Truy tìm Dracula - Chương 73 phần 1

Chương 73

Tháng Năm 1954

Tôi không biết mình viết những dòng chữ này cho ai, và niềm hy vọng có ai đó sẽ tìm thấy chúng cũng rất mong manh, nhưng tôi cảm thấy sẽ là có tội nếu không cố ghi lại những hiểu biết của mình trong khi còn có thể, và chỉ Thượng đế mới biết tôi còn bao nhiêu thời gian nữa.

Tôi bị lôi ra khỏi văn phòng trường đại học đã nhiều ngày nay - tôi không chắc là bao nhiêu ngày, nhưng đoán chừng bây giờ vẫn đang còn là tháng Năm. Đêm hôm đó, tôi tạm biệt người học trò yêu và cũng là một người bạn, cậu ta vừa đưa tôi xem một bản sao khác của cuốn sách ma quái mà nhiều năm qua tôi đã cố tình quên đi. Tôi nhìn cậu đi khỏi, mang theo tất cả thông tin mà tôi có thể cung cấp. Sau đó, tôi đóng cửa phòng làm việc, ngồi lặng đi trong nỗi tiếc nuối sâu xa cũng như sự sợ hãi tột cùng. Tôi biết mình đã phạm lỗi. Tôi đã lén lút phục hồi lại cuộc nghiên cứu về lịch sử ma cà rồng và rõ ràng có ý định phát triển đến một mức độ cao hơn những kiến thức của mình về huyền thoại Dracula, thậm chí còn hy vọng rốt cuộc có thể làm sáng tỏ được bí mật về vị trí hầm mộ của hắn. Tôi đã để cho thời gian, suy luận logic, và tính kiêu ngạo ru mình vào niềm tin rằng sẽ không có hậu quả gì khi trở lại nghiên cứu. Tôi đã tự thừa nhận tội lỗi của mình ngay trong khoảnh khắc đơn độc đầu tiên đó.

Tôi đã dằn vặt kinh khủng khi trao cho Paul các ghi chép về công trình nghiên cứu và những lá thư viết về các trải nghiệm của bản thân, không phải vì muốn tiếp tục giữ chúng lại cho mình - tất cả tham vọng muốn tiếp tục cuộc nghiên cứu đã tan biến ngay từ lúc Paul đưa cho tôi xem cuốn sách của cậu. Đơn giản chỉ vì tôi vô cùng hối tiếc đã trao cái kiến thức kinh tởm này vào tay cậu, dù vẫn tin chắc là càng hiểu biết Paul sẽ càng có khả năng tự bảo vệ bản thân hữu hiệu hơn. Tôi chỉ còn cách hy vọng nếu bất kỳ sự trừng phạt nào xảy ra thì người gánh chịu sẽ là tôi chứ không phải Paul, một thanh niên còn đầy lạc quan yêu đời, bước chân còn nhẹ nhàng không vướng bận, và tài năng còn non nớt chưa kinh qua thử thách. Chắc Paul còn chưa qua tuổi hai mươi bảy; tôi thì đã mấy chục năm sống trong một thứ hạnh phúc vờ vịt, không xứng đáng. Đó là ý nghĩ đầu tiên của tôi. Ý nghĩ tiếp theo thực tiễn hơn. Thậm chí dù có muốn, tôi cũng không có cách nào để tự bảo vệ bản thân ngay tức khắc được, ngoại trừ niềm tin dựa trên lý trí. Tôi giữ các ghi chép mà không có bất kỳ một phương tiện truyền thống nào để trừ tà, phòng ngừa ma quỷ - chẳng có thánh giá, chẳng có đạn bạc hoặc chùm tỏi. Tôi chưa bao giờ phải sử dụng đến những thứ đó, thậm chí ngay cả trong những lúc cao điểm của cuộc nghiên cứu, nhưng bây giờ tôi bắt đầu hối tiếc là đã khuyên Paul chỉ sử dụng những nguồn lực tinh thần của chính bản thân cậu.

