Lolita - Phần II - Chương 07 - 08 - 09

Chương 7

Giờ đây tôi đứng trước cái nhiệm vụ ghê tởm là ghi lại sự sa ngã dứt khoát về đạo đức của Lo. Nếu như em chẳng bao giờ đóng góp nhiều nhặn gì vào những ngọn lửa nồng nàn mà em đã khơi dậy thì, mặt khác, em cũng không hề đặt chuyện lợi lộc đơn thuần lên hàng đầu. Nhưng tôi là người yếu đuối, tôi không khôn ngoan, cô bé học sinh tiểu nữ thần của tôi cầm giữ tôi trong thân phận nô lệ. Trong khi yếu tố nhân bản teo lại, thì đam mê, âu yếm và đau đớn chỉ càng tăng lên; và em lợi dụng điều đó.

Khoản tiêu vặt tôi cấp cho em hằng tuần, với điều kiện em hoàn thành nghĩa vụ cơ bản của mình, là hai mươi mốt cent vào giai đoạn đầu thời kì ở Beardsley - và tăng lên đến một đô la năm cent vào hồi kết thúc. Đó là một sự thu xếp còn trên cả mức rộng rãi, tính cả những món quà nho nhỏ tôi thường xuyên tặng em và bất kì thứ đồ ngọt nào hay bộ phim lãng mạn mùi mẫn nào em yêu cầu - mặc dù đương nhiên là tôi thường âu yếm đòi thưởng thêm một cái hôn hoặc thậm chí cả một bộ liên hoàn đủ các kiểu vuốt ve mơn trớn khi tôi bắt thóp em đang rất thèm một thú tiêu khiển trẻ trung nào đó. Tuy nhiên, xử trí với em không phải là chuyện dễ. Thái độ cực kì ơ hờ của em thật chẳng xứng đáng được hưởng ba đồng một cent hay ba đồng năm cent mỗi ngày; và em tỏ ra là một tay sừng trong thương thảo mỗi khi đem quyền lực để từ chối tôi một số bùa mê kì lạ, có khả năng làm tan nát đời ta, mà cũng có thể từ từ đưa ta tới cực lạc thiên đường, thứ bùa mê mà tôi không thể sống quá vài ba ngày liền nếu thiếu, thứ bùa mê mà, do bởi chính bản chất mơ mơ màng màng của tình yêu, tôi không thể giành được bằng vũ lực. Biết rõ cái ma thuật và uy lực của cặp môi êm ái của mình, em có thể - chỉ trong vòng một năm học! - ép tôi nâng mức thưởng cho một cú ôm ghì đặc biệt lên tới ba, thậm chí bốn đô. Ôi Độc Giả! Xin đừng cười khi quí vị hình dung tôi, đau đớn trong khoái lạc, ồn ã ói ra những đồng mười cent và hai mươi lăm cent và cả những đồng đô la bạc lớn, như một cái máy ầm vang, leng keng và hoàn toàn điên khùng nôn ra của cải; và bên lề cơn động kinh chồm chồm ấy, em nắm chặt mớ tiền đồng trong bàn tay bé nhỏ, mà dù sao sau đó, tôi cũng nậy ra thu hồi lại, trừ phi em truội ra được khỏi tôi, vùng chạy đi để giấu món chiến lợi phẩm của mình. Và cũng như cứ cách một vài ngày, tôi lại lượn lờ quanh khắp khu vực trường và lê đôi chân hôn mê la cà các hiệu thuốc tây, và dõi mắt vào những con hẻm mù sương, và lắng nghe những tiếng cười con gái xa dần xen giữa những nhịp đập trái tim mình cùng tiếng lá rơi, thi thoảng tôi lại lẻn vào phòng em, lục lọi đám giấy rách trong cái bồ rác có họa tiết hoa hồng và dò tìm dưới gối chiếc giường trinh trắng tôi vừa tự tay dọn lại. Một lần, tôi tìm thấy tám tờ một đô trong một cuốn sách của em (thật ứng hợp, đó là cuốnTreasure Island [1]) và một lần khác, một cái hốc trên tường đằng sau bức Mẹ của Whistler [2] chứa hai mươi bốn đô có lẻ - chính xác là hai mươi bốn đô sáu mươi; tôi lặng lẽ thu hồi và ngay hôm sau, trước mặt tôi, em thẳng thừng kết tội bà Holigan là một tên ăn trộm bẩn thỉu. Cuối cùng, em cũng tỏ ra xứng đáng với chỉ số IQ của mình bằng cách tìm ra một chỗ giấu an toàn hơn mà tôi không bao giờ mò ra được; nhưng vào thời điểm đó, tôi đã quyết liệt hạ mức giá xuống bằng cách bắt em phải chịu trận đến lợm giọng mới được phép tham gia chương trình sân khấu của nhà trường; bởi vì điều tôi sợ nhất không phải là em có thể làm tôi lụn bại, mà là em có thể tích lũy đủ tiền mặt để cao chạy xa bay. Tôi tin rằng cô bé có đôi mắt dữ dằn tội nghiệp của tôi ngỡ là chỉ với năm mươi đô la trong ví, em có thể tìm cách tới được Broadway hay Hollywood - hoặc căn bếp nhớp nhúa của một tiệm ăn (Cần tuyển phụ bếp) ở một bang trước kia là thảo nguyên, đầy gió, và sao nhấp nháy, và xe hơi qua lại, và quán bar, và những gã barmen, và tất thảy trở nên ô uế, rách nát, chết rụi.

