nhìn tôi vẻ nghiêm trọng. “Đây là củ hành.”
Tôi gật đầu. “Phải, em đã
được đọc về chúng.”
Anh ấy nhướn một bên chân
mày. “Rất tốt. Giờ thì nghe rõ nhé, để lột vỏ hành, em lấy một con dao sắc, cầm
nghiêng củ hành đã nhắc đến ở trên thớt, và bắt đầu cắt hai bên đầu, như thế
này. Rồi em có thể bóc vỏ, như thế này. Được chứ? Giờ thì bắt đầu thái. Nếu em
định làm hành tây tẩm bột chiên thì thái từng lát một, nhưng nếu em muốn nấu
súp hay sốt mì Ý, thì em thái khúc, như thế này.”
Henry đã quyết định sẽ dạy
tôi nấu ăn. Tất cả bàn nấu và tủ bếp đều quá cao so với chiếc xe lăn của anh
ấy, nên chúng tôi ngồi ở bàn ăn, vây quanh bởi chén bát, dao đĩa và hộp đựng
sốt cà chua. Henry đẩy thớt và dao về phía tôi. Tôi đứng dậy, lóng ngón
thái hành tây. Henry kiên nhẫn theo dõi. “Được rồi, tốt lắm. Giờ đến lượt ớt xanh.
Em cắt quanh chỗ này, gọt bỏ cuống.”
Chúng tôi làm sốt cà chua
tỏi, pesto và lasagna. Hôm sau lại làm bánh quy, bánh sô-cô-la hạnh nhân. Alba
mừng rơn. “Nhiều hơn nữa đi ạ,” con bé nài nỉ. Chúng tôi chần trứng và cá hồi,
tự làm pizza. Tôi phải thừa nhận rằng nấu ăn rất thú vị. Nhưng đêm đầu tiên khi
phải tự nấu bữa tối một mình, tôi rất sợ. Tôi đứng trong bếp, vây quanh bởi nồi
niêu xoong chảo. Món măng tây đã quá lửa, và tôi tự làm bỏng mình khi lấy cá
nhám ra khỏi lò. Tôi bày mọi thứ ra đĩa và dọn lên bàn ăn, nơi Henry và Alba
đang ngồi đợi sẵn, đĩa trống đặt trước mặt. Henry mỉm cười động viên. Tôi ngồi
xuống. Henry nâng li sữa và nói “Chúc mừng đầu bếp mới!” Alba cụng li với anh
ấy, và chúng tôi bắt đầu ăn. Tôi nhận ra chúng có vị không tồi. “Ngon lắm mẹ ạ!”
Alba nói, và Henry gật đầu. “Ngon tuyệt!” Henry tán thưởng, chúng tôi nhìn nhau
không rời, và tôi nghĩ,Đừng bỏ em ở lại.
Gậy ông đập lưng ông
Thứ Hai, 18/12/2006, Chủ
Nhật, 2/1/1994 (Henry 43 tuổi)
HENRY: Tôi thức dậy lúc nửa
đêm vì hàng ngàn con côn trùng có răng sắc nhọn như dao cạo đang cắn xé chân
tôi. Trước khi tôi kịp lôi một viên Vicodin ra khỏi lọ, tôi đã ngã xuống. Tôi
gập đôi người lại. Tôi đang nằm trên sàn, những không phải sàn nhà tôi, là của
ai đó khác, vào một đêm khác. Tôi đang ở đâu? Cơn đau khiến mọi thứ trở nên
thật mờ mịt. Căn phòng tối om. Có mùi gì đó khiến tôi nhớ, nhưng nhớ đến gì?
Mùi chất tẩy rửa. Mùi mồ hôi. Mùi nước hoa, rất quen thuộc... không có lẽ?
Tiếng bước chân đi lên cầu
thang, tiếng người xì xầm, tiếng nhiều ổ khoá được mở, tôi có thể trốn
ở đâu đây? và cánh cửa được mở ra. Tôi đang bò trên sàn thì đèn được
bật lên khiến mắt tôi đau nhức. Giọng một phụ nữ thảng thốt, “Ôi Chúa ơi.” Tôi
chửi thầm trong đầu, Không, điều này không thể là sự thực, và
cửa phòng được đóng lại, rồi tôi nghe Ingrid nói, “Celia, chị về đi.” Celia
phản đối. Trong lúc họ đứng tranh cãi phía bên kia cửa, tôi tuyệt vọng nhìn
quanh nhưng không có đường nào để thoát. Đây chắc hẳn là căn hộ của Ingrid ở
đường Clark nơi tôi chưa từng đặt chân đến.
