Vợ người du hành thời gian - Phần II - Chương 28-29
Hàng giờ, hàng ngày
Thứ Sáu, 24/12/2006 (Henry
43, clare 35)
HENRY: Tôi dậy sớm, rất sớm,
khi căn phòng vẫn còn chìm trong ánh sáng xanh trước lúc rạng đông. Tôi nằm yên
trên giường ngắm nhìn Clare ngủ, lắng nghe tiếng thở sâu của cô ấy, nghe tiếng
giao thông rải rác trên đại lộ Lincoln,
nghe tiếng quạ í ới gọi nhau và tiếng lò sưởi phụt tắt. Chân tôi đau nhức nhối.
Tôi nhổm người dậy để tìm lọ Vicodin trong ngăn bàn đặt đầu giường. Tôi lấy ra
hai viên, tống chúng xuống cổ họng bằng một ngụm cô-ca.
Tôi thả mình trở lại bên dưới
lớp chăn. Clare đang say sưa ngủ, mặt úp xuống gối, tay ôm lấy đầu. Tóc cô ấy
giấu bên dưới chăn, Clare trông nhỏ hơn khi không có mái tóc đỏ của mình. Tư
thế ngủ hồn nhiên của cô ấy khiến tôi nhớ lại khi cô ấy còn nhỏ. Rồi tôi gắng
nhớ lại liệu tôi đã từng thấy Clare ngủ khi còn nhỏ hay chưa, và nhận ra tôi
chưa từng. Tôi đã nhầm với Alba. Ánh sáng đang đổi sắc. Clare cựa mình, quay
người về phía tôi. Tôi ngắm kĩ khuôn mặt của cô ấy. Khoé mắt và miệng của cô ấy
đã điểm xuyết những nếp nhăn, điểm khởi đầu cho khuôn mặt của Clare ở tuổi
trung niên. Tôi sẽ không bao giờ được nhìn khuôn mặt trung niên đó, tôi cay
đắng nuối tiếc, khuôn mặt sẽ đi cùng Clare trong quãng đường sắp tới mà không
có tôi, khuôn mặt sẽ không còn được tôi hôn lên, khuôn mặt thuộc về một thế
giới mà tôi sẽ không được biết, nơi tôi chỉ còn tồn tại trong kí ức của Clare,
một mối liên kết đến quá khứ bất định.
Hôm nay là ngày giỗ thứ 37
của mẹ tôi. Tôi đã không ngừng nghĩ đến bà, mong mỏi được gặp lại bà trong suốt
37 năm đó, và bố tôi đã không một giây thôi nghĩ đến bà. Nếu sự mong nhớ tha
thiết có thể đưa người chết sống lại, bà sẽ là Eurydice[1] của
chúng tôi, bà sẽ hồi sinh như Lady Lazarus, không ngừng trốn thoát khỏi tay tử
thần, để an ủi chúng tôi. Nhưng tất cả những lời kêu than của chúng tôi cũng
không thể mang lại thêm một giây cho cuộc sống của bà, không thể khiến trái tim
bà đập lại thêm một nhịp, khiến lồng ngực bà phập phồng một lần thở. Điều duy
nhất sự mong mỏi của tôi có thể làm là đưa tôi đến gặp bà. Còn Clare sẽ có được
gì sau khi tôi chết? Làm sao tôi có thể bỏ cô ấy ở lại?
[1] Eurydice: Con gái
của thần Apollo, vợ của Orpheus, người đã xuống địa ngục tìm cách tái sinh
Eurydice.
Tôi nghe tiếng Alba nói
chuyện trong phòng con bé. “Này”, Alba nói. “Này, Teddy? Suỵt, hãy đi ngủ đi.”
Im lặng. “Bố ơi?” Tôi nhìn sang Clare xem cô ấy có bị đánh thức bởi tiếng gọi
của Alba. Cô ấy vẫn ngủ say. “Bố ơi!” Tôi rón rén quay người, khẽ chui ra khỏi
chăn và trườn xuống sàn. Tôi bò ra ngoài, qua hành lang và vào phòng của Alba.
Con bé cười khúc khích khi nhìn thấy tôi. Tôi gầm gừ, và Alba vỗ vào đầu tôi
như thể tôi là một con thú. Con bé đang ngồi trên giường, giữa đống thú nhồi
bông của nó. “Nhích ra nào, Cô bé Quàng khăn đỏ.” Alba ngồi dịch vào trong. Tôi
bám lấy giường rồi leo lên. Con bé cuống cuồng thu dọn những con thú nhồi bông
xung quanh tôi. Tôi đưa tay ôm lấy con bé rồi tựa người vào thành, con bé giơ
Teddy Xanh ra trước mặt tôi. “Cậu ấy muốn ăn kẹo dẻo.”
“Vẫn còn quá sớm để ăn kẹo
dẻo, Teddy Xanh ạ. Ăn trứng chần và bánh mì nướng nhé?”