Những ý nghĩ này lởn vởn một hai phút rồi biến mất, mà hóa ra tôi cũng chỉ còn một hai phút để suy nghĩ. Rồi, đột ngột đến cùng luồng gió lạnh căm và hôi thối, sự hiện diện rõ rệt của ai đó đổ ập lên tôi, tôi hầu như không còn nhìn thấy gì và toàn thân như bật ra khỏi ghế vì sợ hãi. Trong khoảnh khắc, tôi như bị phong kín, mù lòa, cảm thấy mình như đang trong cơn hấp hối, dù không biết là do đâu. Giữa khoảnh khắc mơ hồ đó tôi thấy như hiện ra những hình ảnh kỳ lạ nhất của tuổi trẻ và cái đẹp, không hẳn là nhìn thấy, đúng ra là cảm nhận thấy, cảm nhận chính bản thân mình khi còn trẻ trung và tràn đầy tình yêu với một điều gì đó, một ai đó. Có lẽ đó là cách mà con người từ giã cuộc sống này. Nếu vậy, khi thời điểm của tôi đến - và sẽ đến sớm thôi, dù dưới hình thức kinh khủng nào - tôi hy vọng hình ảnh này sẽ lại đến với tôi trong khoảnh khắc cuối cùng.

Sau đó tôi không còn nhớ gì nữa, sự vô thức kéo dài một thời gian mà đến nay tôi vẫn không thể đánh giá là bao lâu. Tôi từ từ tỉnh lại và sửng sốt khi nhận ra mình vẫn còn sống. Những giây phút đầu tiên, tôi chưa thể nghe hoặc nhìn thấy gì. Giống như vừa tỉnh dậy sau một ca phẫu thuật nghiêm trọng, vì tiếp ngay sau đó là cảm giác đau đớn, toàn bộ cơ thể yếu ớt và đau nhức kinh khủng, tựa như có lửa cháy trong đầu, trong cổ họng và bên chân phải. Không khí ẩm ướt và lạnh lẽo, và vật tôi đang nằm bên trên cũng lạnh, vậy nên khắp người tôi thấy ớn lạnh. Tiếp sau cảm giác đó là ánh sáng - một thứ ánh sáng lờ mờ nhưng cũng đủ để tôi tin là mình chưa bị mù và vẫn đang mở mắt. Ánh sáng và cảm giác đau đớn, hơn bất kỳ điều gì khác, cho thấy rằng tôi vẫn còn sống. Tôi bắt đầu nhớ lại những gì mà mới đầu tôi nghĩ vừa xảy ra tối hôm trước - Paul đến phòng làm việc của tôi với phát hiện sửng sốt của cậu. Rồi tôi thấy lòng chùng lại và chợt hiểu mình đã bị quỷ dữ giam cầm; đó là lý do vì sao thân xác tôi bị đối xử hung bạo như thế này và tại sao có vẻ như xung quanh tôi chỉ dậy lên toàn mùi quỷ dữ.

Tôi thận trọng cựa quậy chân tay, thu hết tàn lực để xoay và nhấc đầu lên. Ánh mắt tôi bị chặn lại ở một vách tường lờ mờ cách xa không đến một tấc, nhưng ánh sáng yếu ớt mà tôi cảm nhận lại đến từ phía trên bức tường đó. Tôi thở dài và nghe được tiếng thở của mình; chính điều này khiến tôi tin mình vẫn có thể nghe được, nhưng chỉ vì đang ở trong một nơi quá tĩnh lặng nên tôi đã có ảo giác là bị điếc. Tôi tập trung lắng nghe hơn bao giờ hết, nhưng vẫn chẳng nghe thấy gì, nên tôi thận trọng cố gượng ngồi dậy. Cử động đó làm tôi cảm nhận được sự yếu ớt cũng như cảm giác đau đớn khốn khổ khắp cả tứ chi, đầu nhức như búa bổ. Trong tư thế ngồi, xúc giác cũng trở lại, và tôi nhận ra mình đang nằm trên đá, vách thấp hai bên đã làm chỗ dựa giúp tôi nhỏm dậy. Có tiếng ong ong kinh khủng trong đầu tôi, và dường như tràn ngập không gian chung quanh tôi. Như tôi đã mô tả, đó là một không gian tối lờ mờ, tĩnh lặng và co lại thành những khoảng tối trong các góc. Tôi đưa tay sờ soạng xung quanh. Tôi đang ngồi trong một quan tài bằng đá, không có nắp.

