Nếu như được làm lại - Chương 21 - Phần 2

Ortega đang ngủ. Marisa lay lay vai hắn.

- Thế lại là cô à? Ortiz nói khi mở mắt.

- Ông cảm thấy trong người thế nào? Andrew hỏi.

- Tốt hơn từ lúc người ta cho tôi thuốc giảm đau. Thế anh còn muốn gì ở tôi nữa?

- Cho ông cơ may thứ hai.

- Anh đang nói tới cơ may nào vậy?

- Nếu tôi không lầm thì ông đã được chính quyền xác nhận mang họ Ortega, đúng không?

- Đó là họ in trên giấy tờ tùy thân của tôi, viên cựu thiếu tá cụp mắt xuống trả lời.

- Ông có thể rời khỏi đây với cái tên này và trở về nhà.

- Cho đến khi bài báo của anh được đăng?

- Tôi có chuyện cần thương lượng với ông.

- Tôi nghe anh nói đây.

- Ông hãy trả lời các câu hỏi của tôi, một cách thành thực, tôi nguyện sẽ kể câu chuyện của thiếu tá Ortiz mà không bao giờ đả động tới danh tính mới của ông.

- Điều gì đảm bảo cho tôi rằng anh sẽ giữ lời hứa?

- Tôi chỉ có thể hứa danh dự vậy thôi.

Ortiz quan sát Andrew hồi lâu.

- Thế cô ta, cô ta có biết giữ miệng không?

- Cũng hệt như cô ấy biết cầm súng chĩa vào thái dương ông tối qua vậy. Tôi không nghĩ là cô ấy mong muốn tôi phản bội ông, chẳng phải tương lai của cô ấy phụ thuộc vào việc đó hay sao?

Ortiz im lặng, khuôn mặt cau lại. Mắt nhìn chằm chằm túi dịch truyền đang chảy vào các mạch máu.

- Thôi được, anh hỏi đi, Ortiz thở dài.

- Ông đã nhận nuôi María Luz trong hoàn cảnh nào?

Câu hỏi này đã trúng hồng tâm. Ortiz quay sang phía Andrew và nhìn anh chằm chằm không rời.

- Vào thời điểm tôi giải ngũ, Febres muốn chắc chắn là tôi sẽ giữ im lặng. Hắn đã đưa tôi tới một trại trẻ mồ côi bất hợp pháp. Hầu hết trẻ em ở đó toàn là trẻ vài tuần tuổi. Hắn đã ra lệnh cho tôi phải chọn một đứa trong số đó, giải thích với tôi rằng đó là cách tốt nhất để tôi tìm lại ý nghĩa của thực tại. Hắn nói với tôi rằng chính tôi cũng đã góp phần cứu vớt linh hồn vô tội này khi tôi lái chiếc máy bay mà từ đó bố mẹ đứa bé đã bị ném xuống biển.

- Có thật vậy không?

- Tôi không biết, cũng chẳng biết gì hơn Febres, tôi không phải phi công duy nhất thực hiện những chuyến bay kiểu này, anh nghi ngờ chuyện đó ư. Nhưng, hoàn toàn có thể đấy. Hồi ấy, tôi vừa mới cưới vợ, María Luz là đứa lớn tuổi nhất trong số trẻ em tại trại. Tôi tự nhủ là nếu tôi chọn một bé hai tuổi thì việc nuôi dưỡng sẽ bớt khó khăn.

- Nhưng đó là một đứa trẻ bị đánh cắp, Marisa phản ứng, thế vợ ông cũng chấp nhận tham gia vào việc làm kinh khủng này à?

- Vợ tôi chẳng hề hay biết gì cả. Cho tới tận lúc chết, bà ấy vẫn còn tin vào những điều tôi kể, rằng bố mẹ con bé là những binh sĩ bị quân du kích Montonero sát hại và rằng chúng tôi phải có nghĩa vụ cứu giúp con bé. Febres đã đưa cho chúng tôi giấy khai sinh của con bé được lập theo họ chúng tôi. Tôi đã giải thích với vợ tôi là sẽ dễ dàng hơn cho María Luz khi được sống thanh thản trọn vẹn nếu nó không biết gì về thảm cảnh mà con bé là nạn nhân. Chúng tôi đã yêu thương con bé như chính con ruột của mình. María Luz được mười hai tuổi thì vợ tôi qua đời và con bé đã khóc thương cô ấy như khóc thương mẹ đẻ. Tôi đã một mình nuôi dạy con bé, tôi đã làm việc như điên để trả tiền học văn, học ngoại ngữ, học đại học của con bé. Tất cả những gì con bé muốn, tôi đều đáp ứng hết.