Tất cả đồ vật của cô ấy đang ở xung quanh, vây lấy tôi, chiếc ghế Eames, chiếc
bàn cà phê bằng cẩm thạch có hình hạt đậu chất đầy những cuốn tạp chí thời
trang, chiếc ghế sofa màu cam xấu xí mà chúng tôi thường... Tôi đảo mắt khắp
nơi để tìm thứ gì đó mặc, nhưng mẩu vải duy nhất trong căn phòng chật chội này
là chiếc áo choàng của người Hồi giáo có màu tím vàng đang vất vưởng trên ghế
sofa. Tôi chộp lấy nó và khoác lên người, rồi ngồi phịch xuống ghế. Ingrid mở
cửa bước vào. Cô ấy đứng im một hồi lâu và nhìn tôi, tôi nhìn lại cô ấy và tất
cả những gì tôi có thể nghĩ là Ôi Ing, tại sao em lại đầy đoạ mình như
vậy?
Ingrid trong trí nhớ của tôi
là một thiên thần tóc vàng xinh đẹp cá tính, người tôi đã gặp tại bữa tiệc ở
Jimbo trong ngày Quốc khánh; một Ingrid Carmichael đau khổ nhưng không thể gục
ngã, người đã khoác lên mình một bộ áo giáp bằng tiền tài, sắc đẹp và sự rầu
rĩ. Còn Ingrid đang đứng trước mặt tôi thì hốc hác, khô khan và mệt mỏi; cô ấy
đứng nghiêng đầu nhìn tôi ngạc nhiên và khinh miệt. Có vẻ như chẳng ai trong
chúng tôi biết phải nói với người kia điều gì. Cuối cùng cô ấy cởi áo
khoác, ném nó lên ghế và ngồi xuống đầu bên kia của chiếc sofa. Cô ấy đang
mặc quần da. Chúng khẽ phát ra tiếng rin rít khi cô ấy ngồi xuống.
“Chào Henry.”
“Chào Ingrid.”
“Anh đang làm gì ở đây?”
“Anh cũng không biết. Anh xin
lỗi, anh chỉ... em biết đấy.” Tôi nhún vai. Chân tôi đau đến nỗi tôi chẳng còn
bận tâm mình đang ở đâu.
“Trông anh thật thảm hại.”
“Anh đang rất đau đớn.”
“Thật buồn cười. Em cũng
vậy.”
“Ý anh là đau đớn về thể
xác.”
“Tại sao?” Tôi biết nếu tôi
có tự nhiên bốc cháy trước mặt Ingrid, cô ấy cũng chẳng thèm bận tâm. Tôi kéo
chiếc áo choàng lên, để lộ đôi chân cụt.
Ingrid không giật mình, cũng
không kinh ngạc. Cô ấy không ngoảnh mặt đi chỗ khác. Khi cuối cùng cũng nhúc
nhích, cô ấy nhìn vào mắt tôi, và tôi nhận ra rằng, trong số tất cả mọi người,
chỉ có Ingrid là hiểu hoàn cảnh của tôi lúc này nhất. Đi trên hai con đường
hoàn toàn khác biệt nhưng chúng tôi đã đến cùng một đích. Cô ấy đứng dậy và đi
vào một căn phòng khác. Khi trở ra, cô ấy cầm theo chiếc hộp đựng đồ khâu vá
nhỏ trên tay. Tôi thầm hi vọng. Và hi vọng của tôi được thoả mãn: Ingrid ngồi
xuống, mở nắp hộp, và giống y như ngày xưa cũ, bên trong là một chiếc
hộp khác đựng thuốc, bên cạnh những cái nệm kim và đê bao ngón tay.
“Anh muốn loại nào?”
“Loại có thuốc phiện.” Cô ấy
nhấc lên một cái túi đựng đầy thuốc và đưa cho tôi; tôi nhìn thấy Ultram và lấy
ra hai viên. Sau khi nhét chúng vào miệng, Ingrid lấy cho tôi một cốc nước và
tôi nuốt chúng.
Ingrid đưa bàn tay có
móng dài đỏ chót lên vuốt mái tóc vàng dài. “Anh từ đâu đến?”
“Tháng Mười hai, năm 2006.
Hôm nay ngày bao nhiêu?”
Ingrid nhìn đồng hồ đeo tay
của cô ấy. “Vừa qua mùng một tết. Giờ đã là ngày 2 tháng 1, năm 1994.”