[1] Đảo giấu vàng, tác phẩm của nhà văn Xcôtlen R. L. Stevenson (1850-1894).

[2] James McNeill Whistler (1834-1903), họa sĩ Mĩ gốc Anh. Tên chính xác của bức chân dung mẹ ông là “Bố cục Xám và Đen”.

Chương 8

Tôi đã làm hết sức mình, thưa ngài Thẩm phán, để giải quyết vấn đề bọn con trai. Ôi, thậm chí tôi còn thường xuyên đọc một mục gọi là Dành cho Tuổi Thiếu Niên trên tờ Star của Beardsley để tìm hiểu xem nên hành xử như thế nào!

Đôi lời với người làm cha. Đừng làm cho bạn của con gái ông khiếp sợ. Có thể ông hơi khó chấp nhận rằng bọn con trai thấy nó hấp dẫn. Đối với ông, nó còn là một bé gái. Đối với bọn con trai, nó có duyên và ngộ nghĩnh, đáng yêu và vui tươi. Bọn chúng thích nó. Hôm nay đây, ông giải quyết gọn những vụ giao dịch lớn trong văn phòng giám đốc của mình, nhưng mới hôm qua thôi, ông còn là Jim học sinh trung học cắp cặp cho Jane. Ông còn nhớ chứ? Chẳng lẽ ông không muốn cho con gái mình - giờ đây, khi đã đến lượt nó - sung sướng đón nhận sự ngưỡng mộ và bầu bạn của đám con trai nó thích? Chẳng lẽ ông không muốn bọn chúng cùng nhau vui vẻ một cách lành mạnh?

Vui vẻ một cách lành mạnh? Lạy Chúa tôi!

Tại sao không đối đãi với bọn trẻ như khách mời trong nhà mình? Tại sao không trò chuyện với chúng? Không kéo chúng ra khỏi vỏ ốc, làm chúng vui cười và thoải mái?

Hoan nghênh bạn trẻ đến cái nhà thổ này.

Nếu con gái ông vi phạm lề thói, đừng có nổi đóa trước mặt đồng phạm của nó. Hãy trút nỗi bất bình khi chỉ có hai cha con với nhau. Và hãy thôi đi, đừng để đám con trai có cảm giác rằng nó là con gái một lão yêu tinh nữa.

