Hồng lâu mộng - Chương 077 - Phần 2

Tập Nhân nghe vậy, chột dạ, cúi đầu một lúc, không biết trả lời ra sao, rồi cười nói:

- Đúng đấy, về phần chúng tôi cũng có lúc nô đùa, không biết giữ ý tứ, sao bà lại quên? Chắc còn có việc khác, để làm xong rồi sẽ xử đến chúng tôi cũng chưa biết chừng.

- Chị có tiếng là người hiền lành nhất, hai chị kia lại được chị rèn cặp, dạy dỗ thì còn có chỗ nào đáng phạt nữa? Chỉ có cô Phương Quan còn bé mà lại sắc sảo quá, chắc cũng có lúc cậy thế chèn người ta, làm cho họ ghét. Con Tư thì cũng tại tôi làm hại nó. Bắt đầu từ cái ngày tôi cãi nhau với chị, rồi gọi nó đến sai vặt. Người ta thấy tôi đối với nó tử tế, lại cho nó là chực tranh giành địa vị, cũng vì thế nên mới xảy ra việc hôm nay. Chị Tình Văn cũng như các chị đều là người của cụ cho sang đây ở từ khi còn bé, tuy chị ta đẹp hơn người thực, nhưng cũng chẳng cản trở gì. Chỉ có cái là chị ấy tính tình sắc sảo, ăn nói hoạt bát, nhưng cũng không thấy chị ấy có lỗi với một người nào! Đúng như chị nói, chắc là chị ấy đẹp quá, vì cái đẹp mà mang lụy đấy thôi!

Nói xong lại khóc.

Tập Nhân ngẫm nghĩ câu ấy, cho là Bảo Ngọc có ý ngờ mình, nên không tiện khuyên nữa, liền thở dài:

- Chỉ có trời biết thôi! Bây giờ cậu chưa tra ra người nào mách lẻo, cứ khóc mãi cũng vô ích.

Bảo Ngọc

- Vì tôi nghĩ, chị ấy quen được chiều chuộng từ thuở bé, chưa từng bị hắt hủi bao giờ. Bây giờ khác gì một chậu hoa lan mới nẩy mầm non đã bị quẳng ra chuồng lợn. Người thì đương ốm nặng, trong bụng lại chồng thêm bực tức. Chị ấy không còn bố mẹ thân yêu, chỉ có người anh con cô con cậu là một tên nát rượu, liệu chuyến này có chịu đựng được năm bữa nửa tháng hay không? Liệu mình còn được trông thấy mặt chị ấy nữa không?

Nói xong, Bảo Ngọc càng thấy đau xót, Tập Nhân cười nói:

- Cậu thật đúng như câu: “Quan châu có quyền đốt đuốc, trăm họ không được thắp đèn”. Chúng tôi tình cờ nói nhỏ một câu, cậu đã cho là nói gở, giờ cậu nguyền rủa chị ấy thì được à?

- Không phải tôi phũ miệng rủa người đâu, mùa xuân năm nay đã có triệu chứng rồi đấy.

- Triệu chứng gì?

- Cây hải đường ở dưới thềm đương tươi tốt thế, tự nhiên chết mất một nửa, tôi biết ngay là có điềm gở, quả nhiên ứng ngay vào chị ấy.

- Tôi không muốn nói, nhưng lại không nhịn được. Cậu thực lẩm cẩm như bà già. Câu ấy có đúng là lời nói của người biết chữ như cậu không?

Bảo Ngọc thở dài nói:

- Các chị thì biết gì? Không những là cỏ cây. Tất cả những vật gì có tình có lý ở trên đời cũng như người vậy, gặp được tri kỷ, sẽ rất linh nghiệm. Nếu lấy việc lớn ra làm ví dụ, thì giống như cây cối trước miếu và cỏ thi trước mộ Khổng Tử, cây bách trước đền ông Gia Cát, cây tùng trước mộ ông Nhạc Vũ Mục. Đó là cái khí đường đường chính chính, nghìn năm không mòn. Đời loạn thì nó héo đi, đời thịnh thì nó tươi lên. Trong một nghìn năm cũng có mấy lần héo đi sống lại. Thế không phải là triệu chứng ư? Nếu lấy việc nhỏ ra làm ví dụ thì giống như cây mộc Thược dược ở đình Trầm Hương; cây tương tư ở lầu Đoan Chính của Dương Quý Phi; cỏ trường thanh ở trên mộ Vương Chiêu Quân, không lẽ cũng không có linh nghiệm hay sao? Vì thế cây hải đường này cũng ứng vào người đấy.