- Tôi không thể nghe tiếp được nữa, Marisa đứng dậy phản đối.

Andrew nhìn Marisa với ánh mắt tức tối. Marisa chịu ngồi lại nhưng giạng chân hai bên ghế và quay lưng lại với Ortiz.

- María Luz vẫn sống ở Dumesnil chứ? Andrew hỏi.

- Không, con bé đã bỏ đi từ lâu rồi. Các Bà mẹ trên quảng trường tháng Năm đã tìm ra con bé khi nó hai mươi tuổi. María Luz thường nghỉ cuối tuần ở Buenos Aires, con bé học khoa chính trị. Nó không bao giờ bỏ lỡ một cơ hội được đi biểu tình, con bé nung nấu hoạt động vì cái mà nó gọi là tiến bộ xã hội. Chính những thành viên thuộc các đoàn đội mà nó gặp trên ghế đại học đã gieo vào đầu nó những ý nghĩ đó. Điều này hoàn toàn ngược lại với những gì chúng tôi vẫn giáo dục nó.

- Nhưng bắt nhịp với những lý tưởng của bố mẹ đẻ cô ấy, Marisa cắt ngang. Máu của ông không chảy trong mạch máu của cô ấy, táo không rụng xa cây bao giờ.

- Thế cô nghĩ rằng tư tưởng tả khuynh là cha truyền con nối? Cũng có thể, có nhiều tật khác cũng được di truyền lại như thế, Ortiz chế nhạo.

- Tôi không rõ cái tư tưởng tả khuynh mà ông nói với vẻ khinh bỉ như thế là sao, nhưng lòng nhân đạo thì có thể lắm chứ.

Ortiz quay sang nhìn Andrew.

- Nếu cô ta còn chen ngang lần nữa thì tôi không còn lời nào để kể với anh nữa đâu.

Lần này Marisa vừa đi xa khỏi giường hắn vừa dứ ngón tay thối về phía thiếu tá Ortiz.

- Các Bà mẹ trên quảng trường tháng Năm đã phát hiện ra con bé giữa một trong số nhiều cuộc biểu tình mà María Luz tham gia. Các bà ấy cũng phải mất nhiều tháng quan sát trước khi tiếp cận con bé. Khi biết được sự tình, con gái tôi đã đòi đổi họ. Nó đã đi khỏi nhà ngay ngày hôm đó, không một lời từ biệt, không lần nhìn lại.

- Ông có biết cô ấy đi đâu không?

- Tôi hoàn toàn không biết một chút gì.

- Thế ông không tìm cách tìm lại cô ấy sao?

- Cứ khi nào có biểu tình là tôi lại đi Buenos Aires. Tôi đi theo đoàn người biểu tình với hy vọng nhận ra con bé. Rồi tôi cũng gặp được con bé một lần. Tôi đã tiếp cận con bé, van xin nó cho tôi vài phút để nói chuyện cùng nhau. Con bé đã từ chối. Trong ánh mắt của nó, tôi chỉ thấy sự hận thù. Tôi sợ con bé sẽ tố cáo tôi nhưng nó đã không làm vậy. Sau khi tốt nghiệp, con bé ra nước ngoài, tôi không còn biết tin gì về nó nữa. Anh có thể viết bài báo của anh được rồi đó, anh Stilman, tôi hy vọng anh sẽ giữ lời hứa. Tôi yêu cầu anh làm như vậy không phải là cho tôi mà cho đứa con gái thứ hai của tôi. Con bé chỉ biết một điều rằng chị gái nó là con nuôi.

Andrew cất bút và cuốn sổ tay đi. Anh đứng dậy đi ra mà không chào từ biệt Ortiz.

Marisa đợi anh sau tấm rèm, nhìn gương mặt cô là đủ biết cô đang rất bực mình.

*

- Đừng nói với em là tên đểu cáng ấy sẽ thoát khỏi chuyện này như vậy nhé! Marisa hét lên khi vào xe ô tô.

- Anh chỉ nói một lời thôi.

- Anh thì cũng chẳng tốt đẹp hơn hắn đâu!

Andrew nhìn cô, khẽ nhếch mép cười. Anh khởi động xe và chiếc xe lao đi.

- Em rất quyến rũ khi nổi giận, vừa nói Andrew vừa đặt tay lên đầu gối cô.

