Nếu như được làm lại - Chương 14 - Phần 2

Andrew quay trở lại ngồi trước máy tính của mình. Anh mở bản đồ Manhattan ở chế độ toàn màn hình rồi xác định hai địa chỉ ghi trong tập giấy nhớ của Olson. Hai vụ giết người đầu tiên được thực hiện ở ven một công viên, ngày 13 tháng Giêng trên phố 141 rồi đến ngày 15 tháng Ba tại phố 111, vụ mới đây nhất thì ở đầu dốc phố 79. Nếu là cùng một tên sát nhân, thì tên này dường như hành động từ mạn Bắc xuống mạn Nam của đảo. Andrew ngay lập tức nghĩ rằng vụ tấn công mà mình là nạn nhân sẽ kéo dài cái trục đường dẫn xuống địa ngục này. Anh tìm vài thông tin về người vừa bị tấn công rồi vớ lấy áo vest vội vã rời văn phòng.

Ra đến lối thông giữa các phòng, anh liếc mắt nhìn xuống phố qua vách kính thì chợt một chi tiết khiến anh chú ý. Anh nhấc điện thoại rồi bấm số.

- Tớ có thể biết cậu làm cái quái gì mà cắm rễ chình ình phía sau cái cây ngay cửa tòa soạn chỗ tớ không?

- Sao cậu biết? Simon hỏi.

- Bởi tớ nhìn thấy cậu, ngốc ạ.

- Cậu nhận ra tớ ư?

- Thế cái áo gió cùng cái mũ kia là gì thế?

- Phục trang để che giấu nhân thân.

- Hiệu quả thật! Cậu đang chơi trò gì thế?

- Tớ chẳng chơi bời gì sất, tớ theo dõi những nơi đi và đến của tay đồng nghiệp Olson của cậu. Ngay khi hắn rời đi, tớ sẽ theo sát hắn.

- Cậu điên mất rồi!

- Thế cậu muốn tớ làm gì nữa đây? Giờ khi đã biết rằng mình sẽ không bán nổi một chiếc xe nào trong vòng hai tháng tới thì tớ sẽ chẳng mất thời gian ở ga ra làm gì trong khi có kẻ muốn sát hại cậu! Và cậu nói nhỏ chút đi, cậu sẽ làm tớ bị phát hiện mất.

- Cậu chẳng cần đến tớ mới bị phát hiện đâu. Đợi tớ ở đó, tớ sẽ xuống gặp cậu và cậu ra khỏi chỗ cái cây đó đi!

Andrew gặp lại Simon trên vỉa hè rồi nắm lấy tay bạn kéo đi xa khỏi cửa vào tòa soạn The New York Times.

- Cứ như Philip Marlowe[1] ấy, trông cậu thật nực cười.

[1] Nhân vật thám tử tư trong loạt truyện trinh thám của tác giả Raymond Chandler.

- Cái áo khoác này đắt lòi mắt ra, hàng Burberry xịn đấy.

- Simon, trời đang nắng chang chang kia kìa.

- Cậu tự coi mình là Chúa Jesus hiện sinh và cậu định lên lớp tớ vì tớ đã đóng vai thám tử tư ư?

Andrew vẫy một chiếc taxi rồi van nài Simon lên xe và bảo tài xế chở cả hai đến góc giao giữa Đại lộ Công viên và phố 77.

Mười phút sau, chiếc taxi đỗ trước lối vào cho xe cấp cứu của bệnh viện Lenox.

Simon bước ra trước tiên rồi tiến về phía quầy lễ tân.

- Xin chào, anh nói với cô y tá, chúng tôi đến vì bạn tôi…

Andrew lại tóm lấy cánh tay bạn rồi thô bạo kéo Simon ra xa.

- Tớ lại làm cái gì à? Cậu không đến khám bác sĩ tâm thần sao?

- Simon, hoặc là cậu cư xử cho bình thường, hoặc là cậu quay về ngay tức khắc, rõ chưa?

- Tớ cứ tưởng lần này cậu đã quyết định đúng đắn. Nếu không vì cậu, sao chúng ta lại ở trong bệnh viện này?

- Có một gã đã bị đâm bằng dao găm từ phía sau. Tớ muốn hỏi gã đó một chút. Cậu sẽ giúp tớ vào phòng gã đó càng kín đáo càng tốt.