Phát hiện này làm dấy lên trong tôi một cơn buồn nôn, nhưng cùng lúc đó tôi nhận ra mình vẫn mặc bộ quần áo đã mặc trong phòng làm việc, dù cà vạt không còn, áo sơ mi và áo khoác đã rách một bên tay. Tuy nhiên, việc tôi vẫn đang mặc quần áo của chính mình khiến tôi hơi yên tâm trở lại; đây không phải là cái chết, cũng không đơn thuần là sự điên rồ mất trí, và tôi cũng không tỉnh dậy ở một thời đại khác, trừ phi tôi mang theo cả quần áo của mình đến đó. Tôi sờ soạng quần áo và tìm thấy chiếc ví trong túi quần trước. Thật xúc động khi sờ thấy món đồ quen thuộc này dưới tay mình. Nhưng rất tiếc là cây viết loại tốt trong túi áo khoác và cả cái đồng hồ đeo tay đều không còn nữa.

Sau đó, tôi đưa tay sờ lên mặt lên cổ. Có vẻ gương mặt tôi không có gì thay đổi, ngoại trừ một vết bầm còn mới trên trán, nhưng ở cổ tôi sờ thấy một vết thương gớm ghiếc, bầy nhầy. Khi tôi cử động đầu quá mạnh hoặc nuốt nước miếng, vết thương lại phát ra âm thanh nghe như tiếng mút bú, khiến tôi thất kinh. Khu vực vết thương sưng phồng lên và nhức nhối khi tôi sờ vào. Tôi cảm thấy mình lại có thể ngất đi vì kinh hoàng và thất vọng, nhưng rồi tôi nhớ ra là mình đã có đủ sức lực để tự ngồi dậy. Có thể tôi không mất quá nhiều máu như đã lo sợ lúc đầu, và có lẽ điều đó nghĩa là tôi mới chỉ bị cắn một lần. Tôi vẫn cảm nhận mình là mình, không phải là một ác quỷ; tôi không thấy thèm khát máu, tâm hồn vẫn không độc ác đồi bại. Rồi một cảm giác đau khổ cùng cực trào lên trong tôi. Liệu có ý nghĩa gì khi tôi chưa cảm thấy thèm khát máu? Dù tôi đang ở bất cứ nơi đâu, chắc chắn tôi sẽ bị nhiễm hoàn toàn, chỉ còn là vấn đề thời gian. Dĩ nhiên, trừ phi tôi trốn thoát được.

Tôi chậm chạp quay đầu nhìn xung quanh, cố nhìn rõ hơn, và rồi nhận ra nguồn ánh sáng. Đó là một nguồn sáng mờ đỏ tít xa trong khoảng không gian tối kịt - tôi không thể nói là xa bao nhiêu - và lù lù giữa tôi và nguồn sáng đó là những hình thù nặng nề tối đen. Tôi đưa tay sờ xuống mặt ngoài căn nhà bằng đá của mình. Cái quan tài đá này có vẻ như ở sát mặt đất, hoặc là một nền đá; tôi sờ soạng chung quanh cho đến lúc quyết định là có thể leo ra ngoài cái khoảng không mờ mờ tối đó mà không sợ bị ngã xuống từ trên cao. Tôi phải bước một bước dài để xuống nền nhà, và đôi chân tôi run rẩy dữ dội đến độ tôi phải quỳ sụm xuống ngay khi vừa ra khỏi cỗ quan tài. Bây giờ tôi đã có thể nhìn thấy rõ hơn một chút. Tôi tiến về nguồn sáng đỏ mờ mờ kia, hai tay đưa về phía trước, và trong lúc quờ quạng tôi đã đâm sầm vào một vật giống như một cỗ quan tài đá trống rỗng khác, và một món đồ gỗ. Khi va vào mặt gỗ tôi nghe có một thứ gì đó mềm mềm rơi xuống, nhưng không thể nhận ra đó là cái gì.

