Truy tìm Dracula - Chương 73 phần 2

Dracula quay lại, giương cao cây nến, ánh nến làm nổi bật sắc màu rực rỡ của những viên đá trên mũ hắn - hoàng ngọc, lục bảo, ngọc trai. Đôi mắt hắn rực sáng. “Ngươi thấy thư viện của ta thế nào?”

“Có vẻ như là một... một bộ sưu tập rất giá trị. Một kho báu,” tôi trả lời.

Vẻ hài lòng thoáng hiện lên trên gương mặt kinh khủng của hắn. “Ngươi nói đúng,” hắn nói, giọng nhẹ nhàng. “Thư viện này là thư viện tuyệt vời nhất trong những thư viện cùng loại trên thế giới. Nó là kết quả của sự tuyển chọn công phu suốt nhiều thế kỷ. Nhưng ngươi sẽ có vô khối thời gian mà khám phá những kỳ quan ta đã tập hợp lại nơi đây. Bây giờ, ta sẽ cho ngươi xem một thứ khác.”

Hắn dẫn đường đến một bức tường khác, ở đó tôi nhìn thấy một máy in cổ lỗ sĩ, giống như chiếc máy in ta bắt gặp trong những tranh minh họa cuối thời kỳ Trung cổ - một bộ máy nặng nề kỳ quái làm bằng kim loại màu đen và gỗ màu sậm với một con ốc to tướng ở mặt trên. Một đĩa tròn bằng đá vỏ chai chứa đầy mực bóng láng, phản chiếu ánh nến như một tấm gương ma quái. Một tờ giấy dày nằm trên kệ máy in. Chồm đến gần hơn, tôi nhận thấy tờ giấy đó đang in dở, một công việc bị bỏ giữa chừng, và bằng tiếng Anh. “Hồn ma trong chiếc bình cổ,” đó là tựa đề. “Ma cà rồng từ bi kịch Hy Lạp đến bi kịch hiện đại.” Và hàng cuối: “Bartholomew Rossi.”

Chắc hẳn Dracula đang chờ đợi tôi hổn hển vì sững sờ kinh ngạc, và thực vậy, tôi đã không làm hắn phật lòng. “Ngươi thấy đó, ta vẫn bắt kịp với công trình nghiên cứu hiện đại tuyệt vời nhất - từng giây từng phút, giống như người ta thường nói. Khi không thể có một tác phẩm in ấn xuất bản đàng hoàng, hoặc muốn có nó ngay lập tức, thỉnh thoảng ta phải tự in lấy. Nhưng ở đây còn có một thứ dễ dàng thu hút sự quan tâm của ngươi không kém đâu.” Hắn trỏ vào cái bàn phía sau máy in. Trên bàn là một dãy khuôn khắc gỗ. Khuôn lớn nhất đập vào mắt tôi là bản khắc hình con rồng trong các cuốn sách của chúng tôi - của tôi và của Paul - tất nhiên là theo chiều ngược lại. Khó khăn lắm tôi mới ngăn không buột miệng kêu lên. “Ngươi ngạc nhiên,” Dracula nói, đưa cây đèn lại gần con rồng. Những đường nét quá quen thuộc đến độ tôi nghĩ mình cũng có thể tự tay khắc gọt chúng. “Ta nghĩ ngươi biết rất rõ hình ảnh này.”

“Đúng vậy.” Tôi nắm chặt cây nến. “Ông đã tự in những cuốn sách kia ư? Bao nhiêu cuốn?”

“Các tu sĩ của ta in một số, và ta tiếp tục công việc của họ,” hắn bình thản trả lời, nhìn xuống bản khắc gỗ kia.

“Ta sắp hoàn thành tham vọng in một ngàn bốn trăm năm mươi ba cuốn, nhưng từ từ thôi, để ta còn có thời gian phân phát chúng trong khi hoạt động nữa. Con số đó có ý nghĩa gì với ngươi không?”