Alba nhăn mặt. Con bé nhăn cả
miệng, mũi và lông mày lại. “Teddy không thích trứng đâu”, con bé nói.
“Suỵt, khẽ nào. Mẹ vẫn còn
đang ngủ.”
“Dạ”, Alba thì thầm lớn
tiếng. “Teddy muốn ăn Jelly-O cơ.” Tôi nghe tiếng Clare rên rỉ và bắt đầu thức
dậy ở phòng bên.
“Cháo yến mạch vậy nhé?” Tôi
thương thuyết. Alba cân nhắc rồi bảo, “Với đường đen được không ạ?”
“Được rồi.”
“Con có muốn tự làm không?”
Tôi trườn khỏi giường.
“Có ạ. Cho con cưỡi bố nhé?”
Tôi ngần ngại. Chân tôi đang
đau khủng khiếp, và Alba hơi quá lớn để làm việc này mà không khiến tôi thêm
đau, nhưng tôi không thể khước từ con bé bất cứ điều gì vào lúc này. “Dĩ nhiên
rồi, nhảy lên nào.” Tôi khuỵu cả hai tay, hai chân xuống sàn. Alba trèo
lên lưng tôi, và chúng tôi thong dong bò vào trong bếp. Clare đang ngái ngủ
đứng bên bồn rửa, nhìn cà phê nhỏ từng giọt vào bình. Tôi trườn về phía cô ấy,
rúc vào đầu gối của cô ấy. Clare nắm lấy tay Alba và nhấc bổng con bé lên. Alba
khúc khích cười không thôi. Tôi bò về ghế của mình. Clare mỉm cười và nói, “Bữa
sáng sẽ có gì vậy, các đầu bếp?”
“Jell-O!” Alba hét inh tai.
“Hừm, Jell-O gì? Jell-O ngô?”
“Khôôông!”
“Jell-O thịt hun khói?”
“Eo ơi!” Alba ôm chầm lấy
Clare, khẽ giật tóc cô ấy.
“Đau quá, đừng làm vậy, bé
con. Thì Jell-O yến mạch vậy.”
“Cháo yến mạch ạ!”
“Jell-O cháo yến mạch, ngon
nhỉ.” Clare lôi ra túi đường đen, sữa và hộp yến mạch. Cô ấy đặt chúng lên mặt
bàn và nhìn tôi dò hỏi. “Còn anh? Jell-O trứng tráng chứ?”
“Nếu em nấu thì anh sẽ ăn.”
Tôi kinh ngạc trước sự lanh lẹ của Clare, di chuyển quanh bếp như thể cô ấy là
Betty Crocker, như thể cô ấy đã làm việc này hàng năm trời. Cô ấy sẽ ổn khi
không có tôi, tôi tự nhủ trong lúc nhìn cô ấy, nhưng tôi biết rằng cô ấy sẽ
không hề ổn. Tôi ngắm Alba trộn nước và bột lúa mạch vào với nhau, và tôi nghĩ
đến Alba khi lên mười, mười lăm, rồi hai mươi tuổi. Quãng thời gian tôi ở bên
họ là chưa đủ. Tôi chưa muốn đi, tôi muốn được ở đây, muốn được nhìn thấy họ và
ôm họ trong lòng, tôi muốn sống...
“Bố đang khóc kìa mẹ ơi”,
Alba thì thầm vào tai Clare.
“Vì bố phải ăn đồ mẹ nấu
đấy”, Clare bảo con bé rồi nháy mắt với tôi, và tôi phải cười.
Đêm giao thừa,
hai
Chủ Nhật, 31/12/2006
(Clare 35, Henry 43)
7 giờ 25 phút tối
CLARE: Chúng tôi sẽ tổ chức
tiệc giao thừa. Lúc đầu Henry tỏ ra miễn cưỡng, nhưng giờ thì anh ấy hoàn toàn
thích thú. Anh ấy đang ngồi bên cạnh bàn ăn và hướng dẫn cách tỉa hoa từ cà rốt
và củ cải cho Alba. Tôi phải thừa nhận rằng tôi đã không cho anh ấy lựa chọn
khác, tôi đề cập đến chuyện mở tiệc trước mặt Alba và con bé rất hứng khởi nên
anh ấy chẳng thể nào khiến con bé thất vọng.
“Sẽ rất vui mà, Henry. Em sẽ
mời tất cả mọi người.”
“Tất cả?” anh ấy hỏi lại,
miệng mỉm cười.
“Tất cả những người chúng ta
yêu mến”, tôi đính chính. Và thế là trong suốt những ngày qua tôi đã
dọn dẹp nhà cửa, còn Henry và Alba nướng bánh (mặc dù mỗi mẻ họ nướng đều chui
vào miệng con bé một nửa nếu chúng tôi không canh chừng). Hôm qua Charisse và
tôi đã đi siêu thị để mua đồ ăn nhẹ, đủ loại rau củ, bia, rượu, champagne, món
khai vị đủ màu sắc, giấy ăn với dòng chữ Chúc mừng năm mới được
in vàng rực, và đĩa giấy cùng màu... Khắp nhà giờ đây có mùi như thịt viên
chiên và cây thông Noel đang quắt queo nhanh chóng trong phòng khách.