Trước hết: lão yêu tinh lập một danh sách “cấm tuyệt đối” và một danh sách khác gọi là “miễn cưỡng chấp thuận”. Cấm tuyệt đối là những cuộc hẹn hò với một, hoặc hai, hoặc ba bạn trai - bước tiếp theo dĩ nhiên là truy hoan tập thể. Em có thể cùng các bạn gái đến một hiệu bánh kẹo và chuyện gẫu, cười đùa với những con đực trẻ tình cờ gặp tại đó, trong khi tôi ngồi đợi trong xe ở một khoảng cách kín đáo; và tôi hứa với em rằng nếu nhóm của em được một nhóm sạch nước cản về mặt xã hội mời (dĩ nhiên là với nhiều người tháp tùng) đến dự cuộc vũ hội thường niên của Trường huấn luyện đặc biệt Butler cho nam sinh, tôi có thể xét xem liệu có nên cho phép một thiếu nữ mười bốn tuổi mặc “trang phục dạ hội” đầu tiên của mình (một kiểu áo đầm khiến cho những cô gái dậy thì với đôi cánh tay mảnh mai nom giống như những con hồng hạc). Ngoài ra, tôi còn hứa sẽ mở tiệc liên hoan tại nhà, cho phép em mời các bạn gái xinh đẹp nhất và những chàng trai dễ thương mà từ giờ tới đó em có thể gặp tại vũ hội Butler. Nhưng tôi quyết định rất dứt khoát rằng chừng nào chế độ của tôi còn hiệu lực, em sẽ không bao giờ, không bao giờ được phép đi xem phim với một đứa con trai đang cơn động cỡn, hoặc ôm ấp nhau trong xe hơi, hoặc đến dự những cuộc xập xình cả nam lẫn nữ tại nhà các bạn cùng trường, hoặc xả láng nói chuyện trên điện thoại với một bạn trai, ngoài tầm tai của tôi, dù “chỉ là bàn cãi về quan hệ của anh ta với một đứa bạn của em”.

Tất cả những điều này làm Lo tức điên - em gọi tôi là tên bịp bợm chấy rận và còn thậm tệ hơn nữa - và tôi ắt đã nổi cáu nếu không sớm phát hiện ra, với niềm sung sướng như trút được gánh nặng, nguyên nhân làm em phẫn nộ là ở chỗ tôi tước đi của em không phải một khoái thú cụ thể nào đó, mà là một cái quyền nói chung. Các vị thấy đấy, tôi đang vi phạm chương trình qui ước, những thú tiêu khiển quen thuộc, những “điều cần làm”, những thông lệ của tuổi trẻ; bởi vì không gì có thể bảo thủ hơn một đứa bé, nhất là một đứa bé gái, dù đó là tiểu nữ thần tóc hung và nâu dịu nhất, có quyền năng tạo huyền thoại nhất trong làn sương tháng Mười của vườn cây ăn quả.

Xin đừng hiểu lầm tôi. Tôi không thể bảo đảm tuyệt đối rằng trong cả mùa đông, em đã không tình cờ có được những tiếp xúc nhập nhằng với những gã trai trẻ không quen biết; cố nhiên, cho dù tôi có kiểm soát những lúc rảnh rỗi của em sít sao đến đâu chăng nữa, vẫn luôn xảy ra những rò rỉ thời gian [1] không sao cắt nghĩa nổi sau đó sẽ được lấp liếm bằng những lời giải thích quá ư xảo ngôn; cố nhiên, những móng vuốt lởm chởm của lòng ghen nơi tôi luôn bị mắc vào lớp vải mịn của sự xảo trá tiểu nữ thần; song tôi dứt khoát cảm thấy - và đến nay tôi vẫn có thể đảm bảo tính chính xác của cảm giác ấy - rằng không có lí do gì khiến tôi phải thực sự hoảng sợ. Tôi cảm thấy vậy không phải vì chưa lần nào tôi phát hiện thấy cụ thể một cái cổ họng trẻ rắn câng nào cần bóp nát trong đám con trai lặng lẽ lởn vởn đâu đó ở hậu cảnh; mà vì tôi thấy “cực kì hiển nhiên” (một cụm từ mà bác Sybil của tôi ưa dùng) là tất cả các loại nam học sinh trung học - từ thằng cù lần mồ hôi ròng ròng, được “cầm tay” đã sướng run lên, đến tên cưỡng dâm, mặt đầy mụn, dương dương tự đắc lái một chiếc xe tân trang - đều làm bồ nhí sành điệu của tôi chán ngấy. “Tất cả những rùm beng về bọn con trai làm mình buồn nôn,” em viết nguệch ngoạc bên trong một quyển vở học sinh, và bên dưới là nét chữ của Mona (Mona sắp xuất hiện ngay bây giờ) với lời bình phẩm châm chọc thâm hiểm: “Thế còn Rigger thì sao?” (cả nhân vật này nữa cũng sắp xuất hiện).