Quả thực kinh khủng khi mò mẫm trong cái bóng tối lờ mờ này, tôi luôn chực chờ giây phút bị Cái Vật đã mang tôi đến đây vồ lấy. Tôi lại băn khoăn tự hỏi phải chăng mình thực sự chưa chết - phải chăng đây là một dạng kinh hoàng của cái chết mà tôi vừa nhầm lẫn cho là sự tiếp nối của cuộc sống. Nhưng chẳng có gì vồ chụp lấy tôi cả, cảm giác đau đớn cũng đủ thuyết phục tôi tin đây là thực tại, và càng lúc tôi càng đến gần hơn với nguồn sáng đang lung linh nhảy múa cuối gian phòng dài lê thê này. Trước nguồn sáng đó, tôi có thể nhận ra lù lù một hình thù to tướng bất động đen thui. Khi chỉ còn cách vài mét, tôi nhận ra ngọn lửa trên nền lò sưởi, đang leo lắt cháy đỏ. Ngọn lửa nằm trong một lò sưởi vòm đá, đủ sáng để soi rõ những món đồ gỗ đồ sộ và cũ kỹ - một chiếc bàn to tướng bừa bãi giấy tờ, một cái tủ chạm khắc, một hai cái ghế cao đặt trong góc. Lưng một trong hai chiếc ghế xoay về hướng tôi, đối mặt với ngọn lửa, một người đang ngồi gần như bất động trên đó - tôi chỉ nhìn thấy một hình thù đen thui phía trên lưng ghế. Lúc này, tôi ước gì mình đã dò dẫm theo hướng ngược lại, tránh xa ánh lửa, hướng về một lối thoát khả dĩ nào đó, nhưng ánh mắt tôi bị cuốn hút dữ dội về phía cái hình thù đen thui kia và chiếc ghế vương giả bên dưới, cũng như màu đỏ mềm mại của ngọn lửa. Một mặt, tôi phải thu hết nghị lực để bước về phía đó, mặt khác, dù cố gắng tôi cũng không thể quay đi.

Tôi chậm rãi lê vào vùng sáng của ngọn lửa bằng đôi chân thâm tím, khi tôi vòng đến chiếc ghế bành kia, một hình thù từ từ đứng dậy, quay về phía tôi. Bởi lúc đó hắn quay lưng về phía ngọn lửa và cũng vì ánh sáng quá yếu ớt nên tôi không thể nhìn thấy gương mặt hắn, mặc dù thoạt tiên tôi nghĩ mình đã thoáng thấy một gò má trắng bợt, xương xẩu và ánh mắt sáng lấp lánh. Tóc hắn đen, quăn dài, phủ xuống quanh bờ vai đang khoác áo choàng ngắn. Có gì đó trong cử động của hắn rất khác, khác hẳn với cử động của một con người còn sống, nhưng tôi không thể xác quyết nó nhanh hơn hay chậm hơn. Hắn chỉ cao hơn tôi một chút, nhưng tôi có thể nhìn thấy bề ngang của đôi vai rộng trên nền ánh lửa và có cảm giác như hắn rất cao, rất vạm vỡ. Đoạn hắn cúi xuống ngọn lửa, với tay lấy một vật gì đó. Tôi tự hỏi phải chăng hắn sắp giết mình, và cố tỏ ra bình thản, hy vọng sẽ chết như một người có phẩm giá. Nhưng hắn chỉ châm một cây nến dài, và dùng nó để thắp các ngọn nến khác trong một giá đèn gần chiếc ghế hắn ngồi, rồi quay lại đối mặt với tôi.