Alicia đang rửa li uống rượu
cho chúng tôi.
Henry ngẩng mặt lên nhìn tôi
và nói, “Clare, sắp đến giờ rồi đấy. Em đi tắm đi.” Tôi liếc nhìn đồng hồ và
nhận ra đúng vậy, đã đến giờ.
Tôi nhảy vào bồn tắm, gội
đầu, sấy tóc, mặc quần áo lót, đi tất, xỏ vào chiếc đầm dạ hội bằng lụa màu
đen, đi giày cao gót và xức một chút nước hoa, tô son, soi gương lần cuối rồi
quay trở lại nhà bếp nơi Alba vẫn tinh tươm trong chiếc váy nhung màu xanh của
con bé, còn Henry vẫn đang mặc chiếc áo sơ mi vải dệt màu đỏ thủng lỗ
chỗ và chiếc quần jeans rách màu xanh.
“Anh không định thay đồ sao?”
“Ồ, phải rồi. Giúp anh chứ?”
Tôi đẩy xe đưa anh ấy vào phòng ngủ.
“Anh muốn mặc gì?” Tôi lục
ngăn tủ để tìm quần lót và tất.
“Gì cũng được. Tuỳ em chọn.”
Henry đưa tay đóng cửa phòng ngủ. “Lại đây nào.”
Tôi ngừng lục lọi và nhìn
Henry. Anh ấy giữ thắng xe lăn và trèo lên giường.
“Chúng ta sẽ muộn mất”, tôi
nói.
“Đúng thế, vậy nên hãy nhanh
làm việc chính thôi.” Giọng anh ấy thủ thỉ và đầy thuyết phục. Tôi chốt cửa
phòng.
“Em vừa mới thay đồ...”
“Suỵt, thôi nào.” Anh ấy đưa
tay về phía tôi, lòng tôi chùng lại, rồi tôi ngồi xuống bên cạnh anh ấy, và ý
nghĩ một lần cuối vụt lên trong đầu tôi.
(8 giờ 5 phút tối)
HENRY: Chuông cửa kêu lên
đúng lúc tôi đang thắt cà vạt. Clare băn khoăn hỏi, “Trông em ổn chứ?” Cô ấy
trông rất đẹp, hồng hào và đáng yêu, và tôi nói với cô ấy như vậy. Chúng tôi ra
khỏi phòng ngủ trong lúc Alba chạy đi mở cửa và hét toáng lên “Chào ông nội!
Chào bà Kim!” Bố tôi dậm mạnh đôi ủng đang bám đầy tuyết xuống sàn rồi cúi
người ôm lấy con bé. Clare hôn lên má ông. Bố tôi đưa áo khoác của mình
cho Clare như để tưởng thưởng. Alba bám dính lấy Kimy và dẫn bà đi xem cây Noel
trước cả khi bà kịp cất áo choàng.
“Chào con, Henry”, bố tôi mỉm
cười nói, cúi người về phía tôi và bất chợt tôi nhận ra: trong buổi tối hôm
nay, cuộc đời tôi sẽ tái hiện ra trước mắt. Chúng tôi đã mời tất cả những người
quan trọng trong cuộc đời mình: bố, Kimy, Alicia, Gomez, Charisse, Philip,
Mark, Sharon và con cái họ, Roberto, Catherine, Isabelle, Matt, Amelia,
bạn trong lĩnh vực nghệ thuật của Clare, bạn đại học của tôi, bố mẹ của bạn bè
Alba, môi giới của Clare, và cả Celia Attley – sau một hồi nài nỉ của Clare.
Những người vắng mặt là những người không thể đến vì lí do bất khả kháng: mẹ
tôi, Lucile, Ingrid... Chúa ơi, đừng mang tôi đi.
(8 giờ 20 phút tối)
CLARE: Gomez và Charisse xuất
hiện như những phi công cảm tử Nhật. “Này, Nhóc thủ thư lười biếng, cậu không
bao giờ dọn tuyết trên vỉa hè nhà mình hả?”
Henry vỗ tay vào trán, đáp,
“Tôi biết ngay là đã quên việc gì đó mà.” Gomez ném chiếc túi đựng đầy đĩa CD
vào đùi Henry rồi bỏ đi dọn vỉa hè. Charisse cười rộ và đi theo tôi vào trong
bếp. Cậu ấy lôi ra một chai vodka Nga to tướng và nhét nó vào trong tủ lạnh.
Chúng tôi nghe thấy tiếng Gomez đang ông ổng hát “Let it snow” trong lúc anh ấy
dọn tuyết dọc căn nhà.