- Đừng chạm vào tôi, Marisa vừa đáp vừa đẩy tay Andrew ra.

- Anh đã cam kết là không nêu danh tính hắn trong bài báo, anh chẳng hứa gì khác nữa, có vậy thôi.

- Anh đang kể lể gì thế?

- Chẳng có điều gì ngăn cản anh đăng tải một tấm hình để minh họa cho bài báo cả. Nếu làm vậy, ai đó sẽ nhận ra Ortega đằng sau khuôn mặt Ortiz, anh chẳng làm gì quá đáng... Chỉ cho anh làm sao có thể đến nhà người thợ ảnh mà em đã đưa cuộn phim chụp và hy vọng là cuốn phim không bị lộ sáng, anh thật sự muốn tránh phải quay lại nơi này vào ngày mai.

Marisa nhìn Andrew và rút lại bàn tay đang đặt trên đùi Andrew.

*

Thời tiết ngày hôm đó đẹp, vài đám mây bảng lảng trên bầu trời Buenos Aires. Andrew tận dụng khoảng thời gian cuối cùng mình còn lưu lại Argentina để tham quan thành phố. Marisa dẫn anh đi thăm nghĩa trang Recoleta và anh rất ngạc nhiên khi thấy các lăng mộ có quan tài được đặt trên tầng cao ngang tầm mắt nhìn của mỗi người thay vì chôn dưới đất.

- Ở đây là như vậy, Marisa nói. Người ta tiêu tốn cả gia tài để xây ngôi nhà cuối cùng của đời mình. Một mái nhà, bốn bức tường, cửa ra vào bằng sắt để ánh sáng len vào mộ và một ngày nào đó, cả gia tộc cùng quy tụ an nghỉ mãi mãi ở nơi này. Anh nhớ nhé, Marisa nói thêm, sau này chết đi, em muốn tiếp tục được nhìn thấy mặt trời mọc hơn là mục rữa nơi đáy mồ. Và hơn nữa, em thấy như thế này khá là vui khi mọi người tới thăm mộ.

- Em nói không sai, Andrew nói, bỗng dưng anh chìm vào dòng suy nghĩ ủ rũ mà anh đã gần như quên đi được từ khi tới Argentina.

- Chúng ta còn thời gian, chúng ta còn trẻ.

- Ừ... Em còn thời gian mà, Andrew thở dài. Chúng ta có thể đi được rồi chứ? Chỉ cho anh chỗ nào náo động hơn chút coi.

- Em đưa anh về khu phố nhà em, Marisa nói, nơi đó tràn đầy sức sống, màu sắc, người ta chơi nhạc ở mỗi góc phố, em không thể sống ở nơi nào khác ngoài nơi này.

- Thế thì anh tin rằng cuối cùng mình cũng đã tìm được một điểm chung giữa hai chúng ta.

Marisa mời Andrew ăn tối tại một nhà hàng nhỏ ở Palermo. Ông chủ quán có vẻ biết rất rõ Marisa và, trong khi có rất nhiều khách chờ bàn trống, họ đã được xếp chỗ ngồi đầu tiên.

Buổi tối của họ tiếp tục trong một quán bar nhạc jazz. Marisa đưa đẩy hông trên sàn. Cô đã thử lôi kéo Andrew vài lần nhưng anh thì chỉ thích ngồi yên vị trên ghế, chống khuỷu tay lên quầy bar mà nhìn Marisa nhảy nhót.

Vào khoảng một giờ sáng, họ đi dạo trên các con ngõ nhỏ còn rất náo nhiệt.

- Khi nào anh sẽ đăng bài?

- Vài tuần nữa.

- Khi nào bài đăng, Alberto sẽ nhận ra Ortega sau tấm ảnh chụp Ortiz. Chú ấy sẽ đi kiện cho coi. Chú ấy đã quyết định làm thế, em nghĩ là chú ấy đã hy vọng điều đó từ rất lâu rồi.

- Cần có nhiều nhân chứng khác nữa để khiến hắn bẽ mặt.

- Anh đừng lo, Louisa và mạng lưới của dì em sẽ làm những gì cần thiết, Ortiz sẽ phải ra hầu tòa vì những tội ác mà hắn đã tham gia.

- Dì em quả là một phụ nữ kỳ lạ.

- Anh biết không, anh đã đúng về chuyện dì ấy và Alberto. Mỗi tuần một lần, họ lại gặp nhau trên một băng ghế tại quảng trường tháng Năm. Họ ngồi cạnh nhau trong vòng một giờ đồng hồ, thường là trao đổi với nhau một vài từ rồi đường ai nấy đi.