Nghe một tràng những câu ngớ ngẩn đáng cười lại đáng buồn, Tập Nhân cười nói:

- Cậu càng nói làm cho tôi bực mình! Chị Tình Văn là hạng người gì mà phải tốn công suy nghĩ, dám đem so sánh với những danh nhân thuở xưa! Còn một lẽ nữa, chị ấy có đẹp cũng không thể vượt lên trên tôi được. Tức như cây hải đường cũng phải ứng vào tôi trước, chưa đến lượt chị ấy. Chắc là tôi sắp chết đây.

Bảo Ngọc nghe xong, vội bịt mồm lại, nói:

- Một người chưa xong, chị lại đã thế. Thôi, đừng nhắc đến việc ấy nữa. Ba người đã phải đi rồi, lại định đi thêm một người nữa sao?

Tập Nhân nghe nói, trong bụng mừng thầm: “Nếu không nói thế thì không bao giờ xong việc”.

Bảo Ngọc lại nói:

- Tôi còn có một việc muốn bàn với chị, không biết chị có bằng lòng không? Hiện giờ chị ấy còn một ít đồ vật, chỉ giấu người trên chứ không giấu người dưới. Ta nên lẻn mang trả cho chị ấy. Ngày thường chúng ta có dành dụm được ít tiền, chị đưa cho chị ấy mấy quan để dưỡng bệnh. Đó cũng là tình chị em của các chị xưa nay ăn ở tử tế với nhau.

Tập Nhân cười nói:

- Cậu cho tôi là hạng người bủn xỉn không có lương tâm hay sao? Việc này còn phải nhờ cậu nhắc à? Tôi vừa mới nhặt quần áo và đồ dùng của chị ấy, để ở kia kìa. Giờ đương ban ngày ban mặt, nhiều người nhòm ngó, sợ lại sinh chuyện. Chờ đến tối, tôi khẽ bảo già Tống mang đi. Tôi dành dụm được mấy quan tiền, cũng đưa cả cho chị ấy.

Bảo Ngọc nghe nói, gật đầu. Tập Nhân cười nói:

- Lâu nay tôi vẫn nổi tiếng là người hiền lành nhất, lẽ nào lúc này tôi lại không biết chuốc lấy một tý ti tiếng tốt ấy.

Bảo Ngọc nghe xong, vội cười nói vỗ về cô ta. Đến tối quả nhiên Tập Nhân sai già Tống mang quần áo và tiền đi. Bảo Ngọc sắp đặt mọi người đâu vào đấy rồi, một mình lẻn ra cửa ngách sau vườn, nhờ một bà già đưa đến nhà Tình Văn. Bà già nhất định không nghe, cứ nói:

- Sợ có người biết, trình với bà, tôi liệu còn sống được chăng?

Bảo Ngọc cố sống cố chết nằn nì, lại cho ít tiền, bà già mới chịu dẫn đi.