“Có chứ,” một lúc sau, tôi trả lời. “Đó là năm thành Constantinople sụp đổ.”

“Ta biết ngươi sẽ nhận ra mà,” hắn thốt lên cùng với nụ cười cay đắng. “Đó là thời điểm tồi tệ nhất trong lịch sử.”

“Đối với tôi, có vẻ như có rất nhiều thời điểm giành giật cái vinh dự ấy,” tôi đáp lại, nhưng hắn lại lắc cái đầu to tướng trên bờ vai to bè.

“Không,” hắn nói. Hắn nâng cao cây nến, và trong ánh nến tôi nhìn thấy mắt hắn quắc lên, đỏ ngầu như mắt chó sói, ngập đầy căm hận. Chuyện này giống như nhìn thấy một cặp mắt vô hồn đột nhiên có sự sống vậy; trước đó tôi nghĩ hắn chỉ có đôi mắt sáng, nhưng giờ dưới ánh nến chúng còn toát ra nét tàn ác. Tôi không thể thốt nên lời và cũng không thể ngoảnh đi nơi khác. Một lát sau, hắn quay lại và tiếp tục nhìn ngắm hình rồng. “Nó là một sứ giả tuyệt vời,” hắn nói, vẻ trầm ngâm.

“Có phải ông đã để nó lại cho tôi? Cuốn của tôi ấy?”

“Hãy cứ cho là ta đã sắp đặt việc đó.” Hắn đưa bàn tay đầy các vết sẹo chiến trận sờ vào bản khắc gỗ hình rồng. “Ta rất thận trọng trong việc phân phát chúng. Chúng chỉ đến với những học giả triển vọng nhất, và đến với những người mà ta nghĩ có thể đủ kiên trì để theo đuổi con rồng đến tận hang ổ của nó. Và ngươi là người đầu tiên thực sự làm được việc ấy. Ta chúc mừng ngươi. Ta để lại những kẻ phụ tá khác trong thế giới trần tục, để thực hiện công cuộc nghiên cứu của ta.”

“Tôi đâu có theo đuổi ông,” tôi đánh bạo phản bác lại. “Ông đã mang tôi đến đây.”

“À...” Đôi môi đỏ choét của hắn lại nhếch lên, bộ ria mép giật giật. “Ngươi sẽ không ở đây nếu ngươi không muốn đến. Không một người nào dám coi thường lời cảnh báo của ta đến hai lần trong đời. Ngươi đã tự dẫn xác đến đây.”

Tôi nhìn vào cái máy in cổ lỗ sĩ và bản khắc gỗ hình rồng. “Tại sao ông muốn tôi ở đây?” Tôi không muốn chọc tức hắn bằng những câu hỏi này nọ; nếu muốn, hắn có thể giết tôi vào tối mai, nếu suốt thời gian ban ngày tôi không tìm được cách trốn thoát. Nhưng tôi không thể ngăn mình bật ra câu hỏi đó.

“Ta đã chờ đợi rất lâu một người có thể sắp xếp, phân loại lại cái thư viện này,” hắn trả lời một cách đơn giản. “Ngày mai, ngươi sẽ tự do nhìn ngắm tất cả mọi thứ trong thư viện. Tối nay chúng ta sẽ thảo luận.” Hắn quay trở lại ghế, bước đi chậm rãi, đầy uy quyền. Những lời hắn nói khiến tôi cảm thấy tràn trề hy vọng - dường như hắn thực sự không có ý muốn giết tôi vào tối nay, hơn nữa, tính hiếu kỳ cũng đang sôi sục trong người tôi. Tôi không đang mơ, có vẻ vậy; tôi đang nói chuyện với một kẻ đã sống xuyên suốt một lịch sử dài hơn bất kỳ sử gia nào may ra có thể nghiên cứu được, thậm chí ở mức sơ đẳng nhất, trong sự nghiệp của mình. Tôi đi theo hắn, thận trọng giữ khoảng cách, và cả hai lại ngồi xuống trước lò sưởi. Khi đã ổn định chỗ ngồi tôi mới để ý thấy chiếc bàn với những đĩa bát trống trơn của bữa ăn tối đã biến mất, thay vào đó là một ghế nệm dài trông rất thoải mái mà tôi thận trọng gác chân lên. Dracula ngồi thẳng người, đường bệ trên chiếc ghế dựa to. Ghế của hắn cao, bằng gỗ và cũ xưa từ thời Trung cổ trong khi ghế của tôi được bọc nệm êm ái như chiếc ghế dài, tựa như hắn nghĩ phải cung cấp cho vị khách của mình một thứ phù hợp với tính yếu đuối nhu nhược của thời hiện đại.