Lúc này, tôi đã có thể nhìn hắn rõ hơn dù gương mặt hắn vẫn còn nằm trong bóng tối. Hắn đội mũ màu vàng kim và xanh lá với một cây trâm ngọc nặng nề ở phía trước, mặc áo nhung vàng có thắt lưng, cổ áo màu xanh và viền đăng ten cao đến tận chiếc cằm rộng. Món trang sức trên mũ và những sợi chỉ vàng ở cổ áo hắn lấp lánh trong ánh lửa. Một chiếc áo choàng lông thú màu trắng khoác trên vai, được cài lại bằng một huy hiệu hình rồng bằng bạc. Cách ăn mặc của hắn quả thực lạ thường; tôi thấy sợ kiểu ăn mặc đó gần như chẳng khác gì nỗi kinh sợ đối với sự hiện diện ma quái kỳ dị của hắn. Đó là quần áo thực sự, mới mẻ và sống động, không phải là loại trang phục cũ kỹ trưng bày trong một viện bảo tàng. Hắn mặc thứ trang phục đó lên người với dáng vẻ cực kỳ thanh lịch và giàu có, đứng yên lặng trước mặt tôi, chiếc áo choàng phủ xuống cuốn quanh hắn như một ngọn lốc tuyết. Ánh nến soi rọi một bàn tay hắn với những ngón tay dùi đục và đầy sẹo, đang đặt lên chuôi dao găm, xa hơn phía dưới là đôi chân cứng cáp đi tất dài màu xanh lá và giày ống. Hắn nhúc nhích, xoay người về phía ánh sáng, nhưng vẫn yên lặng. Giờ thì tôi có thể nhìn mặt hắn rõ hơn, vẻ tàn độc của gương mặt đó làm tôi lùi lại - hai con mắt đen to dưới hàng lông mày rậm rịt, mũi thẳng dài, lưỡng quyền rộng và xương. Miệng hắn, bây giờ tôi cũng nhìn thấy rõ hơn, mím lại thành một nụ cười khắc nghiệt, môi đỏ sậm cong lên dưới bộ ria mép đen, cứng. Tôi nhìn thấy ở một khóe môi hắn một vết máu khô - ôi, lạy Chúa, tôi giật mình chùn người lại vì ghê tởm. Nhìn thấy vết máu đó cũng đã đủ kinh hoàng rồi, nhưng nhận thức ngay sau đó rằng có thể đó là máu của tôi, máu của chính tôi, đã làm tôi choáng váng.

Hắn vươn thẳng người, thậm chí còn kiêu hãnh hơn, và qua cái bóng tối lờ mờ ngăn cách hai người, hắn nhìn thẳng vào mặt tôi. “Ta là Dracula,” hắn nói. Những tiếng ấy phát ra lạnh lùng và rõ ràng. Tôi cảm giác như đó là một thứ ngôn ngữ mình chưa hề biết, dù tôi hoàn toàn hiểu. Tôi không thể thốt nên lời, chỉ đứng nhìn hắn trân trân, toàn thân như rơi vào một cơn tê liệt khủng khiếp. Thân xác hắn chỉ cách tôi khoảng hơn ba mét, dù là một thân xác còn sống hay đã chết thì điều không thể chối cãi là nó có thực và đầy quyền uy. “Đến đây,” hắn nói, vẫn với giọng lạnh lùng và rành rọt. “Ngươi đã mệt và đói sau cuộc hành trình rồi. Ta đã dọn bữa tối cho ngươi.” Cử chỉ của hắn hòa nhã, thậm chí có thể nói là lịch sự, những viên đá quý trên các ngón tay thô kệch trắng nhợt lóe lên.