“Lũ trẻ đâu hết rồi?” tôi hỏi
Charisse.
“Bọn tớ gửi chúng ở nhà bà
ngoại. Tớ nghĩ chúng sẽ thích ở bên bà ngoại trong đêm giao thừa hơn. Chưa kể,
cậu biết đấy, bọn tớ muốn chịu tàn tích của rượu chè trong riêng tư.” Tôi chưa
bao giờ nghĩ nhiều đến việc đó; tôi chưa từng say kể từ khi Alba tra đời. Alba
chạy ùa vào trong bếp và ôm chầm lấy Charisse. “Xin chào, cô bé! Cô chú có
quà Giáng sinh cho cháu đây!”
Alba nhìn tôi dò xét. “Mở nó
ra đi.” Đó là một bộ đồ cắt móng tay nhỏ xíu, đi kèm với lọ sơn móng tay. Alba
kêu lên sung sướng. Tôi vỗ nhẹ vào người con bé, và mở nó ra.
“Cảm ơn cô Charisse.”
“Không có gì, Alba.”
“Con đem khoe với bố đi”, tôi
bảo con bé, và nó liền chạy về phía phòng khách. Tôi thò đầu vào hành lang để
nhìn Alba hớn hở chìa món quà cho Henry xem, anh ấy xoè bàn tay ra cho con bé
như thể đang trải qua cơn phẫu thuật rút móng. “Món quà tuyệt lắm”, tôi bảo
Charisse.
Cậu ấy mỉm cười, “Đó là ước
mơ hồi nhỏ của tớ. Tớ đã muốn trở thành một chuyên gia chăm sóc sắc đẹp khi lớn
lên.”
Tôi cười, “Nhưng cậu không đủ
khả năng để biến nó trở thành sự thật, nên thay vào đó cậu đã trở thành một
nghệ sĩ.”
“Tớ đã gặp Gomez và nhận ra
rằng, không ai có thể lật đổ hệ thống điều hành coi nhẹ nữ quyền của giai cấp
tư bản bằng việc uốn tóc.”
“Dĩ nhiên là chúng ta cũng đã
không thực sự lật đổ nó bằng việc bán các tác phẩm nghệ thuật cho nó.”
“Nói thì phải ngẫm đến mình,
cô bạn thân mến. Cậu thì chỉ biết đam mê cái đẹp.”
“Thật áy náy quá.” Chúng tôi
thong thả đi vào phòng ăn rồi Charisse bắt đầu chất đầy đồ ăn lên đĩa của mình.
“Gần đây cậu đang làm gì?” tôi hỏi Charisse.
“Nghệ thuật virus máy tính.”
“Ồ, chẳng phải như vậy là
phạm pháp sao?”
“Không hẳn, tớ chỉ thiết kế
rồi vẽ chúng lên phông nền và đem đi triển lãm. Tớ không thực sự phát tán
chúng.”
“Nhưng có thể sẽ có người
phát tán.”
“Phải.” Charisse cười ranh mãnh. “Tớ hi vọng họ sẽ làm vậy. Gomez cứ không
ngừng chế giễu, nhưng một vài trong số những bức tranh nhỏ nhoi này đủ sức gây
nhiều phiền toái cho Ngân hàng Thế giới và Bill Gates cùng những kẻ khốn làm ra
máy ATM.”
“Dù sao cũng chúc cậu may
mắn. Khi nào triển lãm?”
“Tháng Năm. Tớ sẽ gửi thư mời
cho cậu.”
“Khi nào nhận được nó, tớ sẽ
biết đường để chuyển đổi tài sản của mình sang vàng khối và nhét chúng vào bình
nước đóng chai.”
Charisse cười. Catheine và
Alicia vừa xuất hiện, nên chúng tôi ngừng nói chuyện về sự hỗn loạn của thế
giới qua nghệ thuật và chuyển sang khen ngợi đầm dạ hội của nhau.
(8 giờ 50 phút tối)
HENRY: Khắp nhà chật ních
những người thân thiết và gần gũi nhất của chúng tôi, một vài trong số họ tôi
đã không được gặp kể từ sau ca phẫu thuật. Leah Jacobs – người môi giới của
Clare – rất lịch thiệp và tử tế, nhưng tôi khó có thể chịu được sự thương hại
trong ánh mắt của cô ấy. Celia khiến tôi bất ngờ khi lại gần tôi và chìa tay
ra. Tôi nhận lấy nó, và cô ấy nói, “Tôi rất tiếc khi thấy cậu như thế này.”
“Còn cô trông rất tuyệt”, tôi
nói, và đó là sự thật. Tóc cô ấy vén cao, quần áo độc màu xanh lấp lánh.
Celia nói
bằng giọng ngọt như bông đường của cô ấy, “Tôi thích cậu khi cậu còn
là một kẻ chẳng ra gì hơn, tôi dễ dàng ghét cái thân hình mảnh khảnh trắng trẻo
của cậu hơn.”