[1] Đó là những lần gặp gỡ với Quilty, như độc giả sẽ thấy trong những đoạn sắp tới.

Vậy cái đám choai choai tôi tình cờ nhìn thấy bám theo em đều là vô diện mạo. Chẳng hạn như Áo-Pun-Đỏ, một hôm, đúng ngày có tuyết đầu mùa, đưa em về nhà; từ cửa sổ phòng khách, tôi quan sát hai đứa trò chuyện ở gần cổng nhà chúng tôi. Em mặc chiếc măng tô cổ lông đầu tiên của mình, đội một chiếc mũ mềm màu nâu trên mái tóc để theo kiểu tôi ưa thích - diềm tua rủ xuống trán, uốn lượn hai bên và quăn tự nhiên sau gáy - và đôi giày da mộc sạm đen vì ẩm ướt cùng đôi tất trắng lúc này nhếch nhác hơn bao giờ hết. Như thường lệ, em ôm mớ sách trước ngực trong khi nói hoặc nghe và hai chân ngọ nguậy liên tục: lúc đứng trên chân trái với ngón cái chân phải tì lên mu, khi kéo chân phải ra sau, lúc bắt chéo hai chân, khi lại đu đưa nhè nhẹ, phác thử vài bước, rồi lại bắt đầu từ đầu cả loạt động tác đó. Lại còn cái thằng Kính-Chắn-Gió, một chiều Chủ nhật, đứng nói chuyện với em trước cửa một tiệm ăn, trong khi mẹ và chị gái nó cố tìm cách kéo tôi ra xa tán gẫu; tôi lết chân theo họ, thỉnh thoảng ngoái lại nhìn tình yêu duy nhất của mình. Em triển khai nhiều kiểu cách ước lệ, chẳng hạn như cái kiểu nghiêng đầu lễ phép, thường thấy ở bọn thiếu niên, để tỏ ra là mình đang thực sự muốn “cười lăn cười bò”, và như thế (khi cảm thấy tôi gọi), vẫn giả vờ như không nhịn cười được, em bước giật lùi vài bước, rồi quay đằng sau, đi về phía tôi với một nụ cười tắt dần. Mặt khác - có lẽ vì điều đó khiến tôi nhớ đến lời thú tội đầu tiên không thể nào quên được của em - tôi rất thích cái ngón điệu thúc thủ của em: thở dài một cách vừa não nuột vừa hài hước “ôi, lạy Chúa!” ra ý phục tùng định mệnh, hoặc thốt ra một tiếng “khô-ô-ông” kéo dài bằng một giọng sâu, trầm gần như rền rĩ, khi định mệnh giáng xuống thực sự. Trên tất cả - vì chúng ta đang nói về sự vận động và tuổi trẻ mà - tôi vô cùng thích ngắm em lượn đi lượn lại dọc phố Thayer Street trên chiếc xe đạp trẻ đẹp của mình: nhổm người đứng hẳn lên bàn đạp, guồng thật mạnh rồi buông mình trở lại trên yên trong một tư thế uể oải, để mặc cho xe theo đà tự lao đi; rồi em dừng lại ở hòm thư của chúng tôi và, vẫn ngồi trên yên xe, giở lướt một tờ họa báo tìm thấy trong đó, và để trả lại, và lè lưỡi áp vào một bên mép trên, dận chân lấy đà và lại phóng đi qua ánh nắng và bóng râm nhờ nhạt.