Ôi không. Làm ơn đừng. “Có
chuyện gì vậy?” Ingrid nói.
“Không có gì.” Hôm nay là
ngày Ingrid tự kết thúc đời mình. Tôi có thể nói gì với cô ấy? Liệu tôi có thể
ngăn cô ấy lại? Tôi có nên gọi cho ai đó? “Ing, anh chỉ muốn nói rằng...” tôi
ngần ngại. Tôi có thể nói gì mà không đánh động cô ấy? Mà liệu có còn quan
trọng? Khi cô ấy đã chết? Cho dù cô ấy đang ngồi ngay đây trước mặt tôi?
“Sao?”
Tôi đổ mồ hôi. “Chỉ là... hãy
biết yêu chính mình. Đừng... anh biết em không được hạnh phúc...”
“Và đó là lỗi của ai?” Đôi môi tô son đỏ chót của cô ấy mím chặt. Tôi không
đáp lại. Có phải là lỗi của tôi? Tôi không biết. Ingrid nhìn tôi chằm chằm như
thể cô ấy trông đợi một câu trả lời từ tôi. Tôi quay mặt đi chỗ khác. Tôi nhìn
vào bức tranh của Maholy Nagy trên tường đối diện. “Henry?” Ingrid nói. “Tại sao
anh tàn nhẫn với em như vậy?”
Tôi nặng nhọc đưa mắt nhìn lại cô ấy. “Anh đã vậy sao? Anh không cố ý.”
Ingrid lắc đầu. “Anh đã chẳng bận tâm em sống hay chết.”
Ôi, Ingrid. “Anh có bận tâm. Anh
không muốn em chết.”
“Anh đã không hề bận tâm. Anh
đã bỏ rơi em, và không hề đến bệnh viện thăm em.” Ingrid nói như thể ngôn từ
đang bóp cổ cô ấy.
“Gia đình em đã không cho anh
đến. Mẹ em bảo anh hãy tránh xa em ra.”
“Dù là vậy, anh vẫn nên đến.”
Tôi thở dài. “Ingrid, bác sĩ
của em bảo anh rằng anh không thể vào thăm em.”
“Em đã hỏi, họ bảo rằng anh
không hề gọi điện một lần.”
“Anh đã gọi. Anh được bảo
rằng em không muốn nói chuyện với anh, và bảo anh đừng bao giờ gọi điện cho em
nữa.” Thuốc giảm đau đang bắt đầu ngấm. Cảm giác râm ran ở dưới chân đã lụi
dần. Tôi thò tay xuống dưới tấm áo choàng và sờ vào bàn chân cụt bên trái, rồi
bên phải.
“Em đã suýt chết và anh thì
lặn mất tăm.”
“Anh đã nghĩ em không muốn
nói chuyện với anh nữa. Làm sao anh biết được đó không phải là sự thật?”
“Anh đã kết hôn và không thèm
gọi điện báo cho em biết, lại còn mời Celia đến lễ cưới để chọc tức em.”
Tôi bật cười. “Ingrid, Clare
đã mời Celia. Họ là bạn, chính anh cũng không hiểu tại sao. Có lẽ vì sự khác
biệt hoàn toàn đã tạo nên sự hấp dẫn giữa họ. Dù sao thì, việc đó hoàn toàn
không phải vì em.”
Ingrid chẳng nói chẳng rằng.
Cô ấy trắng nhợt dưới lớp trang điểm. Cô ấy đút tay vào túi áo choàng và lôi
một gói English Ovals cùng bật lửa.
“Em hút thuốc từ bao giờ?”
tôi hỏi. Ingrid ghét thuốc lá. Cô ấy chỉ thích cô-ca, thuốc kích thích, và mê
những món đồ uống có tên thi vị. Cô ấy lôi một điếu thuốc ra khỏi bao bằng hai
ngón tay có móng dài, rồi châm lửa. Tay cô ấy run rẩy. Ingrid rít một hơi dài,
khói len lỏi thoát ra từ giữa đôi môi của cô ấy theo từng lọn cong cong.
“Cuộc sống mà không có đôi
chân của anh như thế nào?” Ingrid hỏi tôi. “Mà chuyện gì đã xảy ra?”
“Hoại tử vì tê cóng. Anh đã
ngất xỉu ở công viên Gran giữa tiết trời tháng Một.”
“Anh đi lại bằng cách nào?”
“Chủ yếu nhờ xe lăn.”