Tôi nhìn thấy một cái bàn gần lò sưởi, bày la liệt những đĩa thức ăn được đậy kín. Bấy giờ tôi mới ngửi thấy mùi đồ ăn - đồ ăn ngon, có thực và của con người - và mùi thơm đó khiến tôi muốn ngất đi. Dracula yên lặng đi đến bàn, rót từ một cái bình cao cổ ra một ly thứ nước màu đỏ mà tôi thoáng nghĩ là máu. “Đến đây,” hắn lặp lại, giọng nhẹ nhàng hơn. Hắn bước ra xa bàn rồi ngồi xuống chiếc ghế của mình, dường như cho là tôi chắc sẽ bước đến gần bàn nếu hắn giữ chút khoảng cách. Tôi ngập ngừng đi đến chiếc ghế trống bên cạnh bàn, chân run rẩy vì hoàn toàn suy nhược cũng như vì sợ hãi. Tôi ngồi xuống giữa những tấm nệm màu đen, gần như là gục xuống, và nhìn vào những đĩa thức ăn. Tôi tự hỏi tại sao mình lại thèm ăn trong khi có thể chết bất cứ lúc nào. Đó là một điều bí ẩn mà chỉ cơ thể tôi mới hiểu nổi. Lúc này Dracula đang nhìn chăm chăm vào ngọn lửa; tôi có thể nhìn từ mặt bên gương mặt hung ác của hắn, cánh mũi dài và chiếc cằm bạnh, mái tóc quăn đen phủ xuống bờ vai. Hắn chắp tay lại, vẻ trầm tư, áo choàng và hai tay áo thêu tụt xuống, để lộ cổ tay chiếc áo nhung màu xanh lá và một vết sẹo lớn choán gần hết mu bàn tay. Thái độ của hắn bình thản và trầm tĩnh; tôi bắt đầu cảm thấy như mình đang mơ chứ không phải đang cận kề với hiểm nguy, vậy nên tôi đánh liều mở nắp vài đĩa thức ăn.

Đột nhiên tôi cảm thấy đói đến độ tưởng như không thể kiềm chế khỏi hành động ăn ngốn ngấu bằng cả hai tay, nhưng tôi đã cố cầm cái nĩa kim loại và con dao sừng lên và xẻ món gà rán trước, sau đó là một tảng thịt thú rừng màu đen. Có các tô sứ chứa đầy khoai tây và cháo, một ổ bánh mì cứng và một tô đầy xúp rau nóng. Tôi ăn ngấu nghiến, chỉ cố phanh lại đủ để không bị co thắt dạ dày. Tôi nốc cạn chiếc ly bạc đầy rượu vang đỏ bên cạnh khuỷu tay, loại rượu mạnh, không phải máu. Dracula không hề cựa quậy suốt thời gian tôi ăn, dù tôi không thể ngăn mình cứ liên tục liếc nhìn về phía hắn. Ăn xong, trong một lúc lâu tôi thấy mình thỏa mãn và hầu như đã sẵn sàng để chết. Tôi nghĩ phải chăng đây là lý do người sắp bị xử tử được cho ăn bữa ăn cuối cùng. Đó là ý nghĩ rõ ràng đầu tiên của tôi từ khi tỉnh lại trong cỗ quan tài đá. Tôi chậm rãi đậy những đĩa thức ăn trống trơn lại, cố không gây tiếng động, rồi dựa vào ghế, chờ đợi.

Một lúc lâu sau, người đồng hành của tôi mới xoay người trên ghế. “Ngươi đã ăn xong,” hắn khẽ lên tiếng. “Vậy có lẽ chúng ta có thể trò chuyện một chút, và ta sẽ cho ngươi biết lý do vì sao ta đưa ngươi đến đây.” Giọng hắn vẫn rõ ràng và lạnh tanh, nhưng lần này tôi để ý thấy trong sâu thẳm giọng nói ấy tiếng lách tách nho nhỏ, tựa như bộ phận cơ thể tạo ra nó đã quá cũ kỹ và rách nát. Hắn ngồi nhìn tôi với vẻ trầm ngâm, và tôi cảm thấy mình co rúm lại trước ánh nhìn của hắn. “Ngươi có biết mình đang ở đâu không?”