Chúng tôi ngồi trong yên lặng một lúc lâu, ngay vào lúc tôi bắt đầu tự hỏi phải chăng hắn định để cả hai ngồi như vậy suốt đêm thì hắn bắt đầu lên tiếng. “Khi còn sống, ta rất thích sách,” hắn nói. Hắn khẽ xoay mặt về phía tôi, khiến tôi có thể nhìn thấy ánh đèn phản chiếu bóng láng trên mái tóc dày và lấp lánh trong đôi mắt hắn. “Có lẽ ngươi không biết ta cũng gần như là một học giả. Đấy là điều ít ai biết.” Hắn nói, vẻ rất bình thản. “Ngươi vẫn biết sách vở thời của ta rất hạn chế về chủng loại. Trong cuộc đời trần tục của ta, chủ yếu ta chỉ nhìn thấy những văn bản được Giáo hội thừa nhận - chẳng hạn như những cuốn Phúc âm cùng với lời chú giải của Giáo hội Chính thống. Những cuốn sách đó rốt cuộc lại chẳng có ích lợi gì với ta. Và vào thời điểm ta chính thức lên ngôi lần đầu tiên thì những thư viện lớn ở Constantinople đã bị phá hủy. Những gì còn lại của chúng nằm trong các tu viện, ta chẳng bao giờ có thể bước vào đó để xem tận mắt.” Hắn nhìn chăm chăm vào ngọn lửa. “Nhưng ta có những nguồn khác. Bọn thương nhân đã mang đến cho ta những cuốn sách lạ lùng và tuyệt vời, từ nhiều địa phương khác nhau - Ai Cập và Vùng Đất Thánh, và những tu viện lớn ở phương Tây. Từ những cuốn sách đó, ta biết về sự huyền bí cổ xưa. Bởi ta biết mình không thể đạt đến một thiên đường toàn mỹ,” - lại vẫn cái giọng bình thản đó - “ta đã trở thành một sử gia để gìn giữ mãi mãi lịch sử của chính ta.”

Hắn bỗng im bặt một lúc, nhưng tôi sợ không dám hỏi gì thêm. Sau cùng, có vẻ như chợt tỉnh, hắn vỗ bàn tay to tướng lên thành ghế. “Đó là căn nguyên của cái thư viện này.”

Mặc dù thấy khó mà diễn đạt được câu hỏi của mình, tôi vẫn không thể nào giữ im lặng nổi vì quá tò mò. “Nhưng sau khi... chết, ông vẫn tiếp tục sưu tập những cuốn sách này?”

“Ồ, đúng vậy.” Lần này hắn quay lại nhìn tôi, có lẽ do tôi đã tự ý nêu câu hỏi, và nở một nụ cười khắc nghiệt. Đôi mắt hắn bị sấp bóng bởi ánh lửa, quá khủng khiếp đến nỗi tôi không dám nhìn vào. “Ta đã nói với ngươi, tự trong tâm khảm ta là một học giả và cũng là một chiến binh, ta đã bầu bạn với các cuốn sách này qua bao năm tháng. Thêm nữa, có nhiều điều thiết thực phải học hỏi từ sách vở - chẳng hạn như nghệ thuật chính trị, chiến thuật của các vị tướng vĩ đại. Nhưng ta có rất nhiều loại sách. Ngày mai nhà ngươi sẽ thấy.”