“Ồ, tệ nhỉ.”
“Phải,” tôi nói. “Rất tệ.”
Chúng tôi ngồi trong yên lặng một hồi.
Ingrid hỏi, “Anh vẫn còn kết
hôn chứ?”
“Phải.”
“Con cái gì không?”
“Anh có một cô con gái.”
“Ồ.” Ingrid tựa lưng vào ghế,
rít thuốc và nhả ra một làn khói mỏng từ hai lỗ mũi. “Ước gì em đã có con.”
“Em đã không muốn có con,
Ing.”
Cô ấy nhìn tôi, nhưng tôi
không thể hiểu được cái nhìn đó. “Em luôn muốn có con. Nhưng em đã nghĩ anh
không muốn có, nên em đã không nói gì.”
“Em vẫn có thể có con.”
Ingrid phá lên cười. “Thật
sao? Em có con không, Henry? ở năm 2006, em có chồng, có nhà ở Winnetka và hai,
ba đứa con không?”
“Không hẳn vậy.” Tôi đổi tư
thế ngồi. Cơn đau đã biến mất nhưng cái vỏ của cơn đau còn sót lại, một khoảng
trống nơi đáng lẽ cơn đau phải ngự trị nhưng thay vào đó lại là sự trông đợi
cơn đau sẽ đến.
“Không hẳn vậy”, Ingrid
lặp lại lời tôi. “Không hẳn đến mức nào? Như, ‘Không hẳn vậy, Ingrid ạ. Thực tế
thì em là một bà cô không nhà không cửa’?”
“Em không phải một bà cô
không nhà không cửa.”
“Vậy em sẽ không trở thành
một bà lão vô gia cư. Được, tuyệt lắm.” Ingrid dập tắt thuốc lá và vắt chéo
chân lên nhau. Tôi đã từng yêu đôi chân của Ingrid. Cô ấy đang đi đôi ủng cao
gót. Chắc hẳn cô ấy và Celia vừa trở về từ một bữa tiệc. Ingrid nói, “Chúng ta
đã loại trừ hai trường hợp tồi tệ nhất và tốt đẹp nhất: em không phải một mệnh
phụ ở ngoại thành và không phải dân vô gia cư. Tiếp nào, Henry, hãy cho em thêm
vài gợi ý.”
Tôi im lặng. Tôi không muốn
chơi trò chơi này.
“Được rồi. Hãy chọn lựa từ
nhiều đáp án vậy. Xem nào. A) Em là một vũ công thoát y trong một câu lạc bộ
nhớp nháp ở đường Rush. B) Em phải vào tù vì sát hại Celia và xẻ thịt cô ấy đem
cho Malcolm ăn. Nghe hay đấy. C) Em sống ở Rio del Sol với một nhà trung gian
tài chính giàu có. Thế nào, Henry? Có lựa chọn nào nghe hợp lí với anh không?”
“Malcolm là ai?”
“Con chó Đức của Celia.”
“Anh cũng đoán vậy.”
Ingrid nghịch chiếc bật lửa của mình, cứ bật rồi lại tắt. “Còn đáp án D) Em
đã chết thì sao?” Tôi nao núng. “Nghe có hấp dẫn với anh chút nào không?”
“Không. Không hề.”
“Thật sao? Em thích nó nhất.” Ingrid mỉm cười. Đó không phải một nụ cười
quyến rũ. Nó giống một biểu hiện nhăn nhó, đau đớn, hơn là một nụ cười. “Em
thích nó đến nỗi nó đã gợi ý cho em một việc hay ho.” Cô ấy đứng dậy và sải
bước qua căn phòng, đi vào hành lang. Tôi có thể nghe thấy tiếng cô ấy mở, rồi
đóng, ngăn kéo. Khi xuất hiện trở lại, cô ấy đưa một tay giấu sau lưng. Ingrid
đứng trước mặt tôi và nói, “Ngạc nhiên chưa!” và chĩa súng vào tôi.
Nó không phải một khẩu súng lớn. Nó mỏng, có màu đen, và sáng bóng. Ingrid
giữ nó ngang hông một cách thoải mái, như thể cô ấy đang tham dự một bữa tiệc
cocktail. Tôi nhìn chằm chằm vào khẩu súng. Ingrid nói, “Em có thể bắn anh.”
“Phải, em có thể”, tôi nói.
“Rồi em sẽ bắn chính mình”, cô ấy nói.
“Điều đó cũng có thể xảy ra.”