Tôi đã hy vọng không phải trò chuyện với hắn, nhưng lại cảm thấy chẳng ích gì khi giữ im lặng, điều đó chỉ càng khuyến khích hắn dấn tới, mặc dù có vẻ như lúc này hắn tỏ ra khá bình thản. Tôi cũng chợt nghĩ, bằng cách thu hút sự chú ý của hắn, tôi có thể có một chút thời gian thăm dò chung quanh để tìm một lối thoát khả dĩ, hoặc tìm phương cách để tiêu diệt hắn, nếu tôi có thể giữ vững tinh thần thì biết đâu có thể hoàn thành cả hai việc một lúc. Nếu truyền thuyết chính xác thì bây giờ hẳn phải là ban đêm, nếu không hắn đã không thức. Rồi trời cũng sẽ sáng, và nếu tôi còn sống để thấy bình minh, hắn sẽ phải ngủ trong khi tôi vẫn thức.

“Ngươi có biết ngươi đang ở đâu không?” hắn lặp lại, không hề tỏ ra nóng nảy.

“Biết,” tôi trả lời. Tôi không biết phải gọi hắn bằng danh xưng nào. “Ít nhất là tôi cũng nghĩ mình biết. Đây là hầm mộ của ông.”

“Một trong các hầm mộ của ta.” Hắn mỉm cười. “Dù sao chăng nữa, đây là ngôi mộ ưa thích nhất của ta.”

“Có phải chúng ta đang ở xứ Wallachia không?” Tôi không thể ngăn mình bật ra câu hỏi đó.

Hắn lắc đầu khiến ánh lửa chuyển động trên mái tóc đen nhánh và trong đôi mắt sáng quắc của hắn. Có một cái gì đó không phải của con người trong cử chỉ ấy khiến tôi cảm thấy dạ dày quặn thắt. Hắn không cử động như một người sống, vậy nhưng - lại một lần nữa - tôi không thể nói chính xác điểm khác biệt là gì. “Wallachia đã trở nên quá nguy hiểm. Lẽ ra ta phải được yên nghỉ mãi mãi ở đó, nhưng đó là điều không thể. Hãy tưởng tượng xem - sau khi chiến đấu gian khổ cho ngai vàng của mình, cho tự do của chúng ta, thậm chí ta còn không thể gửi nắm xương tàn của mình ở đó.”

“Vậy thì chúng ta đang ở đâu?” Tôi cố làm như đây chỉ là một cuộc trò chuyện bình thường, nhưng chỉ hoài công vô ích. Rồi tôi nhận ra rằng tôi không chỉ muốn đêm nay trôi qua một cách nhanh chóng và yên lành, nếu có cơ hội nào để được như thế. Tôi còn muốn biết thêm về Dracula. Dù là cái gì chăng nữa, sinh vật này, hắn đã sống đến năm trăm năm. Lẽ tất nhiên, câu trả lời của hắn sẽ cùng chết với tôi, nhưng tôi không sao ngăn được cảm giác tò mò.

“À, chúng ta đang ở đâu ư,” Dracula lặp lại. “Ta nghĩ, đó không phải là vấn đề. Chúng ta không ở Wallachia, những kẻ ngu xuẩn vẫn đang trị vì xứ sở đó.”

Tôi nhìn hắn đăm đăm. “Ông có... ông có biết gì về thế giới ngày nay không?”

