Hồng lâu mộng - Chương 001 - Phần 2

Sĩ Ẩn đang muốn cất bước đi theo, chợt một tiếng sét dữ dội như núi lở đất sụp. Sĩ Ẩn kêu lên một tiếng, mở choàng mắt ra, chỉ thấy trời nắng chang chang, rặng chuối phơ phất, những việc trong mộng đã quên mất một nửa. Lại thấy vú già ẵm Anh Liên đến. Nhìn đứa con gái mặt mày tươi đẹp, ngoan ngoãn đáng mừng. Sĩ Ẩn giơ tay bế vào lòng, đùa với nó một lúc rồi ẵm ra ngoài phố xem người qua lại nhộn nhịp. Khi sắp đi về thấy một nhà sư, một đạo sĩ đi lại. Nhà sư đầu chốc, đi đất, đạo sĩ chân khiễng, tóc bù đang cười cười nói nói, như dại như điên. Đến trước cửa, trông thấy Sĩ Ẩn ẵm Anh Liên, nhà sư khóc to lên:

- Thí chủ! Con bé này có mệnh không có vận, làm lụy đến cha mẹ, thí chủ ẵm nó làm gì?

Sĩ Ẩn nghe nói, cho là rồ dại không thêm chấp. Nhà sư thấy thế lại nói:

- Thí chủ cho tôi cho! Thí chủ cho tôi cho!.

Sĩ Ẩn khó chịu, ẵm ngay con toan quay vào nhà. Nhà sư trỏ vào Sĩ Ẩn cười ồ lên, rồi đọc ngay bốn câu:

Chú ngốc nuông con khéo nực cười,

Gương lăng(15) luống để tuyết pha phôi,

Nguyên tiêu(16) đêm ấy coi chừng đấy,

Lửa khói tan tành sắp tới nơi.

(15). Lăng hoa kính là một thứ gương quý ớ lẩu trang, cũng dùng để ví người đàn bà đep. Chữ lăng ở đây còn ẩn giấu một sấm ngữ, vi Anh Liên về sau bị Bàn Tiết cướp lấy làm tiểu thiếp, đổi tên là Hương Lăng.

(16). Ngày rằm tháng giêng, còn gọi là tiết hoa đăng.

Sĩ Ẩn nghe nói, trong lòng do dự, muốn đến hỏi lai lịch, thì đạo sĩ đã bảo vị sư:

- Chúng ta không cần cùng đi một đường, hãy tạm chia tay, mỗi người mỗi việc. Ba kiếp sau, tôi chờ núi Bắc Mang, chúng ta sẽ lại họp mặt, rồi đến Thái Hư Cảnh Ao xóa sổ để kết thúc chuyện này.

Nhà sư nói:

- Hay lắm! Hay lắm!

Nói xong, thoáng một cái, hai ngươi mất hút, không thấy đâu nữa. Sĩ Ẩn nghĩ bụng: “Hai người này tất có lai lịch, đáng lẽ ta nên hỏi rõ mới phải, bây giờ ăn năn cũng muộn rồi”.

Sĩ Ẩn đương lúc vẩn vơ suy nghĩ, chợt trông thấy một nhà nho nghèo, ở trọ trong miếu Hồ Lô, bên cạnh nhà mình, họ Giả tên Hóa, tên chữ là Thời Phi, biệt hiệu Vũ Thôn, đi đến. Giả Vũ Thôn người Hồ Châu, vốn dòng thi thư thế hoạn, nhưng vì sinh vào lúc cảnh nhà sa sút, của hết người hiếm, chỉ còn trơ trọi một mình. Ở nhà cũng vô ích, Vũ Thôn lên kinh mong lập công danh, dựng lại cơ nghiệp. Hắn đến đây tự năm ngoái, nhưng vì túng thiếu nên đành ở tạm trong miếu, hàng ngày bán chữ viết văn để sống, bởi thế Sĩ Ẩn thường cùng hắn đi lại chơi bời.

Vũ Thôn trông thấy Sĩ Ẩn, vội vàng chào hỏi:

- Tiên sinh đứng ngóng gì đấy, chắc ngoài phố có cái gì mới lạ?

Si ẩn cười đáp:

- Chẳng có gì, chỉ vì cháu khóc, tôi mang nó ra đây. Đúng lúc buồn, lại gặp tôn huynh đến, xin mời vào chơi, chúng ta nói chuyện tiêu khiển cho hết quãng ngày dài dằng dặc này.