Tôi cười, “Ôi, những ngày
tháng tươi đẹp.”
Celia lục trong túi xách và
lôi ra một bức ảnh. “Tôi tìm thấy cái này trong đống đồ của Ingrid đã lâu. Tôi
nghĩ có lẽ Clare sẽ thích nó.” Cô ấy đưa cho tôi bức ảnh. Đó là ảnh của tôi, có
lẽ khoảng năm 1990. Tóc tôi để dài và tôi đang cười, cởi trần đứng trên bãi
biển đường Cây Sồi. Đó là một bức ảnh đẹp. Tôi không nhớ Ingrid đã chụp nó khi
nào, nhưng dù sao thì, hầu hết quãng thời gian của tôi bên Ing giờ đây chỉ còn
là một khoảng trống.
“Phải, tôi cược rằng cô ấy sẽ
rất thích nó. Memento mori[1].” Tôi trả lại bức ảnh
cho Celia.
[1] Memeto mori: một
câu thành ngữ tiếng Latin, có nghĩa “Hãy nhớ rằng ngươi sẽ chết”, không ai có
thể sống mãi.
Cô ấy nhìn tôi sắc lẹm, “Cậu
chưa có chết, Henry DeTamble ạ.”
“Không lâu nữa đậu, Celia.”
Celia cười. “Vậy thì nếu cậu
xuống địa ngục trước tôi, nhớ giữ cho tôi một chỗ bên cạnh Ingrid.” Cô ấy quay
đi tìm Clare.
(9 giờ 45 phút tối)
CLARE: Lũ trẻ đã chạy quanh
không ngừng và đã ăn quá nhiều nên giờ chúng trở nên xộc xệch và buồn ngủ. Tôi
gặp Colin Kendrick trong hành lang và hỏi cậu bé có muốn đi ngủ không; cậu bé
long trọng nói với tôi rằng cậu bé muốn được thức cùng người lớn. Tôi xúc động
trước sự lịch thiệp và vẻ đẹp của tuổi mười bốn, vẻ ngượng ngùng của cậu bé
trước mặt tôi, cho dù cậu bé đã biết tôi trong suốt cuộc đời mình. Ngược lại,
Alba và Nadia Kendrick không được tự chủ bằng. “Mẹ”, Alba nhõng nhẽo, “mẹ đã
nói bọn con có thể thức cùng mà?”
“Phải rồi, nhưng con không
muốn chợp mắt một chút sao? Mẹ sẽ đánh thức con dậy khi giao thừa đến.”
“Không chịu đâu!” Kendrick
đang đứng nghe cuộc thương thuyết, tôi nhún vai với ông ấy, và ông ấy bật cười.
“Thật là cặp đôi bất kham.
Được rồi, các cô gái, hãy vào phòng Alba và yên lặng chơi trong giây lát đi.”
Chúng vùng vằng bỏ đi. Tôi chắc rằng chỉ sau vài phút, chúng sẽ lại vui vẻ chơi
với nhau.
“Rất vui khi được gặp lại cô,
Clare”, Kendrick nói trong lúc Alicia thong thả bước tới gần.
“Clare, trông bố kìa.” Tôi
nhìn theo ánh mắt của Alicia và nhận ra bố tôi đang tán tỉnh Isabelle. “Ai
đấy?”
“Ôi trời”, tôi cười lớn. “Đó
là Isabelle Berk.” Tôi giải thích quan điểm và xu hướng tình dục hà khắc của
Isabelle cho Alicia biết. Chúng tôi cười ngặt nghẽo đến thở không ra hơi. “Hoàn
hảo, tuyệt vời. Ôi, chết mất”, Alicia nói trong nước mắt.
Richard đang bước lại gần thì
khựng lại trước sự kích động của chúng tôi. “Có chuyện gì thú vị vậy, các quý
cô xinh đẹp?”
Chúng tôi lắc đầu, vẫn không
ngừng khúc khích. “Họ đang mỉa mai nghi lễ chọn bạn tình của đấng sinh thành
đầy uy quyền của bọn họ”, Kendrick nói. Richard gật đầu ngơ ngác, và hỏi Alicia
về lịch biểu diễn mùa xuân của con bé. Họ vừa đi về phía nhà bếp vừa trò chuyện
về Bartok. Kendrick vẫn đang đứng cạnh tôi, đợi để nói về điều tôi không muốn
nghe. Tôi định cáo lui thì ông ấy đặt tay lên tay tôi.
“Đợi đã, Clare...” Tôi đợi.
“Tôi rất xin lỗi”, ông ấy nói.
“Không sao đâu, David.” Chúng
tôi nhìn nhau đăm đăm trong giây lát. Rồi Kendrick lắc đầu và mò mẫm tìm thuốc.