Hắn nhìn tôi, vẻ thích thú pha lẫn ngạc nhiên, khiến gương mặt dễ sợ cong lên. Lần đầu tiên, tôi nhìn thấy những chiếc răng nanh dài và hai hàng lợi tụt lại, khiến khi cười trông hắn như một con chó già. Hình ảnh so sánh ấy biến mất cũng nhanh như khi hiện ra - không, miệng hắn vẫn bình thường, ngoại trừ vết máu nhỏ của tôi, hoặc của ai đó - bên dưới bộ ria mép đen kịt. “Biết chứ,” hắn trả lời, và cha thoáng sợ rằng mình sắp phải nghe tiếng cười của hắn. “Ta biết về thế giới hiện đại chứ. Đó là phần thưởng của ta, công trình ưa thích của ta.”

Tôi thấy muốn tấn công kiểu trực diện, biết đâu điều đó sẽ thu hút sự chú ý của hắn. “Vậy thì ông muốn gì ở tôi nào? Tôi đã tránh né thế giới hiện đại nhiều năm rồi - không như ông, tôi sống trong quá khứ.”

“Ôi, quá khứ.” Trong ánh lửa lung linh, hắn lại chắp các đầu ngón tay lại với nhau. “Quá khứ rất có ích, nhưng chỉ vì những gì nó có thể dạy chúng ta về hiện tại. Hiện tại rất phong phú. Nhưng ta cũng rất say mê quá khứ. Lại đây. Vì ngươi đã ăn uống và nghỉ ngơi, tại sao không cho ngươi thấy bây giờ nhỉ?” Hắn đứng dậy, lại cũng bằng cái cử động mà có vẻ như do một lực nào đó tác động chứ không phải là nhờ tứ chi hắn, tôi cũng đứng dậy ngay, sợ rằng hành động kia có thể là một trò lừa và hắn có thể lao vào tôi ngay lúc đó. Nhưng hắn chậm rãi xoay người, nhấc một cây nến ra khỏi giá đèn gần ghế hắn ngồi, đưa cao cây nến lên. “Cầm theo một ngọn nến,” hắn nói rồi đi khỏi khu vực lò sưởi, tiến vào căn phòng lớn. Tôi lấy cây nến thứ hai và bước theo hắn, tránh xa thứ trang phục kỳ dị và những cử động gây ớn lạnh kia. Tôi hy vọng hắn không dẫn mình trở lại cỗ quan tài đá.

Nhờ ánh nến yếu ớt, tôi bắt đầu thấy được những vật mà mới đây không thể nhìn thấy - những đồ vật tuyệt vời. Bây giờ tôi có thể nhận ra những chiếc bàn dài ở trước mặt, những chiếc bàn rất cổ. Trên bàn là hàng chồng, hàng đống sách - những cuốn bọc da rách nát và những bìa sách mạ vàng bắt lấy ánh sáng chập chờn của ngọn nến trong tay tôi. Còn có những thứ đồ vật khác mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy, như một giá để mực, hay những cây bút lông ngỗng kỳ lạ. Một máy đánh chữ cũ kỹ và một chồng giấy da hiện lên lờ mờ trong ánh nến. Tôi thấy lấp lánh những bìa sách và hộp cẩn đá quý, các cuộn bản thảo trên những khay đồng. Còn có những cuốn sách khổ đôi hoặc khổ tư to tướng bọc da trơn láng, và hàng dãy sách có niên đại gần đây hơn trên các ngăn kệ dài. Thực ra, chúng tôi đang bị bao vây; mọi bức tường có vẻ như xếp đầy những sách và sách. Giương cây nến lên, tôi bắt đầu nhận ra những tựa sách rải rác đây đó, lúc là một dòng chữ Ả-rập tao nhã nằm chính giữa gáy sách bọc da đỏ, khi lại là một thứ ngôn ngữ phương Tây quen thuộc. Tuy nhiên, phần lớn sách đều không còn tên vì quá cũ. Đó là một kho tài liệu không thể nào so sánh nổi, và dù không có ý định, tôi cũng bắt đầu nóng lòng muốn mở ra xem một vài cuốn, muốn chạm vào những bản thảo viết tay trên các khay gỗ kia.