“Vậy ông muốn tôi làm gì cho thư viện của ông?”

“Như ta đã nói, lập danh mục cho thư viện. Ta chưa bao giờ lập một hồ sơ ghi lại đầy đủ tài sản của mình, về nguồn gốc và tình trạng của chúng. Đó sẽ là nhiệm vụ đầu tiên của ngươi, và với việc thông thạo nhiều ngôn ngữ cũng như kiến thức uyên thâm của mình, ngươi sẽ hoàn thành nhiệm vụ đó một cách nhanh chóng và xuất sắc hơn bất kỳ ai khác. Trong thời gian tiến hành nhiệm vụ này, ngươi sẽ được sử dụng một số cuốn sách đẹp nhất - và quyền lực nhất - từ trước đến nay. Nhiều cuốn trong số đó sẽ không bao giờ còn hiện diện ở bất kỳ nơi nào khác. Có lẽ ngươi cũng biết, giáo sư ạ, chỉ khoảng một phần ngàn các tác phẩm văn học từng được xuất bản là còn tồn tại? Nhiều thế kỷ qua, ta đã đặt ra cho mình một sứ mệnh là nâng cái tỷ lệ đó lên.” Khi hắn nói, tôi lại nhận ra sự rõ ràng mà lạnh lùng kỳ dị và cái âm thanh lách tách trong sâu thẳm giọng nói của hắn - giống như tiếng kêu của loài rắn đuôi chuông, hay tiếng nước lạnh chảy trên đá.

“Nhiệm vụ thứ hai của ngươi quan trọng hơn nhiều. Thực ra, nó sẽ kéo dài mãi mãi. Khi ngươi đã biết tường tận thư viện này và mục đích của nó giống như ta, ngươi sẽ trở lại với thế giới ngoài kia, dưới sự chỉ huy của ta, để tìm kiếm những nguồn sách mới - và cả sách cũ nữa, bởi ta chưa bao giờ ngưng sưu tầm những tác phẩm đã có trong quá khứ. Ta sẽ đặt nhiều chuyên viên lưu trữ dưới quyền sai khiến của ngươi - những tay cừ nhất - và ngươi sẽ mang về nhiều tay chân dưới quyền chúng ta hơn nữa.”

Tầm cỡ của viễn cảnh này và ý định đầy đủ của hắn, nếu tôi hiểu chính xác, bất chợt khiến tôi toát mồ hôi lạnh. Tôi nghe được chính cái giọng run run của mình. “Sao ông không tự mình tiếp tục công việc này?”

Hắn nhìn vào ngọn lửa, nở một nụ cười, và lại một lần nữa tôi thấy lóe lên một gương mặt khác - bộ mặt của loài chó, chó sói. “Hiện tại ta đang có nhiều việc khác phải đeo đuổi. Thế giới đang biến đổi và ta dự định phải biến đổi theo. Có lẽ chẳng bao lâu nữa ta sẽ không cần đến cái hình hài này” - hắn chậm chạp đưa tay chỉ vào bộ quần áo lộng lẫy thời Trung cổ của mình - “để hoàn thành tham vọng của mình. Nhưng đối với ta, thư viện này rất quý giá và ta muốn nhìn thấy nó phát triển. Vả lại, có đôi khi ta cảm thấy nơi này càng lúc càng kém an toàn. Nhiều sử gia đang tiếp cận rất gần để tìm kiếm nó, và chắc hẳn ngươi đã tìm được với các phương tiện của riêng ngươi nếu ta để ngươi có đủ thời gian. Nhưng ta cần ngươi ở ngay đây. Ta ngửi thấy mùi nguy hiểm đang đến gần, và thư viện này phải được lập danh mục trước khi chuyển đi.”