Tình Văn trước đây là người của Lại Đại mua về. Cô ta có người anh con ông cậu tên là Ngô Quý, người ta vẫn gọi là Quý nhi. Lúc ấy Tình Văn mới có mười tuổi chưa để tóc, già Lại thường đem đi theo. Giả mẫu thấy Tình Văn vừa đẹp vừa sắc sảo rất mến. Vì thế già Lại dâng cho Giả mẫu. Sau đưa về hầu Bảo Ngọc, Tình Văn còn bé, không nhớ quê quán cha mẹ ở đâu, chỉ có người anh con ông cậu, chuyên việc nấu nướng và cũng bị lưu lạc nơi đất khách quê người. Tình Văn nói với già Lại, cho người anh vào làm việc nấu bếp. Thấy Tình Văn được đến hầu Giả mẫu, người lại sắc sảo, mồm mép khéo léo, vẫn không quên tình nghĩa trước đây. Già Lại liền cho người anh cô ta vào làm, lại gả một cô hầu cho hắn. Ngờ đâu sau khi lấy nhau, anh chàng chỉ biết hưởng thi, quên cả những ngày lưu lạc. Anh ta cứ rượu chè, chẳng nhìn đến vợ con. Cô vợ là người sắc đẹp đa tình, thấy chồng không nhìn đến, không biết gió trăng là gì, chỉ suốt ngày say khướt, nên chị ta thường có những câu than vãn mặt ngọc phôi pha, má hồng quạnh quẽ. Thấy chồng bụng dạ rộng rãi, không chút nghi ky, ghen tưông, chị ta liền giở lối trăng hoa, đĩ thoa, thu phục hầu hết những tay “anh hùng hảo hán” trong phủ Giả. Từ trên chí dưới, có tới quá nửa số người được chị ta thử qua. Vợ chồng này là ai? Tên họ là gì? Đúng là cô “Đa”, vợ chàng “Đa hồ đồ” mà hồi trên Giả Liễn đã từng vời đến. Có họ hàng với hắn, nên Tình Văn về ở chung đấy. Lúc này chàng “Đa hồ đồ” đi vắng, cô “Đa” ăn cơm chiều xong, õng ẹo đi sang hàng xóm tán chuyện, chỉ còn một mình Tình Văn nằm ngủ ở trên chiếc chiếu cói, may hãy còn chăn đệm cũ trải đắp. Bảo Ngọc không biết nên làm thế nào cho phải, chạy đến gần, rơm rớm nước mắt, giơ tay nhè nhẹ kéo Tình Văn, khẽ gọi hai tiếng.

Tình Văn vừa bị cảm gió, lại bị anh chị hắt hủi, đã ốm lại ốm thêm, ho suốt một ngày, mới mơ mơ màng màng chợp mắt. Chợt có người gọi, cô ta cố mở mắt ra, thấy Bảo Ngọc đứng đó. Mừng mừng, sợ sợ, tủi tủi, thương thương, Tình Văn nắm chặt lấy tay Bảo Ngọc, nức nở mãi mới nói:

- Tôi tưởng không được gặp cậu nữa.

Rồi lại ho dồn. Bảo Ngọc cũng nức nở khóc. Tình Văn nói:

- A di đà phật! Cậu đến may quá, rót hộ chén nước chè cho tôi uống. Tôi khát khô cả cổ, không gọi được một mống nào.

Bảo Ngọc nghe nói, gạt nước mắt hỏi:

- Nước chè để ở đâu?

- Ở trên lò kia kìa.

Bảo Ngọc đến xem, có cái ấm đen xì, nhưng không phải để pha chè, Bảo Ngọc đành phải lấy một cái bát ở trên bàn, chưa cầm đến tay đã ngửi thấy tanh tanh mùi mỡ. Bảo Ngọc lấy nước rửa hai lần, rồi rút khăn lụa của mình ra lau, nhưng vẫn còn mùi tanh. Không biết làm thế nào, Bảo Ngọc phải cầm ấm lên rót ra nửa bát, nhìn chỉ thấy sắc hoe hoe đỏ, chẳng giống nước chè tí nào.

Tình Văn ôm gối nói:

- Cậu cho tôi uống ngay một ngụm đã! Chính là nước chè đấy. Ví đâu được với nước chè bên nhà!

Bảo Ngọc uống một ngụm trước, chẳng có mùi mẽ gì, chỉ thấy mặn chát, không chịu được, đành phải đưa cho Tình Văn. Tình Văn như được nước móc ngọt vậy, uống hết một hơi.

Bảo Ngọc nghĩ thầm: Trước đây những trà ngon thế nào, chị ấy vẫn còn chê bây giờ nhìn quang cảnh này, đúng như người xưa nói:

Khi no cá thịt dửng dưng,

Đói lòng ăn cả cơm sung cháo dền.

Nghĩ vậy nước mắt lại tràn ra, liền hỏi:

- Chị có muốn nói gì không? Nhân lúc vắng người, nói cho tôi biết.