Sĩ Ẩn sai người ẵm con đi, rồi dắt tay Vũ Thôn vào thư phòng, gọi tiểu đồng pha trả.

Hai người vừa mới nói chuyện được dăm ba câu thì có người nhà vào báo:

- Có cụ Nghiêm tới chơi.

Sĩ Ẩn vội vàng đứng dậy cáo lỗi:

- Xin tôn huynh thứ lỗi, hãy tạm ngồi chơi, tôi đi ra rồi sẽ trở lại ngay.

Vũ Thôn cũng đứng dậy, khiêm tốn nói:

- Xin tiên sinh cứ tự tiện, tôi đến chơi luôn, có chờ một phút cũng chẳng sao.

Nói xong Sĩ An đi ra.

Vũ Thôn ngồi buồn, giở sách ra xem, chợt nghe ngoài cửa sổ có tiếng người con gái ho. Vũ Thôn đứng dậy nhìn ra, thấy một a hoàn đương hái hoa, dáng điệu thanh nhã, mặt mày tươi tắn, tuy không đẹp lắm, nhưng có một vài nét làm người ta xiêu lòng. Vũ Thôn bất giác đứng ngây người ra. A hoàn hái hoa xong, sắp đi, bỗng ngẩng đầu lên trông thấy có người đứng trong cửa sổ, áo cũ khăn rách, tuy có vẻ nghèo, nhưng lưng tròn, vai rộng, mặt to, miệng vuông, lông mày sắc; đôi mắt sáng, mũi thẳng, má nở. Nó vội quay mình lánh đi, nghĩ bụng: “Ngươi này dáng điệu oai vệ sao lại ăn mặc lam lũ như vậy? Có lẽ là ông Giả Vũ Thôn mà chủ ta thường nhắc đến chăng? Chủ ta vẫn có ý muốn giúp đỡ ông ta, nhưng chưa có dịp. Những khách quen nhà ta không có ai nghèo túng cả. Nhất định là hắn, chứ chẳng còn ai. Thảo nào chủ ta thường nói ông này không phải là người chịu khổ mãi”. Nghĩ thế, tự nhiên nó lại quay đầu lại nhìn. Vũ Thôn thấy a hoàn ngoảnh lại, cho là nàng có ý với mình, vui mừng khôn xiết, nghĩ bụng: “Người con gái này có mắt tinh đời, quả là người tri kỷ trong lúc phong trần”.

Một lúc tiểu đồng đi vào, Vũ Thôn mới biết ngoài nhà giữ khách lại ăn cơm. Hắn không chờ được, bèn theo đường bên cạnh đi ra. Sĩ Ẩn thết khách xong, biết Vũ Thôn đã về rồi, cũng không tiện cho đi mời nữa.

Một hôm vào tiết Trung Thu, ăn tiệc xong, Sĩ Ẩn sai dọn một tiệc nữa ở thư phòng, rồi tự mình dưới bóng trăng đến miếu mời Vũ Thôn.

Từ ngày Vũ Thôn thấy a hoàn nhà họ Chân nhìn mình mấy lần, cho là tri kỷ, nên lúc nào cũng mơ tưởng đến. Nhân gặp tiết Trung thu, ngắm trăng nhớ đến người, Vũ Thôn ngâm một bài thơ ngũ ngôn:

Ba sinh chưa thỏa nguyện,

Tấc dạ những thêm sầu.

Buồn quá hay ủ mặt,

Đi qua thường ngoái đầu.

Trước gió riêng nhìn bóng,

Dưới trăng ai bạn bầu?

Chị Nguyệt hay chăng tá?

Mời lên chốn ngọc lâu.

Vũ Thôn ngâm xong, nghĩ mình bình sinh có chí khí lớn, nhưng chưa gặp thời, liền ngửa mặt lên trời, gãi đầu than thở, ngâm to một câu:

Ngọc giấu đáy hòm chờ giá bán

Thoa nằm trong hộp đợi thời bay.

Sĩ Ẩn đi đến, nghe thấy, cười nói:

- Tôn huynh thực có chí khí hơn người?

Vũ Thôn vội cười đáp:

- Không dám! Chợt ngâm câu thơ cổ, cớ đâu dám ngông cuồng đến thế! Và hỏi lại:

- Tiên sinh cao hứng gì mà đến đây?