Trong một thoáng, tôi lại có thể vờ như mình đang mơ. “Ông sẽ dời nó đi đâu?” Và cả tôi theo ư? Có lẽ tôi nên thêm vào như vậy.

“Đến một địa điểm cổ xưa, thậm chí còn cổ xưa hơn nơi này và có nhiều kỷ niệm đẹp đối với ta. Một chốn hẻo lánh, nhưng gần các thành phố lớn và hiện đại hơn, nơi ta có thể đến và đi dễ dàng. Chúng ta sẽ bố trí thư viện ở đó và ngươi sẽ tha hồ mà làm cho nó phát triển.” Hắn nhìn tôi với vẻ tin cậy mà nếu ở trên khuôn mặt một con người, ta có thể coi đó là sự thương yêu. Rồi hắn đứng dậy với kiểu cử động mạnh mẽ và lạ lùng của mình. “Chúng ta đã bàn bạc đủ cho một đêm - ta thấy ngươi đã mệt. Chúng ta hãy dùng những giờ còn lại này để đọc một lát, như ta vẫn thường làm, và sau đó ta sẽ ra ngoài. Khi trời sáng, ngươi sẽ tìm thấy giấy bút ở gần máy in, hãy sử dụng chúng để bắt đầu công việc lập danh mục của mình. Ngươi sẽ thấy những cuốn sách của ta được sắp xếp theo từng loại, chứ không phải theo thế kỷ hoặc thập kỷ. Ngoài ra, ta đã cung cấp cho ngươi một máy đánh chữ. Dù muốn ngươi soạn bộ danh mục này bằng tiếng Latin hơn, nhưng ta để ngươi tùy nghi lựa chọn trong việc này. Và, lẽ tất nhiên, từ giờ trở đi ngươi được tự do, đọc bất cứ lúc nào và bất kỳ thứ gì ngươi muốn.”

Đến đây, hắn đứng dậy chọn một cuốn sách trên bàn, rồi ngồi lại xuống ghế. Tôi sợ không dám không làm theo, và cầm lấy cuốn đầu tiên chạm tay vào. Hóa ra đó là một ấn bản đầu tiên của Machiavelli_(1): cuốn Quân Vương, kèm theo là một loạt bài diễn văn, thuyết trình về chủ đề đạo đức mà tôi chưa bao giờ đọc hoặc nghe nói đến. Trong tâm trạng hiện tại, quả thực tôi không thể bắt đầu tìm hiểu điều gì trong đó mà chỉ ngồi nhìn chăm chăm vào những dòng chữ, hoặc lật bâng quơ một trang nào đó. Có vẻ như Dracula hoàn toàn say sưa đọc sách. Tôi lén liếc nhìn hắn, tự hỏi làm sao hắn thích nghi được với sự tồn tại trong bóng đêm, dưới lòng đất thế này, cuộc sống của một học giả sau một đời chiến chinh trận mạc.

Sau cùng, hắn đứng dậy, yên lặng bỏ cuốn sách qua một bên. Không nói một lời, hắn bước vào bóng tối của gian đại sảnh, khiến tôi không còn phân biệt được hình dáng của hắn nữa. Sau đó, tôi nghe như có tiếng cào bới sột soạt khô khốc, như tiếng động của một con thú trong hang sập, hoặc tiếng quẹt diêm dù không thấy có ánh lửa nào, rồi tôi cảm thấy mình hoàn toàn đơn độc. Tôi dỏng tai lắng nghe nhưng vẫn không thể xác định hắn đi ra theo hướng nào. Ít ra thì tối hôm nay hắn sẽ không è cổ tôi ra để hút máu. Tôi kinh hoàng tự hỏi không biết hắn để dành tôi làm gì, trong khi hắn có thể vừa nhanh chóng biến tôi thành tay sai vừa thỏa mãn cơn khát máu. Tôi cứ ngồi trên ghế như thế hàng giờ liền, thỉnh thoảng đứng dậy vươn vai để cơ thể bớt đau nhức. Tôi không dám ngủ khi trời chưa sáng, nhưng dù không muốn, chắc hẳn tôi đã chợp mắt một chút trước lúc bình minh, bởi tôi bất chợt tỉnh lại khi cảm thấy sự thay đổi trong không khí, dù ánh sáng không lọt được vào căn phòng tăm tối này, và nhìn thấy Dracula trong chiếc áo choàng đang tiến gần đến lò sưởi. “Chúc một ngày tốt lành,” hắn điềm tĩnh nói, rồi quay người đi về hướng bức tường tối đen, nơi có cỗ quan tài đá của tôi. Tôi đã đứng dậy do tác động của sự hiện diện của hắn. Rồi, lại một lần nữa, tôi không thể nhìn thấy hắn, và một sự im lặng sâu thẳm bao phủ xung quanh tôi.