Tình Văn nức nở nói:

- Còn có câu gì đáng nói nữa? Chẳng qua sống được giờ nào hay giờ ấy, được ngày nào hay ngày ấy! Chỉ độ dăm ba ngày nữa là tôi chết thôi. Có một điều chưa được thỏa lòng, tôi tuy đẹp hơn người nhưng không bao giờ ngỏ tình thầm kín, tỏ ý riêng tây để cám dỗ cậu, sao người ta cứ đổ chết cho tôi là con yêu tinh! Tôi không chịu nổi. Giờ tôi đã bị mang tiếng hão, vả chăng cũng không được bao lâu nữa, tôi không phải nói câu này để hả giận cuối cùng, nếu biết trước, tôi đã liệu cách từ lâu. Không ngờ lòng ngay dạ thẳng, cứ cho là mọi người ở chung với nhau không phải giữ gìn gì, nào hay bỗng dưng xẩy ra chuyện, mắc oan không được bày tỏ với ai!

Tình Văn nói xong lại khóc. Bảo Ngọc nắm lấy tay Tình Văn, thấy gầy như que củi, cổ tay vẫn còn đeo mấy cái xuyến bạc, liền khóc:

- Chị hãy tháo ra, khi nào khỏi lại đeo.

Bảo Ngọc tháo mấy chiếc xuyến ra, đặt xuống dưới gối cho Tình Văn, lại hỏi:

- Đáng tiếc cho hai móng tay dài tới hai tấc. Dù có khỏi bệnh cũng kém vẻ đẹp.

Tình Văn gạt nước mắt, với lấy con dao cắt đứt hai móng tay tháp bút, sau lại cho tay vào trong chăn, cởi chiếc áo lót bằng lụa hồng cũ cùng với móng tay đưa cho Bảo Ngọc và nói:

- Cậu hãy cầm lấy. Sau này trông thấy vật này cũng như thấy tôi vậy. Cậu cởi ngay áo của cậu ra cho tôi mặc. Tôi dù có nằm trong quan tài thì cũng như ở viện Di Hồng. Lẽ ra không nên như thế, nhưng trót mang tiếng hão, tôi không còn cách nào.

Bảo Ngọc nghe nói vội cởi chiếc áo ngoài ra đổi và giấu những móng tay của Tình Văn vào trong người, Tình Văn lại khóc:

- Khi về, có ai hỏi, cậu đừng nói dối, cứ bảo là của tôi đấy. Tôi đã trót mang tiếng hão, nên phải làm như vậy.

Chợt chị dâu Tình Văn cười hì hì vén màn đi vào nói:

- Giỏi nhỉ! Hai người trò chuyện với nhau, tôi nghe thấy cả rồi! - Chị ta quay lại nói với Bảo Ngọc: - Cậu là chủ nhà, vào buồng đầy tớ làm gì? Thấy tôi đẹp, cậu định đến đây ghẹo tôi hay sao?

Bảo Ngọc nghe nói, sợ quá, vội cười van xin:

- Chị ơi, xin đừng nói to. Chị ấy lâu nay hầu hạ tôi, giờ tôi lẻn đến đây thăm chị ấy.

Cô “Đa” liền kéo Bảo Ngọc vào nhà trong, cười nói:

- Cậu không muốn tôi kêu thì cũng dễ thôi, cậu chỉ nghe tôi một điều này.

Nói xong, chị ta ngồi ngay lên trên giường, kéo Bảo Ngọc vào trong lòng, hai đùi cặp chặt lấy. Bảo Ngọc xưa nay chưa thấy thế bao giờ, tim đập thình thịch, người thấy rạo rực, cuống quá, mặt đỏ bừng, vừa thẹn vừa nói:

- Chị ơi, đừng đùa thế.

Cô “Đa” lẳng lơ con mắt, cười nói:

- Hừ! Ngày thường, nghe nói cậu vẫn quen sống trong trường trăng gió, sao hôm nay lại nhút nhát thế?

Bảo Ngọc càng đỏ mặt, cười nói:

- Chị buông tay ra, có chuyện gì chúng ta sẽ tử tế nói với nhau, để cho bà già bên ngoài nghe thấy thì còn ra làm sao nữa?