Khuôn mặt Simon để lộ niềm vui sướng được tham gia vào một vụ như thế này.

- Thế tớ phải làm gì?

- Quay lại gặp cô y tá ở quầy lễ tân rồi khẳng định cậu là anh trai của một gã Jerry McKenzie nào đó và cậu đến thăm hắn.

- Cứ như thể là sự đã rồi ấy.

- Và cởi cái áo khoác này ra nữa!

- Chẳng cần cậu phải dạy tớ làm thế nào đâu! Vừa đi khỏi Simon vừa đáp.

Năm phút sau, Simon trở lại chỗ Andrew đang ngồi đợi mình trên chiếc ghế băng nhỏ ở phòng đợi.

- Thế nào rồi?

- Phòng 720, nhưng sau 13 giờ mới được thăm nom và chúng ta không vào được đâu, có cảnh sát canh trước cửa.

- Thế thì toi rồi, Andrew làu bàu.

- Trừ phi là có một cái phù hiệu, Simon vừa nói thêm vừa dính một mẩu giấy dính lên áo khoác, như cái này này.

- Cậu có nó bằng cách nào thế?

- Tớ đã trình giấy tờ của mình cho cô nàng y tá xem, tớ nói với cô nàng rằng tay Jerry tội nghiệp kia là em trai tớ, chúng tớ không chung bố nhưng cùng mẹ nên tên họ khác nhau, rằng tớ từ Seattle đến và tớ là người thân duy nhất trong gia đình.

- Thế cô nàng tin cậu à?

- Có vẻ như tớ trông đáng tin và rồi với chiếc áo gió này, Seattle quả đúng là nơi không thể thiếu nó, trời mưa ba trăm sáu mươi lăm ngày trong năm. Tớ cũng đã hỏi xin cô nàng số điện thoại để mời cô nàng ăn tối bởi tớ chỉ có một thân một mình ở thành phố này.

- Thế cô nàng có cho cậu không?

- Không, nhưng nàng cảm thấy được ve vãn và nhờ đó, nàng đã cho tớ cái phù hiệu thứ hai… cho tay tài xế của tớ, vừa nói Simon vừa dán một miếng sticker vào áo vest của Andrew. Chúng ta đi chứ, James?

Trong lúc thang máy đang lên tầng tám, Simon đặt tay lên vai Andrew.

- Nào, nói đi, cậu sẽ thấy điều đó không hại gì cậu đâu.

- Nói gì?

- Cảm ơn, Simon.

*

Andrew và Simon bị lục soát theo đúng nguyên tắc trước khi viên cảnh sát canh gác để cho cả hai vào phòng.

Andrew lại gần người đàn ông đang ngủ gà ngủ gật. Anh ta choàng mở mắt.

- Các anh không phải bác sĩ đúng không? Các anh làm gì ở đây?

- Tôi là nhà báo, tôi không muốn hại anh đâu.

- Đi mà nói thế với một tay chính trị gia ấy…, người đàn ông vừa nhăn nhó vừa ngồi thẳng dậy trên giường. Tôi chẳng có gì để nói với anh cả.

- Tôi không ở đây vì công việc, vừa nói Andrew vừa tiến lại gần giường bệnh.

- Cút đi nếu không tôi sẽ gọi cảnh sát!

- Tôi cũng bị đâm giống như anh, và có hai người khác cũng chịu chung số phận trong hoàn cảnh tương tự. Tôi tự hỏi liệu đó có phải là do cùng một kẻ gây ra hay không. Tôi chỉ muốn biết liệu anh có nhớ được gì không? Khuôn mặt của hắn ta? Vũ khí hắn dùng tấn công anh?

- Tôi bị tấn công từ sau lưng, anh có bị ngớ ngẩn hay không!

- Thế anh không nhìn thấy gì xảy đến à?

- Tôi nghe thấy tiếng bước chân phía đằng sau. Lúc đó có rất đông người đang rời khỏi công viên, tôi chỉ cảm thấy có ai đó đang tiến lại gần. Tôi đã gặp may, chỉ cần nhích lên một xăng ti mét nữa là tên khốn đó đã đâm trúng động mạch rồi. Có lẽ tôi sẽ bị cạn sạch máu trước khi đến được đây. Hơn nữa các bác sĩ cũng bảo với tôi rằng nếu bệnh viện không ở gần như thế này thì tôi chắc sẽ không thể qua khỏi.