“Nhưng có thể không?”
“Anh không biết. Ingrid. Em là người quyết định.”
“Thôi vòng vo đi, Henry. Hãy
nói cho em biết”, Ingrid yêu cầu.
“Được rồi. Không. Nó không
diễn ra như vậy.” Tôi cố tỏ ra chắc chắn.
Ingrid cười ngạo nghễ. “Nếu
em muốn nó diễn ra như vậy thì sao?”
“Ingrid, đưa khẩu súng cho
anh.”
“Đến đây mà lấy nó.”
“Em sẽ bắn anh sao?” Ingird
lắc đầu, mỉm cười. Tôi trèo ra khỏi ghế sofa, trèo xuống sàn nhà, và bò lại gần
Ingrid, kéo lê chiếc áo choàng, chậm hơn bình thường vì thuốc giảm đau. Cô ấy
lùi lại, chĩa khẩu súng về phía tôi. Tôi dừng lại.
“Đến đây nào Henry. Chó ngoan
lắm. Chó trung thành lắm.” Ingrid gỡ chốt an toàn và bước lại gần tôi. Tôi căng
thẳng. Cô ấy dí súng vào đầu tôi. Nhưng rồi Ingrid phá lên cười, và chĩa mũi
súng vào thái dương của mình. “Thế này thì sao, Henry? Nó có diễn ra như thế
này không?”
“Không.” Không!
Cô ấy nhăn nhó. “Anh chắc
chứ, Henry?” Ingrid di chuyển khẩu súng xuống ngực. “Thế này thì sao? Đầu hay
ngực, Henry?” Ingrid bước tới. Tôi có thể chạm vào cô ấy. Tôi có thể tóm lấy cô
ấy... Ingrid đá vào ngực tôi và tôi ngã lăn ra sàn, ngước lên nhìn cô ấy.
Ingrid cúi xuống và nhổ vào mặt tôi.
“Anh đã yêu em chứ?” Ingrid
nhìn tôi hỏi.
“Có”, tôi trả lời.
“Nói dối”, Ingrid nói, rồi
bóp cò.
Thứ Hai, 18/12/2006 (Clare
35, Henry 43)
CLARE: Tôi tỉnh giấc lúc nửa
đêm và thấy Henry đã biến mất. Tôi hoảng hốt ngồi bật dậy. Các tình huống tồi
tệ không ngừng diễn ra trong đầu tôi. Anh ấy có thể bị xe đâm, bị mắc kẹt trong
một toà nhà bỏ hoang nào đó, giữa thời tiết băng giá... tôi nghe có tiếng động,
có ai đó đang khóc. Có lẽ là Alba, có lẽ Henry đã đi dỗ dành con bé. Tôi bước
xuống giường và đi đến phòng của Alba, nhưng con bé vẫn đang cuộn mình ngủ bên
cạnh Teddy, chăn của con bé đã bị đạp xuống giường. Tôi đi theo tiếng động qua
hành lang và nhìn thấy Henry đang ngồi trên sàn phòng khách, vùi mặt vào hai
bàn tay mà khóc.
Tôi quỳ xuống bên cạnh anh
ấy. “Có chuyện gì vậy?” tôi hỏi.
Henry ngẩng mặt lên, tôi có
thể nhìn thấy những giọt nước mắt đang chảy trên má của anh ấy sáng lên dưới
ánh đèn đường hắt vào qua cửa sổ. “Ingrid đã chết rồi,” Henry nói.
Tôi đưa tay ôm lấy anh ấy.
“Ingrid đã chết từ lâu rồi, Henry.” Tôi nói khẽ.
Henry lắc đầu. “Hàng năm,
hàng phút... có gì khác nhau?” anh ấy nói. Chúng tôi ngồi trên sàn nhà trong im
lặng. Cuối cùng, Henry nói, “Em nghĩ trời đã sáng chưa?”
“Có lẽ.” Ngoài trời vẫn một
màu u tối. Chẳng có lấy một tiếng chim.