Một lúc lâu sau, tôi cầm nến của mình lên thắp lại những cây nến khác trong giá đèn và cả những cây trong chân đế dọc theo các vách tường. Trên nhiều chiếc bàn, tôi phát hiện ra những cây đèn sứ hoặc đèn lồng nhỏ bằng sắt, và tôi thắp một vài cây trong số đó. Tôi cảm thấy ít nhiều khuây khỏa khi có nhiều ánh sáng hơn, nhưng rồi tôi lại băn khoăn không biết mình có còn được nhìn lại ánh sáng mặt trời, hay đã bắt đầu cuộc sống vĩnh cửu trong bóng tối và ánh nến lập lòe - cuộc sống ấy trải ra trước mắt tôi như một cảnh địa ngục. Giờ thì ít ra tôi có thể nhìn thấy căn phòng rõ hơn; đó là một phòng rất lớn, dọc theo các bức tường là những tủ kệ khổng lồ. Khắp nơi toàn là sách, hộp, cuộn bản thảo, hàng chồng hàng dãy bộ sưu tập đồ sộ của Dracula. Dọc theo một bức tường là hình dáng lờ mờ của ba cỗ quan tài đá. Hai cái nhỏ hơn trống trơn - chắc hẳn tôi đã tỉnh lại ở một trong ba chiếc quan tài đó.

Rồi tôi thấy cỗ quan tài lớn nhất, uy nghi hơn hai cái kia, trông đồ sộ và cân xứng dưới ánh nến. Dọc theo cạnh bên là một từ được khắc bằng ký tự Latin: DRACULA. Hầu như vô thức, tôi đưa cao cây nến, nhìn vào bên trong. Thân xác to lớn của hắn đang nằm ở đó, trơ trơ. Lần đầu tiên tôi nhìn rõ ràng cận cảnh gương mặt dữ tợn của hắn, và dù vô cùng khiếp sợ tôi vẫn cứ đứng đó, nhìn trân trân. Lông mày hắn nhíu lại như đang mơ một giấc mơ khó chịu, mắt mở to, nhìn trừng trừng, do vậy trông hắn giống như đã chết hơn là đang ngủ, màu da vàng bợt bạt, lông mi đen dài bất động, những nét cương nghị, có thể gọi là đẹp, trên mặt hắn trông như mờ đi. Mớ tóc đen dài của hắn phủ quanh vai, xõa ra hai bên thành quan tài. Kinh khủng nhất là cái màu đỏ tươi trên má trên môi, trước đó trong ánh sáng lò sưởi tôi không thể nhìn được toàn bộ gương mặt cũng như hình dáng hắn. Quả thực hắn đã miễn thứ cho tôi đêm nay, nhưng ở đâu đó ngoài kia, trong đêm tối, hắn đã uống no nê máu của ai đó. Cái vết nhỏ máu của tôi trên môi hắn đã biến mất; nhưng giờ dưới bộ ria mép đen, đôi môi đó lại tươi một màu đỏ thắm. Tôi cảm thấy ớn lạnh cả người khi nhận ra vẻ dồi dào sinh lực và khỏe mạnh của hắn là hoàn toàn giả tạo - hắn không thở, ngực bất động, hoàn toàn không một chút phập phồng. Một điều khác thường nữa: hắn đang mặc một bộ đồ khác, cũng lộng lẫy và đẹp như bộ tôi đã thấy, áo và ủng màu đỏ sậm, áo choàng và mũ bằng nhung tím. Áo choàng đã hơi sờn vai, còn mũ gắn một chiếc lông vũ màu nâu. Cổ áo lấp lánh những viên đá quý.