- Tôi thì chẳng có được cái may mắn đó, Andrew thở dài.

- Anh có vẻ rất khỏe đấy chứ.

Andrew đỏ bừng mặt rồi nhìn Simon, cậu bạn đang ngước mắt nhìn lên trời.

- Anh có bị mất ý thức ngay tức khắc không?

- Gần như thế, McKenzie đáp, tôi nghĩ là đã nhìn thấy kẻ sát nhân chạy vượt qua mình, nhưng mắt tôi mờ đi, chắc tôi không thể miêu tả hắn cho anh được. Khi ấy tôi định đi gặp một nữ khách hàng, tôi đã bị cướp mười nghìn đô la tiền hàng. Đây là vụ tấn công thứ ba trong vòng năm năm qua, và lần này tôi đang nộp đơn xin giấy phép mang vũ khí theo người và không chỉ giới hạn trong vòng hai mươi mét vuông quanh cửa hiệu kim hoàn của tôi. Thế còn anh, anh nhà báo, anh bị đâm bằng gì?

Và trong lúc Andrew cùng Simon có mặt ở bệnh viện Lenox, Freddy Olson lục tung ngăn kéo của đồng nghiệp, tìm mật khẩu truy cập máy tính của đồng nghiệp.

*

- Chúng ta làm gì bây giờ? Simon lên tiếng hỏi khi đã ở trên vỉa hè sau khi rời bệnh viện.

- Tớ sẽ đi gặp Valérie.

- Tớ có thể đi cùng cậu không?

Andrew im lặng.

- Tớ hiểu. Tớ sẽ gọi cho cậu sau vậy.

- Simon, hứa với tớ là không quay lại tòa soạn.

- Tớ làm điều tớ muốn thôi.

Simon chạy băng qua phố rồi nhảy lên một chiếc taxi.

*

Andrew trình thẻ căn cước tại khu vực tiếp đón. Sau khi thực hiện một cuộc gọi, viên lính gác chỉ cho Andrew đường đi.

Nơi Valérie làm việc chẳng hề giống với những gì Andrew hình dung.

Anh bước vào một khoảnh sân trong vuông vắn. Một tòa nhà dài ngoằng mà vẻ hiện đại khiến Andrew phải ngạc nhiên sừng sững vươn mình ở phía cuối sân. Chuồng ngựa án ngữ ở tầng trệt. Một cánh cửa ở giữa mở vào một hành lang dài dẫn đến các phòng thú y.

Valérie đang ở khu vực phẫu thuật. Một trợ lý của cô đề nghị Andrew đợi trong phòng nghỉ. Khi Andrew bước vào phòng, một nhân viên cảnh sát đứng bật dậy.

- Anh có tin gì mới không, ca mổ suôn sẻ chứ?

Andrew đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Người đàn ông này, với tầm vóc lừng lững và khi đối diện với anh ta, anh hẳn sẽ thú nhận mọi thứ và bất cứ thứ gì để không làm anh ta nổi giận, dường như đang vô cùng bối rối.

- Không, không có gì cả, vừa nói Andrew vừa ngồi xuống. Nhưng anh đừng lo, Valérie là bác sĩ thú y giỏi nhất New York. Chó của anh chẳng gặp được bác sĩ nào mát tay hơn đâu.

- Anh biết đấy, đó không hẳn là một con chó, người đàn ông thở dài, đó vừa là đồng nghiệp vừa là người bạn thân thiết nhất của tôi.

- Giống gì thế? Andrew hỏi.

- Giống Retriever.

- Thế thì người bạn thân của tôi cũng gần giống vậy.

- Anh cũng có một con Retriever ư?

- Không, con của tôi thuộc giống chó lai, nhưng rất khôn.

Valérie bước vào phòng và rất ngạc nhiên khi thấy Andrew ở đây. Cô đến chỗ viên cảnh sát báo cho anh ta hay rằng anh ta có thể tới thăm chú chó của mình trong phòng hồi sức, ca phẫu thuật đã thành công mỹ mãn. Trong vài tuần nữa, và sau một đợt phục hồi chức năng, nó sẽ lại sẵn sang làm nhiệm vụ. Viên cảnh sát rời đi ngay tức thì.