- Sạo họ lại làm vậy?

- Vì họ cần gặp lại nhau, cần tiếp tục được làm cha mẹ của cậu con trai mà họ muốn khắc ghi mãi mãi trong tâm trí. Họ không có nấm mồ nào để đến thăm viếng.

- Em có nghĩ là một ngày nào đó họ sẽ về với nhau không?

- Không, những gì họ đã trải qua quá là nặng nề.

Marisa im lặng giây lát trước khi nói tiếp:

- Louisa rất quý anh, anh biết không.

- Anh không hề nhận thấy điều đó đấy.

- Em thì có đấy. Dì ấy thấy anh quyến rũ, mà dì ấy lại là một phụ nữ rất có gu.

- Anh coi đó là một lời khen, Andrew mỉm cười đáp lời.

- Em đã để một món quà nhỏ trong hành lý của anh.

- Đó là cái gì vậy?

- Anh hãy mở nó khi nào tới New York. Đừng mở nó trước, hứa với em đi, đó là một điều bất ngờ.

- Anh hứa.

- Em sống cách đây có hai bước thôi, Marisa nói. Nào, hãy theo em.

Andrew đưa Marisa về tận cửa tòa nhà cô ở, anh dừng chân bên thềm cửa.

- Anh không muốn lên sao?

- Không, anh không muốn lên.

- Anh không còn thích em nữa chứ gì?

- Vẫn chứ, đúng ra là còn hơi quá thích. Lúc trong xe lại khác, chúng ta đã không suy tính gì. Khi đó chúng ta đang đối diện với hiểm nguy, anh đã tự nhủ là cuộc sống quá ngắn ngủi và rằng cần phải tranh thủ từng thời khắc hiện tại. Không, thực ra anh đã chẳng tự nhủ tất cả những điều ấy, anh đã quá muốn em và...

- Thế bây giờ anh thấy cuộc sống quá dài và anh cảm thấy tội lỗi khi đã phản bội vợ chưa cưới của anh?

- Anh không biết cuộc sống có dài không, Marisa à, nhưng đúng là anh cảm thấy có lỗi.

- Anh là típ đàn ông khá hơn những gì em vẫn nghĩ đấy, Andrew Stilman ạ. Hãy đi tìm lại cô ấy, còn về những chuyện đã xảy ra ở trong xe thì chẳng đáng gì hết. Em không yêu anh, anh không yêu em, đó đơn thuần chỉ là tình dục, đáng nhớ, nhưng chỉ thế thôi.

Andrew cúi xuống rồi hôn lên má cô.

- Làm những điều như vậy chỉ khiến anh già đi mà thôi, Marisa nói. Thôi, anh đi đi, trước khi em cưỡng hiếp anh ngay trên vỉa hè bây giờ. Em có thể hỏi anh một câu cuối cùng không? Khi em đến lấy mấy cuốn sổ tay của anh ở khách sạn, trên bìa của một quyển có ghi “Nếu như được làm lại”, điều đó có nghĩa là gì?

- Đó là một câu chuyện dài... tạm biệt em, Marisa.

- Vĩnh biệt, Andrew Stilman, em không nghĩ là chúng ta còn gặp lại nhau. Chúc anh có cuộc sống tươi đẹp, em sẽ giữ mãi kỷ niệm đẹp về anh.

Andrew đi khỏi mà không ngoái đầu nhìn lại. Tới ngã tư, anh lên một chiếc taxi.

Marisa chạy lên cầu thang. Lúc bước vào phòng, cô để mặc nước mắt tuôn rơi, những giọt nước mắt mà cô đã kìm giữ vào những phút cuối bên Andrew.

Arial,z�%vtpR UO -serif; font-size: 12px; font-style: normal; font-variant: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; line-height: normal; orphans: auto; text-align: start; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: auto; word-spacing: 0px; -webkit-text-stroke-width: 0px;">- Ừm, tớ sẽ cố tin là thế. Trong khi cậu nghỉ ngơi giải trí thì tớ đang ở Chicago đấy.

- Khỉ thật, tớ quên béng mất.

- Còn tớ thì không. Cậu có muốn nghe điều tớ sắp kể cho cậu không?

Andrew bị một cơn ho dữ dội khiến anh không thể thở nổi. Nhìn vào gan bàn tay, anh lo lắng khi trông thấy vết máu. Anh xin lỗi Simon, hứa sẽ gọi lại cho bạn rồi chạy vào phòng tắm.