Tôi đứng đó, nhìn đăm đăm cho đến khi cảm thấy như sắp ngất đi vì cái cảnh tượng kỳ lạ trước mắt, rồi tôi lùi lại một bước và cố tập trung suy nghĩ. Hãy còn sớm - từ giờ cho đến hoàng hôn, tôi còn nhiều thời gian. Trước tiên, tôi sẽ tìm một lối thoát, sau đó sẽ tìm cách tiêu diệt sinh vật này khi hắn đang ngủ, và dù chế ngự hắn được hay không tôi cũng phải biến ngay tức khắc. Tôi cầm chặt ngọn nến trong tay. Phải nói rằng tôi đã sục sạo khắp căn phòng đá khổng lồ trong suốt hơn hai giờ đồng hồ mà không thấy một lối thoát nào cả. Ở một đầu, đối diện với lò sưởi, là một cánh cửa gỗ lớn với ổ khóa bằng sắt, tôi hết đẩy lại kéo cánh cửa, cứ cố cho đến lúc người mệt lử và đau nhức toàn thân. Cánh cửa chẳng hề nhúc nhích; thực ra, tôi tin là nó đã không mở ra từ nhiều năm qua - có khi từ nhiều thế kỷ. Không còn cách nào khác để thoát ra - không cửa khác, không đường hầm, không một viên đá lung lay hay một kẽ hở nào. Chắc chắn cũng không có cửa sổ, vì tôi cảm giác mình đang ở khá sâu trong lòng đất. Hốc tường duy nhất là nơi đặt ba cỗ quan tài, và ở đó, các tảng đá cũng trơ trơ bất di bất dịch. Quả là một sự tra tấn khi phải sờ soạng dọc theo bức tường đó trong tầm nhìn của khuôn mặt cứng đơ với đôi mắt mở to thao láo của Dracula; cho dù đôi mắt đó hoàn toàn bất động, tôi vẫn cảm thấy chúng hẳn phải có năng lực theo dõi và nguyền rủa kỳ bí nào đó.

Tôi lại ngồi xuống bên lò sưởi để phục hồi cái sức lực đang tàn tạ của mình. Trong lúc hơ tay trên lửa, tôi để ý thấy dù đang ngốn những cành cây hoặc khúc gỗ thực sự, ngọn lửa không hề cháy nhỏ hơn và tỏa ra một hơi nóng dễ chịu, có thể cảm nhận rõ rệt. Bấy giờ tôi cũng phát hiện ra nó không có khói; nó đã cháy như vậy suốt đêm ư? Tôi đưa tay ôm mặt, tự cảnh báo chính mình. Tôi cần hết sức tỉnh táo. Thực ra - trong khoảnh khắc đó tôi đã đề ra quyết tâm - tôi sẽ xem nhiệm vụ của mình là giữ tâm trí và đạo đức nguyên vẹn cho đến giờ phút cuối cùng. Đó sẽ là điều nâng đỡ tôi, phương tiện sống cuối cùng còn lại của tôi.