- Đêm nay tiết Trung thu, tục thường gọi tiết đoan viên. Nghĩ đến tôn huynh trọ ở chốn tăng phòng, có lẽ cũng hiu quạnh, cho nên tôi có bày riêng một tiệc mời tôn huynh sang bên nhà thưởng trăng, không biết tôn huynh có chiếu cố cho không

Vũ Thôn nhận lời ngay, cười nói:

- Được, tiên sinh quá yêu, tiểu đệ đâu dám trái ý.

Vũ Thôn liền theo Sĩ Ẩn về thư phòng.

Hai người uống nước trà xong. Một chốc, tiệc bày ra, rượu ngon, thức nhắm tốt, không cần phải nói. Hai người lúc đầu còn uống thong thả, sau dần trò chuyện cao hứng, thi nhau chuốc chén. Bấy giờ ngoài phố nhà nào nhà nấy đàn sáo ca hát. Vừng trăng vằng vặc, sáng tỏ giữa trời. Hai người càng hào hứng, rót đến đâu cạn đến đấy. Vũ Thôn lúc này đã ngà ngà say, không giữ nổi cuồng hứng, trông trăng ngụ ý ngâm một bài:

Đêm rằm gặp buổi đoàn loan,

Sáng trong, dõi khắp lan can phía ngoài.

Vừng trăng vừa ló trên trời.

Duới trần ngửa mặt muôn người ngắm trông.

Sĩ Ẩn nghe rồi nói to:

- Hay lắm! Tôi thường nói tôn huynh không phải là người tầm thường. Nay ngâm câu này, tất phải có triệu chứng bay nhảy, chả mấy ngày nữa sẽ nhẹ bước thang mây. Đáng mừng! Đáng mừng!

Rồi tự tay rót một chân rượu chúc mừng. Vũ Thôn uống cạn, than rằng:

- Không phải vãn sinh say rượu nói ngông đâu. Về lối học khoa cử, vãn sinh cũng có thể dự tên trên bảng. Chỉ vì hiện nay thiếu tiền lộ phi, không xoay vào đâu được. Đường vào kinh thì xa, nếu chỉ nhờ vào tiền bán chữ, viết văn, không thể đủ được?

Sĩ Ẩn không đợi nói hết, ngắt lời ngay:

- Sao tôn huynh không nói trước? Tôi vẫn có ý ấy, không thấy tôn huynh nói đến, nên tôi không dám đường đột. Tôi tuy bất tài cũng có thể hiểu được hai chữ nghĩa và lợi. Sang năm có khoa thi, tôn huynh nên lên kinh thi ngay. Một khi bảng xuân cao chiếm, mới khỏi phụ tài học của mình. Còn tiền lộ phí, tôi xin thu xếp hộ, không dám làm phụ lòng tin yêu của huynh đối với tôi

Liền sai tiểu đồng vào lấy năm mươi lạng bạc và hai bộ quần áo rét ra, đưa cho Vũ Thôn. Sĩ Ẩn lại nói:

- Ngày 19 là ngày hoàng đạo, tôn huynh nên đáp thuyền đi ngay. Chờ khi cánh hồng bay bổng, mùa đông năm sau chúng ta sẽ lại gặp nhau, há không phải là một việc rất vui sướng hay sao?

Vũ Thôn liền nhận tiền và áo, chỉ cám ơn một lời, rồi cứ uống rượu, cười nói tự nhiên, đến canh ba mới tan tiệc.

Sĩ Ẩn tiễn Vũ Thôn về rồi vào buồng ngủ một mạch, khi mặt trời lên ba con sào mới dậy. Nhân nghĩ việc đêm qua, Sĩ Ẩn muốn viết hai bức thư, gởi cho người quen làm ở Kinh, tiến cử Vũ Thôn, để Vũ Thôn có chỗ nương thân. Liền cho người đến nhà mời Vũ Thôn, người nhà vừa đi đã về ngay nói:

- Hòa thượng ở đó bảo ông Giả đã đi kinh từ canh năm và có lời thưa với cụ rằng: người đọc sách không cần ngày “hoàng đạo” hay “hắc đạo” chỉ cần được việc thôi, nên đi không kịp từ biệt.

Sĩ Ẩn nghe nói, cũng thôi không nghĩ đến nữa.