“Nếu khi nào cô muốn ghé qua phòng thí nghiệm, tôi sẽ chỉ cho cô xem những gì
chúng tôi đang làm cho Alba...” Tôi đảo mắt khắp nơi tìm Henry. Gomez đang dạy
Sharon điệu rumba trong phòng khách. Mọi người đều đang vui vẻ, chỉ có Henry là
chẳng thấy tăm hơi. Ít nhất đã 45 phút tôi chưa nhìn thấy anh ấy. Tôi nóng lòng
muốn tìm anh ấy, muốn chắc chắn rằng anh ấy vẫn ổn, rằng anh ấy vẫn đang ở
đây. “Xin thứ lỗi”, tôi nói với Kendrick, người có vẻ như vẫn đang muốn
tiếp tục cuộc trò chuyện. “Để lần khác nhé, khi yên tĩnh hơn.” Ông ấy gật đầu.
Dù sao thì Nancy Kendrick cũng đang xuất hiện trở lại với Colin lẽo đẽo theo
sau, khiến cuộc trò chuyện là bất khả thi. Họ hồ hởi lao vào chủ đề khúc côn
cầu trên băng, còn tôi lẻn trốn.
(9 giờ 48 phút tối)
HENRY: Trong nhà đang dần
nóng lên, tôi cần phải ra ngoài hóng gió một lát nên đã đẩy xe ra hiên nhà
ngồi. Tôi vẫn nghe thấy tiếng mọi người trò chuyện trong phòng khách. Tuyết
đang rơi nhanh và dày hơn, che phủ khắp các bụi cây và xe cộ, làm mềm những
đường nét cứng cáp của chúng và ngăn chặn âm thanh của giao thông trên các con
lộ. Một đêm tuyệt đẹp. Tôi mở cửa chắn giữa hiên nhà và phòng khách.
“Này, Gomez.”
Gomez phi nước kiệu chạy lại
và thò đầu ra cửa, “Sao?”
“Ra ngoài này một chút đi.”
“Lạnh lắm.”
“Đi nào, lão già hom hem yếu
đuối.”
Có gì đó trong ngữ điệu của
tôi đã làm Gomez cắn câu. “Được rồi, được rồi. Chờ chút coi.” Cậu ấy biến mất
và quay trở lại sau vài phút, áo choàng khoác trên người, tay cầm áo của tôi.
Trong lúc tôi loay hoay mặc áo, Gomez chìa chai rượu đút túi của cậu ấy về phía
tôi.
“Ồ, không, cảm ơn cậu.”
“Là Vodka. Cho ấm người.”
“Phản ứng với thuốc phiện.”
“Ồ, phải. Đãng trí làm sao.” Gomez đẩy tôi qua phòng khách. Khi ra đến đầu
bậc thềm, cậu ấy nhấc bổng tôi lên, và cõng tôi trên lưng như một đứa trẻ, như
một con khỉ, rồi chúng tôi bước qua cửa chính, không khí lạnh như một lớp vỏ
cứng bọc lên người. Tôi có thể ngửi thấy mùi rượu trong mồ hôi của Gomez. Đâu
đó ngoài kia, đằng sau ánh sáng chói loà hào nhoáng của Chicago, những ngôi sao
đang trú ngụ trên bầu trời.
“Này chiến hữu.”
“Hử?”
“Cảm ơn cậu về mọi chuyện. Cậu đã là một người bạn tuyệt vời...” Tôi không
thể nhìn thấy mặt Gomez, nhưng tôi có thể cảm nhận được cậu ấy đang cứng người
lại bên dưới lớp quần áo.
“Cậu đang muốn nói gì?”
“Nữ thần báo tử của tớ đã cất tiếng hát rồi, Gomez. Thời gian đã hết. Cuộc
chơi đã tàn.”
“Khi nào?”
“Sớm thôi.”
“Sớm đến mức nào?”
“Tớ không biết”, tôi nói dối. Rất, rất sớm thôi. “Tớ chỉ muốn nói rằng...
tớ biết đôi khi tớ đã cư xử như một thằng khốn”, (Gomez bật cười) “nhưng chúng
ta đã có những khoảng thời gian vui vẻ”, (tôi ngừng lại vì đang chực khóc) “rất
vui vẻ”, (và chúng tôi đứng đó, hai người đàn ông ăn nói vụng về, hơi thở đóng
băng thành những luồng khói trắng trước mặt, tất cả những lời muốn nói bị bỏ
lại không thể nói ra) và cuối cùng tôi nói, “Hãy vào nhà thôi.” Trong lúc nhẹ
nhàng đặt tôi xuống xe lăn, Gomez ôm lấy tôi trong giây lát, rồi nặng nề bước
đi mà không ngoảnh lại.
(10 giờ 15 phút tối)
CLARE: Henry không có trong phòng khách, nơi mọi người đang tụm nhau lại và
nhảy, theo nhiều phong cách khác lạ, theo giai điệu của Squirrel Nut Zippers.