Chiếc gương treo phản chiếu một hình ảnh kinh hoàng. Da anh nhợt nhạt như xác chết. Khuôn mặt hốc hác, cặp mắt sâu hoắm trong hốc mắt làm gò má nhô cao. Trông như anh đã già đi ba chục tuổi chỉ trong có một đêm. Một cơn ho thắt ruột mới làm bắn cả máu lên gương. Andrew cảm thấy đầu óc quay cuồng, đôi chân nhũn như con chi chi. Anh bám chặt vào mép bồn rửa rồi khuỵu gối trước khi ngã sụp xuống đất.

Má tiếp xúc với sàn gạch lát lạnh lẽo khiến anh hồi tỉnh đôi chút. Anh lật ngửa người lại rồi nhìn chăm chăm vào chiếc đèn trần chiếu thứ ánh sáng chập chờn.

Tiếng bước chân ngoài hành lang khiến anh hy vọng là người dọn phòng đến. Không thể kêu cứu, anh cố với lấy sợi dây điện của máy sấy tóc đang treo cách mình vài xăng ti mét. Dùng hết sức bình sinh chìa tay ra, rốt cuộc anh cũng nắm được nó, nhưng sợi dây trượt khỏi ngón tay anh rồi uể oải đung đưa trước mắt anh.

Có ai đó đang tra chìa vào ổ khóa cửa phòng anh. Andrew sợ rằng người dọn phòng đoán là phòng đang có người thì sẽ không bước vào nữa. Anh gắng bấu vào mép bồn tắm, nhưng chợt bất động khi nghe thấy tiếng hai người đàn ông đang thì thào với nhau ở phía bên kia cánh cửa phòng tắm.

Chúng lục lọi căn phòng, anh nghe thấy tiếng tủ tường kêu kẽo kẹt khi bị chúng mở ra. Anh lại giơ tay lần nữa để với lấy chiếc máy sấy đáng ghét như thể đó là một thứ vũ khí.

Anh kéo sợi dây, chiếc máy sấy rơi xuống sàn nhà lát gạch. Hai giọng nói liền im bặt. Andrew đã ngồi lại được và dựa lưng vào cửa rồi dồn hết sức xuống đôi chân để ngăn chúng mở cửa.

Anh bị văng mạnh về phía trước, một cú đá cực mạnh khiến ổ khóa tung ra và đẩy cánh cửa vào phía bên trong phòng tắm.

Một gã đàn ông túm lấy vai anh hòng ấn anh xuống đất, Andrew chống cự lại, nỗi sợ đã đẩy lùi cơn chóng mặt của anh. Anh tung được một cú đấm vào mặt kẻ tấn công mình. Gã đàn ông, vốn không hề trông đợi điều này, đổ sụp xuống sàn bồn tắm. Andrew đứng dậy để đẩy kẻ thứ hai đang nhảy bổ vào anh. Anh vớ lấy chai xà phòng nước nằm trong tầm với rồi ném về phía hắn. Gã đàn ông tránh cú ném, cái lọ vỡ tan trên sàn nhà. Hai cú đấm móc vào mặt khiến Andrew bắn đập vào gương, cung lông mày của anh rách toác. Máu bắt đầu chảy ra, che mờ tầm nhìn của Andrew. Cuộc chiến trở nên không cân sức, Andrew không còn chút cơ may nào cả. Gã khỏe hơn trong hai kẻ tấn công ấn chặt anh xuống đất, tên còn lại rút dao từ trong túi ra rồi đâm thẳng lưỡi dao vào phần cuối sống lưng anh. Andrew thét lên đau đớn. Trong nỗ lực cuối cùng, anh vớ lấy mảnh vỡ chai xà phòng rồi cứa vào tay kẻ đang cố siết cổ anh.

Đến lượt gã đàn ông thét lên đau đớn. trong khi lùi lại, hắn trượt ngã trên lớp nước xà phòng lênh láng trên mặt sàn và khuỷu tay va phải nút bấm báo cháy.

Tiếng còi inh tai bắt đầu vang lên; hai gã đàn ông vội chuồn ngay.

Andrew buông mình trượt dọc bờ tường. Ngồi bệt xuống sàn, anh đưa tay ra sau lưng, gan bàn tay anh đầy máu. Ánh sáng từ chiếc đèn trần cứ chập chờn vào lúc anh bất tỉnh nhân sự.