Tháng ngày thấm thoắt, đã đến tiết nguyên tiêu. Sĩ Ẩn sai người nhà là Hoắc Khải ẵm Anh Liên đi xem hội hoa đăng. Đến nửa đêm, Hoắc Khải đặt Anh Liên ngồi ở ngoài cứa một mình rồi đi tiểu. Khi quay lại, không thấy Anh Liên đâu, Hoắc Khải hốt hoảng đi tìm suốt đêm, sợ không dám về báo cho chủ biết liền trốn đi nơi khác.

Sáng hôm sau, vợ chồng Sĩ Ẩn không thấy con về, biết rằng có chuyện không hay xảy ra, liền sai người đi tìm các ngả, tuyệt nhiên không thấy tung tích. Vợ chồng Sĩ Ẩn nửa đời người mới có mụn con gái, bây giờ lạc mất, buồn rầu biết là chừng nào! Vì thế ngày đêm than khóc, dở chết dở sống. Một tháng sau vì thương nhớ con Sĩ Ẩn bị ốm, vợ là họ Phong cũng ốm, ngày ngày thuốc thang bói toán.

Đến rằm tháng ba, trong miếu Hồ Lô bày cỗ cúng Phật, hòa thượng không cẩn thận để chảo dầu bốc cháy lan ra giấy dán cửa sổ. Các nhà ở vùng ấy đều giậu tre vách ván, dường như đó cũng là số kiếp phải chịu, nên cứ nhà nọ cháy sang nhà kia, cả phố bốc lên như núi lửa. Bấy giờ tuy có quân dân đến chửa, nhưng lửa đã cháy to, không sao cứu được! Cháy suốt một đêm mới tắt, bao nhiêu nhà đều hóa ra tro. Đáng thương nhất lả nhà họ Chân ở ngay liền miếu, chỉ còn trơ lại một đống ngói gạch vụn. May sao hai vợ chồng và người nhà không ai việc gì. Sĩ Ẩn dậm chân thở dài, bàn với vợ về trại ở. Nhưng lại gặp mất năm mất múa, trộm cướp như ong, tranh ruộng cướp đất, dân khổ trăm chiều. Vì vậy quan quân đến nã bắt luôn, khó bề yên thân được. Sĩ Ẩn phải bán trang trại, đem vợ và hai người đầy tớ gái về ở với bố vợ là Phong Túc, một người làm ruộng, nhưng là hạng giàu có ở châu Đại Như. Thấy con rể bối rối đến ở nhờ, Phong Túc trong bụng khó chịu. Sĩ Ẩn may còn có số tiền, liền bỏ ra nhờ bố vợ mua hộ nhà đất để làm kế sinh nhai. Phong Túc vừa mua vừa ăn bớt, chỉ còn được một ít nhà nát ruộng xấu. Sĩ Ẩn lại là nhà nho, không quen việc cày cấy, gạo qua một vài năm, vốn liếng hết sạch. Phong Túc trước mặt rể thì nói năm ba câu sáo, nhưng khi gặp người khác thì lại nói xấu rể chỉ quen ăn biếng làm. Sĩ Ẩn biết thế, trong lòng rất hối hận, nghĩ đến tai biến năm trước, vừa tức vừa giận, lại thêm ấp ủ mối thương tâm. Một người gần đến tuổi già như Sĩ Ẩn, chịu sao nổi cảnh đau ốm vã nghèo khổ giày vò, dần dần càng ngày càng cảm thấy quang cảnh tiêu điều. Một hôm, Sĩ Ẩn chống gậy ra phố chơi cho đỡ buồn, chợt thấy một vị đạo sĩ khiễng chân, giầy gai áo rách, ngông cuồng phóng túng, tập tễnh đi đến, miệng đọc mấy câu:

Người đời đều cho thần tiên hay,

Mà chuyện công danh lại vẫn say!

Xưa nay tướng soái nơi nào đây,

Một dãy mồ hoang cỏ mọc đầy!

Người đời đều cho thần tiên hay.

Những hám vàng bạc lòng không khuây!

Suốt ngày những mong chứa cho đầy,

Đến lúc dậy rồi nhắm mắt ngay!

Người đời đều cho thần tiên hay!

Nhưng thích vợ đẹp lòng không khuây!

Lúc sống ái ân kể suốt ngày,

Lúc chết liền bỏ theo người ngay!

Người đời đều cho thần tiên hay!

Muốn đông con cháu lòng không khuây!

Xưa nay cha mẹ thực khờ thay,

Con hiền cháu thảo ai thấy đây!!