Nhìn chung, em có vẻ thích ứng với môi trường xung quanh tốt hơn là tôi đã hi vọng hồi mùa đông năm ngoái ở California khi quan sát cô bé nô lệ được nuông chiều của tôi và cái cung cách ứng xử thất thường mà em hồn nhiên phô ra như những vòng trang sức. Mặc dù không bao giờ có thể quen được với cái trạng thái lo âu thường trực vốn là thân phận của những kẻ phạm tội, những con người vĩ đại, những trái tim yêu thương, tôi vẫn cảm thấy mình đang đạt đến mức tột đỉnh của nghệ thuật bắt chước. Trong khi nằm trên cái giường hẹp trong thư phòng sau một chầu mê say và tuyệt vọng nơi căn phòng lạnh lẽo của Lolita, tôi thường duyệt lại ngày vừa kết thúc bằng cách kiểm tra hình ảnh của chính mình khi nó diễu qua, không, đúng hơn là lảng vảng trước con mắt đỏ của trí tưởng tượng của tôi. Tôi quan sát tiến sĩ Humbert điển trai, ngăm đen, phảng phất nét người Celt, có lẽ là Anh giáo, rất Anh giáo, tiễn con gái đến trường. Tôi quan sát ông ta nở một nụ cười trễ nải và nhướn cong cặp lông mày đen rậm như trong áp-phích quảng cáo, chào bà Holigan đôn hậu, hôi rình (tôi biết bà sẽ nhắm thẳng tới chai rượu gin của ông chủ ngay khi gặp cơ hội đầu tiên). Cùng Mr West, đao phủ về hưu hay người viết những truyền đơn tôn giáo - ai cần quan tâm đến chi tiết đó? - tôi thấy người hàng xóm, tên là gì tôi chẳng nhớ, hình như họ là người Pháp hay Thụy Sĩ gì đó, ngồi sau những cửa sổ ngay thẳng của thư phòng mình trầm ngâm suy tưởng trên chiếc máy chữ, gương mặt nhìn nghiêng khẳng khiu với một mớ tóc kiểu Hitler xõa trên trán tráng nhợt. Vào những ngày cuối tuần, ta có thể thấy giáo sư H. vận chiếc ba-đờ-xuy may đo sang trọng, đi găng màu nâu, thả bộ cùng con gái tới quán Walton Inn (nổi tiếng với những chú thỏ sứ thắt ruy băng tím và những hộp sô-cô-la, họ ngồi giữa những thứ đó đợi bồi dọn một “bàn cho hai người” còn vương vãi những mẩu bánh của đám khách trước). Vào những ngày trong tuần, ta thấy ông ta, khoảng một giờ chiều, trịnh trọng chào Miss Phía-Đông-Mắt-Argus [2] trong khi lái xe ra khỏi ga ra, lượn vòng vèo quanh đám cây xanh chết tiệt, xuôi xuống con đường trơn