Charisse và Matt đang nhảy gì đó trông như cha-cha, còn Roberto đang khiêu vũ
khá tinh tế cùng Kimy, người di chuyển nhẹ nhàng nhưng vững chãi. Gomez đã bỏ
rơi Sharon để nhảy cùng Catherine, người đang kêu oai oái khi anh ấy xoay cô
vòng vòng và cười sặc sụa khi anh ấy dừng lại để châm thuốc.
Henry không có trong bếp, nơi đang bị chiếm dụng bởi Raoul, James, Lourdes
và số còn lại của những người bạn hoạ sĩ của tôi. Họ đang tiêu khiển cho nhau bằng
các câu chuyện về những điều tồi tệ mà các nhà môi giới nghệ thuật làm với nghệ
sĩ và ngược lại. Lourdes đang kể chuyện về cái lỗ mà tác phẩm của Ed Kienholtz
đã để lại trên chiếc bàn đắt tiền của người môi giới của anh ta. Họ hùa nhau
cười phá lên thích thú. “Đừng để Leah nghe được những gì cậu nói”, tôi chòng
ghẹo. “Leah đâu rồi?” James lên tiếng. “Tôi cược rằng cô ấy có nhiều chuyện thú
vị để kể...” Nói đoạn James bỏ đi tìm người môi giới của tôi, người đang uống
cognac với Mark ở cầu thang.
Ben đang tự pha cho mình một cốc trà. Anh ấy lôi ra chiếc túi đựng đủ loại
thảo dược bên trong, rồi cẩn thận đo số lượng đổ vào trong túi lọc và nhúng nó
vào cốc nước nóng. “Anh có thấy Henry đâu không?” tôi hỏi.
“Có, tôi vừa nói chuyện với cậu ấy. Cậu ấy đang ở hiên trước.” Ben lén nhìn
tôi. “Tôi khá lo lắng về Henry. Cậu ấy có vẻ rất buồn. Cậu ấy có vẻ...” Ben
dừng lại và khua tay ngụ ý có lẽ tôi nhầm “cậu ấy khiến tôi
nghĩ đến thái độ của một số bệnh nhân cũ, khi họ biết mình không còn sống được
bao lâu nữa...” Ruột gan tôi thắt lại.
“Anh ấy đã trở nên khá buồn rầu kể từ khi đôi chân không còn...”
“Tôi biết. Nhưng cậu ấy nói chuyện như thể đang chuẩn bị bước lên chuyến
tàu sắp rời bến. Cậu ấy nói với tôi...” Ben hạ giọng thủ thỉ, khiến tôi khó có
thể nghe rõ anh ấy nói gì. “Cậu ấy nói với tôi rằng cậu ấy rất quý tôi, và cảm
ơn tôi... Ý tôi là, người ta, đàn ông,không nói những điều như vậy
trừ khi họ không còn sống được bao lâu nữa.” Mắt Ben mọng nước sau cặp kính
cận. Tôi quàng tay ôm lấy anh ấy, và chúng tôi đứng như vậy trong giây lát, hai
tay tôi giữ lấy thân hình rũ rượi của Ben. Mọi người đang trò chuyện xung quanh
chúng tôi, ngó lơ chúng tôi. “Tôi không muốn sống lâu hơn bất kì ai tôi biết”,
Ben nói. “Chúa ạ, sau khi uống cái thứ khủng khiếp này và sống dặt dẹo ốm yếu
suốt 15 năm, tôi cứ nghĩ tôi đã có được cái quyền tụ họp tất cả mọi người xung
quanh quan tài của tôi và nói, ‘Cậu ấy đã tranh đấu cho đến hơi thở cuối cùng’,
hay điều gì tương tự. Tôi đã hi vọng Henry sẽ ở đó và trích lời Donne, ‘Hỡi
Tử thần, đừng có kiêu ngạo, cái thằng khốn nhà ngươi’. Và đó sẽ là một
tang lễ xúc động.”
Tôi bật cười. “Nếu Henry không thể có mặt, tôi sẽ thay anh ấy làm việc đó.
Tôi sẽ bắt chước một Henry ác khẩu.” Tôi nhướn một bên chân mày, hất cao cằm,
và hạ giọng: “Một giấc ngủ ngắn trôi qua, ta muôn đời tỉnh giấc, và Tử thần
sẽ chỉ biết ngồi trong bếp lúc ba giờ sáng trong chiếc quần đùi của hắn và chơi
ô chữ tuần trước...” Ben phì cười. Tôi hôn lên gò má nhẵn thín xanh
xao của anh ấy rồi bước đi.