Cô “Đa” cười nói:

- Tôi về đây từ lâu, đã bảo bà già ấy đứng chờ ở ngoài vườn rồi. Tôi hàng ngày ao ước biết nhường nào, bây giờ mới được gặp, nhưng đúng như câu: “Nghe tiếng không bằng gặp mặt”. Tôi trông dáng người cậu đẹp thế này, mà lại là cái xác pháo rỗng ruột, chỉ có cái vẻ thôi, coi chừng nhút nhát e lệ hơn người ta nhiều. Đủ biết miệng người ta nói có khi không đáng tin. Như lúc nãy, tôi cứ tưởng chắc chắn hai người ngày thường thế nào cũng thầm vụng với nhau. Khi tôi đứng ở dưới cửa sổ nghe ngóng một lúc lâu trong nhà chỉ có cậu với cô ấy, tôi chắc rằng sẽ nói đến nhiều chuyện thậm thụt với nhau. Nhưng xem ra, thì hai người thật chưa có gì dan díu cả. Thật là ở đời có nhiều sự oan uổng. Bây giờ tôi rất ăn năn đã ngờ cho cậu. Đã vậy cậu cứ yên tâm, cứ việc đến, tôi không dám to tiếng.

Bảo Ngọc nghe xong mới yên trong dạ, đứng dậy xốc lại áo và van xin:

- Chị ơi. Bây giờ tôi phải về, mong chị chăm sóc chị Tình Văn mấy ngày.

Bảo Ngọc trở ra nói với Tình Văn. Hai người quyến luyến không nỡ rời tay. Tình Văn biết Bảo Ngọc khó dứt ra đi được, liền kéo chăn đắp kín đầu. Bảo Ngọc mới ra đi. Định lần đến cửa nhà Phương Quan, ngại vì trời tối quá. Đi được một lúc, sợ có người tìm, lại xảy ra chuyện, Bảo Ngọc đành phải quay về trong v cửa sau, gặp bọn hầu đương ôm chăn đến. Các bà già đương kiểm soát người, chậm tí nữa là họ sẽ đóng cửa.

Bảo Ngọc đi vào trong vườn, may không ai biết, liền về buồng mình, gặp Tập Nhân, nói đổ sang chơi bên Tiết phu nhân, thế là xong chuyện.

Một lúc dọn giường, Tập Nhân đành phải hỏi: “Hôm nay ngủ thế nào đây?” Bảo Ngọc nói:

- Ngủ thế nào cũng được.

Mấy năm nay Tập Nhân thấy Vương phu nhân đối đãi tử tế với mình, lại càng làm ra bộ đứng đắn. Những khi vắng người, hoặc lúc đêm khuya, chị ta không hay đùa cợt với Bảo Ngọc, so với lúc còn hé, có phần thưa nhạt hơn. Tuy không phải làm việc gì to tát, nhưng những việc vá may, việc lặt vặt như thu phát tiền nong, sắp xếp áo dài, đồ vật cho Bảo Ngọc cùng bọn a hoàn nhỏ, cũng rất bận rộn. Vả lại vốn có chứng thổ huyết, nên lâu nay chị ta không ngủ cùng buồng với Bảo Ngọc. Bảo Ngọc ban đêm hay sợ, khi tỉnh dậy là phải gọi người ngay. Vì Tình Văn tỉnh ngủ, nên mỗi khi Bảo Ngọc uống nước hay sai bảo việc gì là gọi đến cô ta. Vì thế Tình Văn ngủ ngay bên giường ngoài của Bảo Ngọc. Giờ Tình Văn đi rồi, Tập Nhân đành phải mang chăn chiếu của mình ra đó ngủ.

Đêm ấy Bảo Ngọc cứ ngồi ngẩn ngơ, Tập Nhân giục mãi mới chịu đi ngủ. Trong khi ngủ, Tập Nhân vẫn thấy Bảo Ngọc trằn trọc trên gối, thở ngắn, than dài, đến canh ba mới thiu thiu yên gấc. Tập Nhân lơ mơ cũng yên dạ ngủ đi. Độ chừng chưa uống hết một chén nước, thấy Bảo Ngọc gọi “Tình Văn”. Tập Nhân hỏi: “Cậu gọi gì?” Bảo Ngọc muốn uống nước. Tập Nhân pha trà mang đến. Bảo Ngọc thở dài: “Lâu nay tôi quen gọi chị ấy, thành ra quên đi. Nay lại là chị.”