phía dưới. Ngước một con mắt lạnh lùng khỏi cuốn sách đang đọc, nhìn về phía chiếc đồng hồ treo trong thư viện thực sự ngột ngạt của trường Đại học Beardsley, giữa những thiếu phụ to béo mắc kẹt và hóa đá trong sự ngập tràn của kiến thức nhân loại. Đi qua khuôn viên trường cùng với linh mục của trường, cha Rigger (cha cũng dạy Kinh Thánh ở trường trung học Beardsley). “Nghe nói mẹ của c:ô bé là một nữ diễn viên nổi tiếng1 bị chết trong một tai nạn máy bay. Ô, thế à? Chắc là tôi nhầm. Phải thế không. Tôi hiểu rồi. Thật đáng buồn.” (Thanh cao hóa mẹ mình ư?) Chậm rãi đẩy chiếc xe nhỏ đựng hàng qua mê cung của siêu thị, theo sau giáo sư w., cũng là một ông góa chậm chạp, hòa nhã, với đôi mắt dê. xắn tay áo xúc tuyết, một chiếc khăn choàng đen-trắng quấn quanh cổ. Đi theo cô bé nữ sinh của mình vào nhà, không hề tỏ ra vội vàng ham hố (thậm chí còn đủng đỉnh chùi chân trên tấm thảm trước cửa). Đưa Dolly đến bác sĩ nha khoa - cô y tá xinh đẹp mỉm cười tươi rói - số họa báo cũ - ne montrezpas vos zhambes* (đừng có phô hết chân cẳng ra). Có thể thấy Mr Edgar H. Humbert, trong bữa tối với Dolly, ăn món bít tết theo lối châu Âu, dao tay trái, dĩa tay phải. Thưởng thức bản sao một cuộc hòa nhạc: hai người Pháp im sững, mặt như tạc trên cẩm thạch, ngồi cạnh nhau, với cô con gái nhỏ mê nhạc của Monsieur H. H. bên phải cha mình và cậu con trai nhỏ cũng mê nhạc của giáo sư w. (hiện đang qua một buổi tối giải quyết vệ sinh ở Provence2) bên tay trái Monsieur G. G. Mở cửa ga ra, một khoảng vuông ánh sáng trùm kín chiếc xe rồi tắt ngấm. Vận bộ đồ ngủ màu sáng, sập mạnh mành cửa sổ phòng ngủ Dolly. Sáng thứ Bảy, khuất mắt mọi người, trịnh trọng cân tươi Dolly trong phòng tắm, cô bé qua mùa đông trắng bệch ra. Sáng Chủ nhật, trông thấy người, nghe thấy tiếng, tựu trung mình đâu phải dân ngoan đạo chăm đi nhà thờ, mình bảo Dolly đừng có đến quá trễ, chả là em phải đến sân quần vợt có mái che. Mở cửa đón một bạn học cùng trường của Dolly vào nhà, con bé có óc quan sát kì quặc: “Lần đầu tiên cháu thấy một ông mặc xmôckinh đấy, thưa ông - tất nhiên, trừ ồ trên phim.”