- Đây đúng là một điều ngạc nhiên thú vị.

- Con chó bị sao thế? Andrew hỏi.

- Nó bị trúng đạn vào phần bụng dưới.

- Nó sẽ được trao huân chương chứ?

- Anh đừng giễu cợt thế chứ, con chó này đã nhảy vào giữa kẻ tấn công và nạn nhân, em không thấy có mấy người làm được như vậy đâu.

- Anh không giễu cợt, Andrew nói vẻ suy tư. Em dẫn anh đi tham quan chứ?

Căn phòng giản dị và sáng sủa. Các bức tường cao nổi bật xây kiên cố, hai khung cửa sổ lớn mở ra khoảnh sân giữa, một chiếc bàn kính đặt trên hai cái mễ kiểu dáng cổ lỗ sĩ được dùng làm bàn làm việc của Valérie, một màn hình máy tính, hai hộp đựng bút chì, một chiếc ghế Windsor mà cô hẳn đã tìm thấy ở một tiệm buôn đồ cũ. Hàng chồng tài liệu chất đống trên chiếc bàn chân quỳ phía sau cô. Andrew nhìn mấy tấm ảnh đặt trên chiếc bàn nhỏ bằng kim loại.

- Đây là tấm hình Colette và em lúc học đại học.

- Cô ấy cũng là bác sĩ thú y à?

- Không, bác sĩ gây mê.

- Đây là bố mẹ em nhỉ, vừa nói Andrew vừa cúi xuống một khung ảnh khác. Bố em chẳng thay đổi gì cả, rốt cuộc cũng bao nhiêu năm rồi còn gì.

- Chao ôi, chẳng thay đổi gì, cả thể chất lẫn tinh thần. Vẫn luôn thiển cận và nghĩ rằng mình biết tuốt hơn tất cả mọi người.

- Hồi chúng ta còn nhỏ, ông chẳng thích anh.

- Ông ghét tất cả bạn em.

- Em có nhiều bạn đến thế cơ à?

- Vài người thôi…

Valérie chỉ tay vào một khung ảnh khác.

- Nhìn cái này này, vừa nói Valérie vừa cười.

- Ơ, lạ chưa, là anh phải không?

- Hồi đấy mọi người gọi anh là Ben.

- Em tìm thấy bức ảnh này ở đâu vậy?

- Em vẫn luôn mang theo bên mình. Nó là một phần trong đống hành lý ít ỏi mà em mang theo lúc rời Poughkeepsie.

- Em đã giữ một bức ảnh của anh ư?

- Anh là một phần thời niên thiếu của em, Ben Stilman à.

- Anh rất xúc động, chưa có giây phút nào anh từng nghĩ rằng em muốn dẫn anh đi cùng em, ngay cả khi đó chỉ là một tấm ảnh.

- Nếu em đề nghị anh đi theo em, hẳn anh sẽ không làm thế, đúng không?

- Anh không biết nữa.

- Anh mơ ước trở thành nhà báo. Anh đã tự thân lập ra tờ báo trường và anh ghi chép rất có phương pháp tất cả những gì xảy ra vào một cuốn sổ nhỏ. Em nhớ là anh từng muốn phỏng vấn bố em về nghề của ông và ông đã tống cổ anh ra khỏi nhà.

- Anh đã quên hết sạch rồi.

- Em sẽ thổ lộ với anh một bí mật nhé, vừa nói Valérie vừa tiến lại gần. Khi anh vẫn còn là Ben, anh yêu em hơn rất nhiều so với em yêu anh. Nhưng khi nhìn anh ngủ lúc đêm, em lại có cảm tưởng ngược lại. Đôi khi em tự nhủ rằng như thế thật là không ổn, rằng em không phải là người phụ nữ anh mơ ước, rằng đám cưới đó sẽ không thể diễn ra và rồi cuối cùng anh sẽ rời xa em. Và em không tài nào hiểu nổi vì sao những suy nghĩ ấy lại khiến em đau khổ như vậy.

Andrew tiến thêm một bước về phía Valérie rồi vòng tay ôm lấy cô.