Tập Nhân cười nói:

- Khi chị ấy mới đến, cậu cũng thường nằm mê gọi tôi, về sau cậu mới gọi chị ấy. Dù sao chị Tình Văn đi rồi, nhưng hai chữ “Tình Văn” vẫn còn nhớ mãi.

Nói xong hai người lại đi ngủ, Bảo Ngọc vẫn trằn trọc mãi, đến canh năm mới ngủ được. Bỗng thấy Tình Văn ở ngoài đi vào, hình dáng vẫn như ngày thường, đến gần Bảo Ngọc nói: “Cậu và chị em ở lại cho vui vẻ. Từ nay tôi xin từ biệt!” Nói xong quay người đi ngay. Bảo Ngọc gọi ầm lên, làm Tập Nhân tỉnh dậy. Tập Nhân cứ tưởng là Bảo Ngọc quen tiếng gọi bừa, nhưng thấy Bảo Ngọc khóc và nói: “Tình Văn chết mất rồi”. Tập Nhân cười nói:

- Cậu nói gì thế? Người ta nghe thấy thì còn ra làm sao nữa?

Bảo Ngọc vẫn không nghe, muốn trời sáng ngay để sai người đi hỏi tin.

Khi trời sáng, có a hoàn nhỏ hầu bên đến gọi mở cửa ngách, truyền lời Vương phu nhân: “Gọi cậu Bảo Ngọc dậy ngay, rửa mặt thay quần áo. Vì hôm nay có người mời ông đi thưởng cúc. Hôm nọ ông thích thơ của cậu, nên muốn cho các cậu đi theo. Lời bà bảo thế, các người phải giục cậu ấy đi ngay, ông ở nhà trên đương chờ các cậu đến ăn miến đấy. Cậu Hoàn đã đến rồi. Đi ngay đi thôi, và cho người đi gọi ngay cậu Lan, cũng nói với cậu ấy như thế”.

Bà già ở trong nhà nghe câu nào vâng câu ấy, vừa cài khuy áo vừa ra mở cửa. Rồi ba, bốn người nữa cũng vừa cài khuy áo, vừa chia nhau đi các nơi.

Tập Nhân nghe tiếng gõ cửa, biết là có việc, liền sai người đi lấy nước, giục Bảo Ngọc dậy rửa mặt gội đầu và tự mình đi lấy quần áo. Tập Nhân nghĩ rằng Bảo Ngọc theo hầu Giả Chính đi chơi, nên không tiện cho mặc quần áo mới lắm, chỉ chọn quần áo hạng vừa thôi.

Bảo Ngọc không biết làm thế nào, đành phải vội vàng đi đến. Quả nhiên Giả Chính đang ngồi ở đó uống nước, rất đỗi vui vẻ. Bảo Ngọc vào hỏi thăm sức khỏe Giả Chính. Giả Hoàn, Giả Lan cùng chạy lại chào Bảo Ngọc. Giả Chính cho Bảo Ngọc ngồi uống nước, rồi bảo Giả Hoàn và Giả Lan:

- Bảo Ngọc học thì kém hai đứa chúng bay, nhưng có tài làm câu đối và làm thơ. Hôm nay đi chơi, chắc họ sẽ bảo chúng bay làm thơ, Bảo Ngọc liệu cách giúp đỡ hai đứa.

Xưa nay Vương phu nhân chưa từng nghe thấy Giả Chính nói những lời như thế, thực sự là vui mừng bất ngờ. Chờ cha con họ đi rồi, bà ta muốn sang bên Giả mẫu, thì có người mẹ nuôi của Phương Quan đến trình: “Phương Quan từ hôm nhờ ơn bà cho ra ngoài, nó hình như điên, không ăn uống gì cả. Nó lôi kéo cả Ngẫu Quan và Nhụy Quan, nhất sống nhị chết, chỉ muốn cắt tóc đi tu. Chúng tôi cứ tưởng là bọn trẻ con lúc đầu sống chưa quen, ít ngày rồi sẽ đâu vào đấy. Ngờ đầu chúng nó càng ngày càng làm dữ, đánh mắng cũng không sợ. Chúng tôi không có cách gì, nên đến đây trình bà, hoặc cho chúng nó đi tu hoặc là dạy bảo chúng nó ít bữa rồi đem cho người ta làm con nuôi. Chúng tôi thực là kém phúc”.