[2] Theo thần thoại Hy Lạp, Argus là quái vật trăm mắt có nhiệm vụ theo dõi lo, một cô gái được thần Zeus yêu. Ý nói bà hàng xóm phía Đông này hay dòm ngó, tọc mạch.

9

Nhìn chung, các bạn gái của em, mà tôi ngong ngóng muốn gặp, đều làm tôi thất vọng. Có Opal-Gì-Gì-Đó, và Linda Hall, và Avis Chapman, và Eva Rosen, và Mona Dahl (dĩ nhiên, tất cả những cái tên này, trừ một [1], đều là ang áng thôi). Opal là một cô bé nhút nhát, không eo, đeo kính, mặt đầy mụn, rất yêu chiều Dolly nhưng chuyên bị em bắt nạt. Với Linda Hall, quán quân quần vợt của trường, Dolly chơi đánh đơn mỗi tuần ít nhất hai lần: tôi ngờ Linda là một tiểu nữ thần đích thực, nhưng chẳng rõ vì một lí do gì, cô không đến - có lẽ không được phép đến - nhà chúng tôi; cho nên kí ức của tôi về cô chỉ là một lóe nắng tự nhiên trên một sân quần vợt trong nhà. Về đám còn lại, không ai đáng được xem như đủ tiêu chuẩn là tiểu nữ thần, ngoại trừ Eva Rosen. Avis là một bé gái béo phục phịch, to ngang, bắp chân đầy lông, còn Mona, mặc dù có một vẻ đẹp thô, đầy nhục dục và chỉ hơn người tình đang già đi của tôi có một tuổi, hiển nhiên là đã thôi không còn là tiểu nữ thần từ lâu rồi, ví bằng cô ta từng là thế. Về phần mình, Eva Rosen, một nữ tị nạn nhỏ tuổi từ Pháp sang, lại là một thí dụ đặc sắc về kiểu bé gái tuy không đẹp trội bật, nhưng bộc lộ trước con mắt tinh đời của kẻ sành điệu một số yếu tố cơ bản của duyên sắc tiểu nữ thần, như đường nét dáng hình dậy thì hoàn hảo, cặp mắt lả lơi, gò má cao. Mái tóc màu đồng của cô có cái óng mượt của tóc Lolita và bộ mặt thanh tú với nước da trắng sữa, đôi môi hồng, lông mi ánh bạc, có những nét đỡ xảo trá hơn đám đồng loại - cái bộ lạc lớn kiều nữ tóc đỏ đa chủng tộc ấy; ngoài ra, thay vì bộ đồng phục xanh của nhà trường, cô thường mặc, theo như tôi nhớ, toàn đồ đen hoặc đỏ sẫm - chẳng hạn, áo pun đen bó khít, giày cao gót đen, sơn móng tay đỏ thắm. Tôi nói tiếng Pháp với Eva (khiến Lo rất ngán). Ngữ điệu của cô bé còn rất thuần khiết, nhưng hễ đụng tới những từ liên quan đến nhà trường và trò chơi, là cô phải dùng tiếng Mĩ thông dụng và khi đó, lại hơi lơ lớ giọng Broadway, một điều ngộ nghĩnh ở một cô bé Paris theo học tại một trường tuyển mang mẽ Anh rởm ở New England. Rủi thay, mặc dù “bác của con bé người Pháp ấy” là một triệu phú, Lo đã bỏ rơi Eva vì một lí do nào đó trước khi tôi kịp tận hưởng theo cái cách khiêm tốn của mình sự hiện diện thơm tho của cô trong ngôi nhà Humbert rộng mở. Độc giả biết rằng tôi coi trọng nhường nào việc có được một bầy ngọc nữ, tiểu nữ thần hạng giải khuyến khích, xung quanh Lolita của tôi. Một dạo tôi cố vận dụng quan năng để ý thức về Mona Dahl, cô ả rất hay đến nhà chúng tôi, nhất là trong học kì mùa xuân, khi mà Lo và Mona nổi máu đam mê sân khấu. Tôi thường tự hỏi không biết em, Dolores Haze quá ư phản trắc của tôi, thổ lộ những bí mật gì với Mona vào cái thời điểm mà, dưới áp lực những câu hỏi thúc bách được trả thù lao hậu hĩ của tôi, em buột miệng phun ra nhiều chi tiết thực sự không tin nổi liên quan đến một cuộc tình tang của Mona với một gã lính thủy đánh bộ bên bờ biển. Quả đúng tính cách của Lo khi em chọn làm bạn chí cốt cô gái trẻ măng thanh lịch, dâm đãng, từng trải, lạnh lùng ấy, mà tôi đã có lần nghe thấy (Lo thề sống thề chết là tôi nghe lầm) vui vẻ nói với Lo ngoài hành lang khi em bảo chiếc áo pun của mình (của Lo) bằng len nguyên trinh: “Thứ duy nhất còn trinh trên người cậu đấy, chíp ạ...” Cô ả có giọng nói khàn khàn kì lạ, đeo khuyên tai, tóc đen xỉn bôi sáp, mắt lồi màu nâu hổ phách và môi mọng khêu gợi. Lo nói các thầy, cô giáo thường chê trách cô ả về cái thói cứ chất đầy đồ nữ trang lên người. Tay cô ả run. Chỉ số IQ lên tới 150. Và tôi còn biết trên cái lưng đã ra dáng đàn bà của cô ả có một cái bớt to tướng màu nâu sô-cô-la mà tôi đã kiểm tra vào cái đêm Lo và cô ả diện áo hở vai màu nhạt để đi dự vũ hội ở trường Butler.

[1] Đó là Mona Dahl. Vì Mona Dahl là đồng lõa của Lolita, kẻ cam tâm tình nguyện làm “bình phong” che chắn cho Quilty trong cuộc dan díu với Lolita, nên H. H. nêu đích danh với ý thức “trả thù”.