Henry đang ngồi một mình ngoài mái hiên trong bóng tối, nhìn tuyết rơi. Tôi
đã không ngó ra ngoài cửa sổ cả ngày nay, nên giờ tôi mới nhận ra tuyết đã rơi
nặng hạt trong hàng giờ đồng hồ. Máy ủi tuyết đang ì ạch lăn trên đại lộ
Lincoln, và những người hàng xóm của chúng tôi đang cặm cụi xúc tuyết trên vỉa
hè nhà họ. Mặc dù mái hiên được vây kín nhưng vẫn thật lạnh.
“Hãy vào nhà nhé”, tôi nói. Tôi đứng bên cạnh Henry, ngắm một chú chó chạy
tung tăng trên tuyết bên kia đường. Henry đưa tay ôm lấy tôi và dựa đầu vào
hông tôi.
“Anh ước gì chúng ta có thể khiến thời gian ngừng lại giây phút này”, anh
ấy nói. Tôi đưa tay vuốt tóc anh ấy. Chúng khô cứng và dày hơn trước, khi chúng
chưa điểm bạc.
“Clare”, anh ấy nói.
“Henry.”
“Đã đến lúc...” anh ấy ngừng
lại.
“Sao cơ?”
“Đã... Anh sắp...”
“Ôi Chúa ơi.” Tôi ngồi xuống
trường kỉ, đối mặt với Henry. “Nhưng... đừng. Hãy ở lại với em.” Tôi nắm chặt
đôi bàn tay của anh ấy.
“Đó là sự đã rồi. Nào, hãy để
anh được ngồi gần em.” Anh ấy đu người khỏi xe lăn và ngồi xuống trường kỉ.
Chúng tôi nằm xuống trên tấm vải lạnh tái tê. Tôi run rẩy dưới lớp vải mỏng
tang của chiếc đầm dạ vũ. Trong nhà, mọi người vẫn đang cười nói và nhảy múa.
Henry đưa tay ôm lấy tôi, giữ ấm cho tôi.
“Tại sao anh không nói với
em? Tại sao anh để em mời tất cả những người này đến?” Tôi không muốn nổi giận,
nhưng không khỏi bộc phát.
“Anh không muốn em ở một
mình... sau khi anh chết. Và anh cũng muốn được nói lời tạm biệt với tất cả mọi
người. Tối nay là một đêm tuyệt diệu, là một lời chú tụng cuối...” Chúng tôi
nằm đó trong im lặng một hồi. Tuyết cũng im lặng rơi.
“Mấy giờ rồi?”
Tôi nhìn đồng hồ. “Hơn 11 giờ
một chút.” Ôi Chúa ơi, Henry kéo tấm chăn từ chiếc ghế bên cạnh, và chúng tôi
choàng nó lên người nhau. Tôi không thể tin được điều này. Tôi đã biết giây
phút này sẽ đến, sớm hay muộn, nhưng giờ thì nó thực sự đã đến, và chúng tôi
chỉ nằm đây, chờ đợi...
“Ôi, tại sao chúng ta không
thể làm được điều gì đó?” Tôi thì thầm vào tai Henry.
“Clare...” Hai tay Henry ôm
chặt lấy tôi. Tôi nhắm mắt lại.
“Hãy ngăn nó, hãy khước từ nó
khỏi diễn ra. Hãy thay đổi nó!”
“Ôi, Clare.” Henry thổn thức,
tôi ngước lên nhìn anh ấy. Mắt anh ấy loé lên những giọt nước mắt trong ánh
sáng phản chiếu từ tuyết. Tôi đặt má lên vai Henry. Anh ấy vuốt tóc tôi. Chúng
tôi nằm đó, tưởng chừng như cả thế kỉ đã trôi qua. Henry đổ mồ hôi. Tôi đưa tay
lên má anh ấy và nhận ra anh ấy đang nóng bừng lên vì cơn sốt.
“Mấy giờ rồi?”
“Đã gần nửa đêm.”
“Anh sợ.” Tôi nắm chặt lấy
tay Henry, kẹp chặt chân anh ấy. Thật khó để tin rằng Henry rất cứng cỏi, người
đàn ông của cuộc đời tôi, Henry trong thân thể hữu hình mà tôi đang ghì chặt
lấy bằng tất cả sức mạnh của mình, lại có thể biến mất.
“Hôn anh đi!”
Tôi hôn Henry, và rồi tôi còn
lại một mình dưới tấm chăn, trên chiếc ghế trường kỉ trong mái hiên lạnh lẽo.
Những bông tuyết vẫn rơi đều đặn. Trong nhà, tiếng nhạc đã ngừng chơi và tôi
nghe Gomez nói, “Mười! Chín! Tám” và mọi người đồng thanh hùa theo, “Bảy! Sáu!
Năm! Bốn! Ba! Hai! Một! Chúc mừng năm mới!”và tiếng nắp chai
champagne được mở ra, rồi mọi người lại bắt đầu trò chuyện cùng một lượt, và có
ai đó nói, “Henry và Clare đâu rồi?” Đâu đó ngoài kia có người đốt pháo hoa.
Tôi đưa tay ôm mặt và chờ đợi.