“Hãy đứng dậy thôi”, anh ấy
nói. Tôi kéo xe lăn đến, giúp anh ấy ngồi lên và đẩy vào trong bếp. Tôi đưa áo
choàng tắm cho Henry và anh ấy khó nhọc khoác lên người. Anh ấy ngồi bên bàn ăn,
nhìn đăm đăm ngoài cửa sổ, vào khu vườn đang chìm trong tuyết trắng phía sau
nhà. Xa xa có tiếng xe ủi tuyết đang cạo đường. Tôi bật điện, đổ cà phê vào
phin lọc, đổ nước rồi bật máy pha. Tôi lấy ra hai chiếc cốc. Tôi mở tủ lạnh,
nhưng khi tôi hỏi Henry muốn ăn gì, anh ấy chỉ lắc đầu. Tôi ngồi xuống đối diện
Henry và anh ấy nhìn tôi. Mắt anh ấy đỏ hoe, tóc rối bù. Hai bàn tay anh ấy
khẳng khiu, gương mặt trống rỗng.
“Đó là lỗi của anh”, Henry
nói. “Nếu anh không ở đó...”
“Liệu anh có thể ngăn cản cô
ấy?” Tôi hỏi.
“Không, anh đã cố.”
“Vậy thì đừng đổ lỗi cho
chính mình nữa.”
Máy pha cà phê kêu lên những
tiếng nổ nho nhỏ. Henry đưa tay xoa mặt. Anh ấy nói, “Anh đã luôn tự hỏi tại
sao cô ấy không để lại đôi dòng nhắn nhủ gì.” Tôi đang định hỏi ý anh ấy là gì
thì nhận ra Alba đang đứng ở cửa phòng bếp. Con bé mặc bộ áo ngủ màu hồng, đi
dép lê con chuột màu xanh. Alba nheo mắt và ngáp dài trong ánh sáng chói loà
của căn bếp.
“Chào bé con”, Henry nói.
Alba bước lại gần và ngồi lên đùi anh ấy. “Chào buổi sáng”, Alba đáp.
“Trời chưa sáng đâu”, tôi bảo
con bé. “Vẫn
đang là ban đêm.”
“Tại sao bố mẹ thức giấc lúc nửa đêm ạ?” Alba ngửi ngửi. “Bố mẹ đang pha cà
phê, vậy là buổi sáng rồi.”
“Ồ, là cái định nghĩa cà phê bằng buổi sáng”, Henry nói. “Có lỗ hổng trong
suy luận của con rồi, con gái.”
“Sao cơ ạ?” Alba hỏi lại. Con bé ghét bị sai trong mọi vấn đề, dù là nhỏ.
“Con đang đưa ra kết luận dựa vào dữ liệu không chuẩn xác; con quên mất
rằng bố mẹ nghiện cà phê, và chúng ta ra khỏi giường lúc nửa đêm chỉ để uống
THÊM nhiều cà phê hơn nữa.” Anh ấy gầm gừ lên giả làm một con quỷ, hoặc có lẽ
một người nghiện cà phê.
“Con muốn uống cà phê”, Alba nói. “Con cũng nghiện cà phê.” Con bé gầm gừ
lại với Henry. Anh ấy nhấc con bé lên và đặt nó đứng dậy. Alba chạy vòng qua
bàn về phía tôi rồi con bé ôm chầm lấy tôi và hét “GỪ!” vào tai tôi.
Tôi đứng dậy và bế con bé lên. Nó đã lớn bổng. “Gừ thì cũng đi ngủ, nhé.”
Tôi bế con bé vào phòng và thả nó xuống giường, nó cười ngặt nghẽo. Đồng hồ
điểm 4:16 phút. “Thấy chưa?” Tôi chỉ cho con bé. “Còn quá sớm để con có thể ra
khỏi giường.” Sau một hồi cự nự, Alba cũng chui vào chăn đi ngủ, và tôi quay
trở lại nhà bếp. Henry đã rót cho chúng tôi mỗi người một cốc cà phê. Tôi ngồi
xuống. Trong này thật lạnh.
“Clare.”
“Vâng?”
“Sau khi anh chết...” Henry ngừng nói và nhìn đi chỗ khác, anh ấy thở sâu
rồi tiếp tục. “Anh đã thu xếp mọi việc, giấy tờ, di chúc, và thư gửi mọi người,
những lời nhắn nhủ tới Alba, tất cả đều nằm trong ngăn bàn của anh.” Tôi không
thể tìm được lời đáp lại. Henry nhìn tôi.
“Đó là khi nào?” tôi hỏi. Henry chỉ lắc đầu. “Vài tháng? Vài tuần? Hay vài
ngày nữa?”
“Anh không biết, Clare ạ.”
Anh ấy biết, tôi biết anh ấy biết.
“Anh đã thấy cáo phó của mình
phải không?” tôi hỏi. Henry ngần ngại rồi gật đầu. Tôi mở miệng định hỏi thêm,
nhưng rồi tôi sợ.