Tôi hơi đi trước một chút, nhưng quả tình tôi không thể ngăn trí nhớ của mình lướt nhanh trên toàn bộ bàn phím của niên khóa ấy. Đối phó với những cố gắng của tôi nhằm điều tra xem Lo quen biết loại con trai nào, Miss Dahl thường lịch thiệp tìm lời né tránh. Lo đi chơi quần vợt ở câu lạc bộ nông thôn của Linda, đã gọi điện thoại báo là em có thể sẽ về trễ cả nửa tiếng, vậy hễ Mona đến để tập với em một màn trong vở The Taming of the Shrew [2] thì tôi vui lòng tiếp hộ. Vận dụng mọi cách uốn éo cả giọng nói lẫn bộ điệu với tất cả sức quyến rũ trong tầm khả năng của mình, người đẹp Mona nhìn thẳng vào mặt tôi với ánh mắt hình như thoáng một vẻ giễu cợt trong veo - liệu tôi có nhầm không nhỉ? - và trả lời: “À, thưa ông, thực ra, Dolly không quan tâm lắm đến đám con trai chíp hôi. Nói cho đúng, chúng cháu là tình địch của nhau: cả hai đứa cùng mê cha Rigger.” (Đây là một câu nói giỡn - tôi đã nhắc tới con người hộ pháp ủ ê này với cái quai hàm bạnh ra như hàm ngựa: tại một buổi tiệc trà dành cho phụ huynh học sinh mà tôi không nhớ đích xác vào thời điểm nào, ông ta còn làm tôi phát phiền với những cảm tưởng dông dài về Thụy Sĩ đến nỗi thiếu chút nữa tôi đã giết béng ông ta).

[2] Thuần hóa những mụ ác mó, hài kịch của W. Shakespeare.

Vũ hội đêm ấy thế nào? Ôi, cả một cuộc náo loạn. Một cuộc gì? Một cuộc đại náo. Nói tóm lại, cực kì. Lo có nhảy nhiều không? Không quá nhiều, chỉ vừa sức chịu đựng. Cô ta nghĩ gì về Lo, cô nàng Mona lơi lả? Dạ, thưa ông? Cô có nghĩ là Lo học hành tốt ở trường? Chà, chắc chắn đó là một cô bé oách. Nhưng ứng xử chung của Lo…? Ồ, một cô bé tuyệt vời. Nhưng còn mặt khác? “Ồ, đáng yêu như một thiên thần,” Mona kết luận rồi đột nhiên thở dài, cầm lên một cuốn sách ngẫu nhiên nằm ở tầm tay và thay đổi sắc mặt, vờ cau trán, hỏi: “Ông nói cho cháu nghe về Ball Zack [3]đi. Ông ta có thực sự cự phách như lời đồn không?” Cô ả xáp lại gần tôi đến nỗi tôi phát hiện ra, qua những lớp kem bôi và dầu xức, mùi da thịt chẳng mấy hay ho của cô. Một ý nghĩ kì lạ đột ngột nhói lên trong tôi: có phải Lo của tôi định chơi trò môi giới dắt gái? Nếu vậy, em đã chọn nhầm hình nhân thế mạng. Né tránh cái nhìn lạnh lùng của Mona, tôi nói chuyện văn chương một lúc. Thế rồi Dolly về tới nhà - và nheo cặp mắt nhờ nhạt nhìn chúng tôi. Tôi để hai cô bạn xoay xở với nhau. Một trong những ô vuông có lưới mắt cáo của một khung cửa sổ đầy mạng nhện ở góc ngoặt cầu thang, được lắp kính màu đỏ thắm, và cái vết thương trơ thịt giữa hình chữ nhật tinh khôi ấy cùng vị trí bất đối xứng của nó - hơi giống nước đi của quân mã - bao giờ cũng làm tôi bối rối lạ lùng.

[3] Tức Honoré de Balzac (1799-1850), văn hào Pháp.