- Em nhầm rồi, em chính là người phụ nữ anh không bao giờ ngừng mơ ước có được, còn thiết tha hơn cả ý nghĩ trở thành nhà báo. Em nghĩ rằng anh đã đợi em suốt cả quãng thời gian đó để rồi rời bỏ em sao…

- Andrew, anh có giữ bức ảnh nào của em không?

- Không, khi đó anh quá giận em vì đã trốn khỏi Poughkeepsie mà không để lại địa chỉ. Nhưng khuôn mặt em đã khắc sâu ở đây rồi, Andrew vừa nói thêm vừa chỉ vào trán mình, và nó chẳng bao giờ rời bỏ anh. Em không thể hình dung anh yêu em đến nhường nào đâu.

Valérie dẫn anh vào khu phẫu thuật. Andrew lợm giọng nhìn mấy miếng gạc đẫm máu vương trên tấm vải nhựa lót sàn. Anh lại gần một bàn dao rồi quan sát các dụng cụ phẫu thuật. Có đủ mọi loại kích cỡ.

- Những thứ này sắc kinh khủng đúng không em?

- Sắc như dao mổ, Valérie đáp.

Andrew cúi xuống chỗ con dao dài nhất rồi nhón tay cầm lên. Anh cầm cán dao ước đoán trọng lượng.

- Chú ý đừng để bị thương đấy, vừa nói Valérie vừa nhẹ nhàng tước con dao ra khỏi tay anh.

Andrew nhận thấy cô vô cùng khéo léo khi thao tác con dao đó. Cô xoay con dao giữa ngón trỏ và ngón giữa rồi đặt xuống bàn dao.

- Đi theo em nào, những dụng cụ này còn chưa được khử trùng đâu.

Valérie dẫn Andrew về phía vòi nước gắn trên bức tường lát gạch vuông. Cô dùng khuỷu tay mở vòi nước, nhấn vòi xà phòng rồi dùng tay rửa tay cho Andrew.

- Ngành phẫu thuật thật là hấp dẫn, Andrew thì thầm.

- Tất cả còn tùy vào người phụ tá anh, Valérie đáp.

Cô vòng tay ôm rồi hôn anh.

*

Ngồi vào bàn tại quán cà phê giữa đám cảnh sát ở đây, Andrew chợt nhớ tới thanh tra Pilguez, người mà anh đang mong tin.

- Anh đang lo lắng à? Valérie hỏi.

- Không, chỉ là do bầu không khí nơi đây thôi, anh không quen ngồi ăn giữa chừng này người mặc quân phục như vậy.

- Chúng ta sẽ quen thôi, với lại anh cứ yên tâm, không ở nơi nào trên khắp New York này anh được an toàn hơn ở đây đâu.

- Chừng nào mà chúng ta còn chưa đi thăm lũ ngựa của em…

- Em định dẫn anh đi thăm chuồng ngựa ngay sau khi anh dùng cà phê xong…

- Không được rồi, anh còn phải quay lại chỗ làm.

- Anh đúng là nhát như cáy!

- Nếu em thích thì để lần khác nhé.

Valérie quan sát Andrew.

- Sao anh lại đến tận đây, Andrew?

- Để uống cà phê với em, để thăm nơi em làm việc, em từng đề nghị anh thế còn gì và anh muốn làm như vậy.

- Anh đã băng qua cả thành phố chỉ để làm em vui thôi sao?

- Và cũng để em hôn anh ngay phía trên một cái bàn đựng toàn dụng cụ phẫu thuật… đó là khía cạnh lãng mạn của anh.

Valérie tiễn Andrew ra tận taxi; trước khi đóng cửa xe lại, anh quay về phía cô.

- Thực ra thì bố em từng làm nghề gì?

- Bố em là nhà thiết kế công nghiệp ở nhà máy.

- Thế nhà máy đó sản xuất gì vậy?

- Phụ liệu may mặc, máy tiện, kéo cắt may, kim các loại, que móc, anh từng nói rằng ông làm nghề của phụ nữ và anh chế nhạo ông. Sao anh lại hỏi em vậy?

- Chẳng có gì đâu.

Anh hôn Valérie, hứa với cô là không về muộn rồi đóng cửa taxi lại.