Sĩ Ẩn nghe thấy, lại ngay trước mặt hỏi:

- Người đọc những câu gì mà chỉ nghe thấy “hảo liễu” “hảo liễu” thôi.

Đạo sĩ cười đáp:

- Nếu đã nghe thấy hai chữ “hảo” và “liễu” thì cũng đáng khen cho ngươi là sáng suốt. Phải biết muôn việc ở đời “hảo” tức là “liễu”, “liễu” tức là “hảo” nếu không “liễu” thì không “hảo”, mà muốn “hảo” thì phải “liễu”. Vì thế bài hát này ta gọi là bài “hảo liễu ca”(17).

(17). Bài hát này trong nguyên văn, chữ cuối trong câu thứ nhất đều là chữ “hảo” là tốt, chữ cuối cùng của các câu thứ hai và thứ tư đều là “liễu” là hết, cho nên gọi là “hảo liễu ca”.

Sĩ Ẩn vốn người thông minh, nghe nói thế, trong bụng tỉnh ngộ ngay, liền cười nói:

- Hãy thong thả! Để tôi giải nghĩ bài “háo liễu ca”, người nghĩ thế nào?

Đạo sĩ cười bảo:

- Nhà ngươi cứ giải nghĩa đi.

Sĩ Ẩn đọc luôn:

Giờ đây lều cỏ vắng tanh,

Trước kia trâm hốt sắp quanh đầy giường!

Giờ đây cây cỏ ngổn ngang,

Trước kia vũ tạ ca trường là đây,

Xà chạm kia nhện giăng đầy.

Màn the nay rũ cạnh ngay cửa bồng.

Xưa sao phấn đượm hương nồng.

Mà nay sương nhuộm như bông trên đầu?

Bãi tha ma có xa đâu,

Là nơi màn thắm là lầu uyên ương.

Hôm kia đầy những bạc vàng.

Phút đâu hành khất bên đường là ai?

Những tham số phận của người,

Biết đâu mình đã sa nơi vũng lầy?

Trai thời dạy những điều hay,

Ngờ đâu trộm cướp sau này xấu xa.

Gái thời kén cửa chọn nhà,

Ngờ đâu nhắm chỗ yên hoa rơi vào!

Mũ the chê nhỏ hay sao,

Để gông cùm phải vương vào đáng lo.

Trước manh áo rách co ro,

Mảnh bào giờ khoác lại cho là dài.

Ầm ầm trên chốn vũ đài,

Người kia vừa xuống thì người này lên.

Thực là dại dại điên điên,

Quê ai mà nhận là miền làng ta.

Quay đầu giờ mới tỉnh ra,

cưới đều là vì ai!

Đạo sĩ khiễng chân nghe xong, vỗ tay cười nói:

- Giải nghĩa rất đúng! Giải nghĩa rất đúng!

Sĩ Ẩn nói:

- Chúng ta đi thôi.

Rồi đỡ ngay cái nải trên vai đạo sĩ, đeo lên lưng, cùng với đạo sĩ ra đi vùn vụt, không về nhà nữa.

Tin ấy đồn ầm ngoài phố, người nọ nói với người kia cho là chuyện lạ. Họ Phong nghe vậy, khóc ngất đi nhiều lần, rồi bàn với bố cho người đi tìm các nơi, nhưng nào thấy tung tích! Không làm thế nào được, họ Phong đành ở nương nhờ bố mẹ cho qua ngày. May sao có hai a hoàn theo hầu bên mình, ba thầy trò ngày đêm khâu vá lấy tiền giúp thêm bố mẹ. Phong Túc hàng ngày cứ nói ra nói vào, nhưng không làm thế nào được.

Một hôm, a hoàn nhà họ Chân ra ngoài cửa mua chỉ, nghe thấy đường phố có tiếng quát tháo. Mọi người đều nói: “Quan mới đã đến!” A hoàn nấp trong cửa, thấy quân lính hàng đôi đi trước, một cỗ kiệu lớn rước một vị mặc áo mũ đại trào theo sau. A hoàn giật mình nghĩ bụng: “Ông quan này trông quen quen, hình như mình đã gặp ở đâu rồi?” Rồi nó vào nhà, cũng không nghĩ đến nữa. Đến tối, lúc sắp đi nghỉ, chợt có tiếng gõ cửa, nhiều người nói ồn ào: “Người nhà của quan huyện đến hỏi có việc!” Phong Túc nghe thấy sợ tái người, không biết cớ tai vạ gì.