Vương phu nhân nói:

- Sao các bà nói nhảm thế! Lẽ nào lại tùy ý chúng nó được. Cửa Phật có dễ dàng vào được đâu? Cứ đánh mỗi đứa một trận xem chúng nó có dám hỗn nữa hay không.

Bấy giờ đang chầu rằm tháng tám, các miếu đều làm lễ, nên các sư cô mang đồ cúng đến biếu. Sư Trí Thông ở Am Thủy Nguyệt và sư Viên Tâm ở am Địa Tạng còn ở lại chưa về. Nghe thấy tin này, họ muốn dỗ dành hai đứa con gái về để sai bảo, liền thưa với Vương phu nhân:

- Phủ ta vốn là nhà từ thiện. Bà lại rủ lòng nhân từ, nên các cô bé mới được như vậy. Tuy nói là “Cửa Phật khó tới” nhưng cũng nên biết là “Phật pháp bình đẳng”. Đức Phật chúng ta chỉ muốn siêu độ cho tất cả chúng sinh, cả từ con gà con chó. Khốn nỗi người ta thường hay u mê không tỉnh. Ai có thiện căn biết tỉnh ngộ, sẽ được thoát kiếp luân hồi, cho nên trong kinh Phật, giống hùm beo rắn rết đắc đạo cũng không phải là ít. Giờ ba cô này không có bố mẹ, lại xa quê hương, đã trải qua nơi phú quý, nhưng vì chịu khổ sở từ lúc bé, không may rơi vào nơi phong trần, chưa biết cuộc đời sau này sẽ ra sao? Nên họ muốn “thoát nơi bể khổ” nhất định xuất gia đi tu, cũng là điều biết nghĩ xa đấy. Bà không nên ngăn cản lòng tốt của họ.

Vương phu nhân vốn là người từ thiện, lúc đầu nghe các bà già nói, cho là bọn Phương Quan hãy còn bé, có điều gì chưa hài lòng, nếu đi tu sợ không chịu nổi cảnh thiền tịch mịch, lại đâm mang tội. Giờ nghe thấy hai mẹ mìn này nói cũng hợp tình hợp lý, vả lại, gần đây trong nhà xảy ra nhiều chuyện, Hình phu nhân lại sai người đến nói, ngày mai đón Nghênh Xuân về ở nhà mấy ngày để cho người ta đến xem mặt. Lại còn có bà mối đến nói việc Thám Xuân. Mọi việc đều chồng chất trong lòng, thì còn để ý gì đến chuyện nhỏ mọn này nữa. Bà ta liền cười trả lời:

- Hai sư cô đã nói như vậy, thì cứ cho mang chúng về làm đồ đệ có được không?

Hai cô niệm phật rồi nói:

- Phúc đức quá! Phúc đức quá! Nếu được thế thì âm công của người rất lớn.

Nói xong họ cúi đầu tạ ơn.

Vương phu nhân nói:

- Đã thế thì các cô đến hỏi chúng xem. Nếu quả thực bụng đi tu, thì chúng phải đến trước mặt ta lạy các cô làm sư phụ.

Ba người mẹ nuôi nghe xong, ra dẫn ba đứa kia vào. Vương phu nhân hỏi đi hỏi lại, ba đứa này đều đã quyết tâm, liền cúi lạy sư cô, lại lạy tạ Vương phu nhân. Vương phu nhân thấy chúng quyết tâm như thế, biết là không thể ép được, đâm ra thương xót, liền sai người đi lấy một ít đồ vật thưởng cho chúng và đưa hai sư cô ít lễ vật. Từ đấy Phương Quan theo Trí Thông về am Thủy Nguyệt, Nhụy Quan và Ngẫu Quan theo Viên Tâm về am Địa Tạng.