Khi đã trấn tĩnh trở lại, tôi lại bắt đầu sục sạo, một cách có hệ thống, tìm kiếm bất kỳ phương cách khả dĩ nào có thể tiêu diệt tên chủ nhà gớm guốc kia. Lẽ tất nhiên, nếu thực hiện thành công việc đó, tôi cũng sẽ chết ở đây, trong đơn độc, không một lối thoát, nhưng hắn cũng sẽ không bao giờ rời khỏi căn phòng này để săn đuổi, làm hại con người ở thế giới ngoài kia được nữa. Đã hơn một lần tôi thoáng nghĩ đến sự giải thoát êm ái của việc tự sát, để rồi nhận ra rằng mình không được phép hành động như vậy. Tôi đã có nguy cơ trở thành giống như Dracula, và truyền thuyết đã quả quyết là bất kỳ người nào bị nhiễm như tôi nếu tự tử cũng có thể trở thành quỷ nhập tràng mà không cần phải bị cắn thêm lần nào nữa - một truyền thuyết ác độc nhưng tôi vẫn buộc phải lưu ý. Đối với tôi, chọn lựa đó kể như đã phá sản. Đưa cao ngọn nến, tôi lùng sục khắp mọi ngóc ngách trong phòng, mở tung các ngăn hộp, kiểm tra các giá kệ. Chắc ông hoàng ranh mãnh này không để lại cho tôi một thứ vũ khí nào có thể sử dụng chống lại hắn, nhưng tôi cứ phải tìm. Và tôi không tìm thấy gì, thậm chí không cả một khúc gỗ mà tôi hy vọng bằng cách nào đó có thể chuốt nhọn thành một cây cọc. Khi tôi thử lôi một khúc cây trong lò sưởi ra, ngọn lửa bất ngờ phực lên, cháy đến tay tôi. Tôi đã thử làm đi làm lại nhiều lần, nhưng lần nào cũng là cái kết cục quái quỷ kia.

Sau cùng tôi quay lại cỗ quan tài lớn nằm ở chính giữa, kinh hoàng nghĩ đến cái phương tiện cuối cùng đang nằm ở đó: lưỡi gao găm Dracula mang ở thắt lưng. Bàn tay sứt sẹo của hắn đang nắm chặt chuôi dao. Con dao có thể làm bằng bạc, trong trường hợp ấy, tôi có thể cắm lưỡi dao này vào tim hắn, nếu tôi lấy được nó ra khỏi người Dracula. Tôi ngồi xuống một lát để dồn hết can đảm cho nỗ lực này, và cũng để vượt qua nỗi khiếp sợ. Rồi tôi đứng dậy, thận trọng đưa tay đến gần lưỡi dao, tay kia giương cao ngọn nến. Gương mặt khắc nghiệt của Dracula không hề biểu lộ chút sự sống nào khi tôi rụt rè chạm tay vào, tôi nhận thấy như vậy, dù nét ác độc trên mặt và vẻ cau có của cái mũi có vẻ như rõ ràng và gay gắt hơn. Nhưng tôi kinh hoàng nhận ra bàn tay to tướng kia, vì lý do nào đó, lại đang nắm chặt cán dao. Phải gỡ bàn tay ấy ra mới chạm đến được con dao. Tôi để tay lên tay Dracula, và cảm giác khi chạm vào đó là một nỗi kinh hoàng mà tôi không muốn ghi lại ở đây, dù sẽ chẳng ai đọc được những dòng này ngoài bản thân tôi. Bàn tay hắn khép chặt, cứng ngắt như đá trên chuôi dao. Tôi không thể gỡ tay hắn ra nổi, thậm chí không thể khiến nó nhúc nhích; tình thế chẳng khác gì tôi đang cố gỡ một con dao ra khỏi tay một bức tượng cẩm thạch. Đôi mắt chết chóc kia như đang rực lên vẻ căm hận. Liệu sau này khi tỉnh dậy hắn có nhớ việc này không? Tôi thụt lui, mệt nhoài, cảm thấy sức lực như đã cạn kiệt, và tôi lại ngồi bệt xuống sàn một lúc lâu, cây nến vẫn cầm trong tay.