Con Nhân Mã ở trong vườn - Phần 7 chương 3

Paulo về bàn mình, lo sợ và ưu phiền hơn bao giờ hết. Việc này là bất hợp pháp, tất nhiên rồi, chính cái việc xuất bản ấy, nhưng làm thế nào bây giờ? Tố cáo ông giám đốc ư? Tố với ai? Mặt khác, a dua với ông ta lại khiến anh ghê tởm. Nhưng anh không muốn bị mất việc làm, chí ít cũng là trong thời điểm ấy, khi mà anh chưa có gì để bấu víu.

Ngày lại ngày, Paulo mỗi lúc một thêm lo sợ. Anh mất cả ngủ, và không biết nói chuyện này với ai. Fernanda mỗi lúc mỗi bận thêm với đứa con gái. Anh có nên hỏi ý kiến luật sư không? Hay là bỏ trốn?

"Thế rồi tớ thoát nạn, Guedali ạ. Thoát bất ngờ, có thể nói vậy. Phép lạ đã xảy ra vào một buổi chiều. Đến hết giờ làm, ông sếp vẫn ngồi trong phòng kính. Chuyện đó lạ, vì thường thì cứ đúng 6h là ông ta đứng lên ra về, và tất nhiên là chúng tớ sẽ về sau ông ta một tí. Nhưng hôm đó, 6h rồi mà không thấy gì cả. 6h15, rồi 6h30, mà ông ta vẫn ngồi bất động trong chiếc ghế lưng cao của mình. Chúng tớ nhìn nhau, không biết phải làm gì. Cuối cùng thì cậu chạy giấy lấy hết sức can đảm gõ cửa. Ông giám đốc vẫn không nhúc nhích. Cậu ta bước vào và lễ phép hỏi liệu mình đã được phép về chưa. Không gì hết. Không một lời đáp. Thưa, ông có được khoẻ không ạ? Cậu ta hỏi. Ông giám đốc im lặng. Cậu bé một lần nữa lấy can đảm chạm tay vào vai ông ta. Ông giám đốc đổ người sấp mặt xuống bàn. Ông đã chết hẳn rồi."

Nhồi máu cơ tim, bác sĩ cơ quan nói vậy. Và cảnh cáo tất cả chúng tớ: đây là bài học cho những ai sống mà lười vận động. Tôi biết ông ta: không bao giờ tập thể dục, hút thuốc lá quá nhiều và không ngớt lo lắng buồn phiền.

"Hôm sau," Paulo kết thúc câu chuyện, "tớ xin thôi việc. Tớ quyết định phải có công việc riêng của mình; thề rằng sẽ không bao giờ còn có một thằng giám đốc nào, một thằng thủ trưởng nào hay bất kỳ cái gì khác nữa. Và tớ bắt đầu học nhu đạo ở một câu lạc bộ thể thao gần nhà. Sau đó tớ quyết định bắt đầu chạy. Đến giờ tớ vẫn chạy. Có những lúc thấy mệt mỏi không muốn chạy nữa, nhưng rồi tớ lại nhớ đến lão giám đốc nằm sấp mặt xuống bàn, chết cứng, thế là lại quyết tâm chạy. Thậm chí, Guedali này, tớ có thể nói rằng chạy là việc quan trọng nhất trong đời tớ. Sau gia đình, tất nhiên rồi. Và bạn bè nữa."

Paulo và Fernanda, Julio và Bela, Armando và Beatrice, Joel và Tania, chúng tôi thường đi ăn tối với nhau vào cuối tuần. Joel biết hết những quán ăn ở Sao Paulo và là người dẫn đường của cả nhóm. Mặc dù anh phải kiêng khem nghiêm ngặt vì bị u xơ trong bụng, anh vẫn rất khoái nhìn chúng tôi ăn. Cái rượu quả Hungary này thật tuyệt vời có phải không? Anh hỏi, hai mắt mơ màng, trong khi nhấm nháp một ly sữa bò.

Chúng tôi cũng thường tụ họp ở nhà nhau. Và nếu là đêm thứ bảy, cả bọn sẽ ở lại đến tận gần sáng, nói đủ thứ chuyện: việc làm ăn, tất nhiên rồi, và cả về bọn trẻ con, tình hình chính trị, đám người giúp việc, xe ô tô. Rồi giáo dục tình dục trong nhà trường. Rồi phân tâm học. Rồi vụ li dị mới đây nhất. Rồi du lịch.

Chúng tôi cũng đi xem phim và nghe hát với nhau. Thỉnh thoảng còn chơi bài, thậm chí chơi cả trò Scrabble và Monopoly [xxxii].

[xxxii] Scrabble: Trò chơi sắp chữ trên bảng có kẻ ô vuông, các con chữ in trên từng miếng gỗ. Monopoly: Một trò chơi thèo hình thức giống của trò cá ngựa, nhưng dùng các quân chơi và ô chuồng là các yếu tố trong thị trường, ai được là thành độc quyền trong thị trường ấy. (ND)

Đến dịp lễ hội giả trang, chúng tôi nghĩ ra một trò vui. Julio và Bela sẽ bí mật ăn vận giả làm cái gì đó không ai được biết, rồi hẹn sẽ đi bộ theo một đoạn đường hẹn trước ở trung tâm thành phố, bắt đầu từ 10h cho đến nửa đêm. Đôi nào tìm trúng được họ trong đám người giả trang đông đúc sẽ được khao một chầu ăn tối.

10h đêm, Tita và tôi đi xuống phố. Armando, Beatrice, Joel và Tania đã có mặt cả ở đó, đang truy tìm hai bạn giả trang. Tita và tôi ăn mặc thành cướp biển, đi quanh quẩn giữa đám người đi tìm nhau, ai cũng đeo mặt nạ. Giữa đám giả trang thành hề cung đình với hề rạp xiếc, làm sao biết được hai anh hề nào là người mình tìm? Hay họ giả làm hai người Ả rậpkia? Hay là mấy con ma kia? Vợ chồng tôi có thể đoán Julio và Bela đang giả trang thành các nhân vật gì nữa. Chúng tôi cứ tìm đại, Tita và tôi, cười ngặt nghẽo vì những lầm lẫn của mình. Tôi túm lấy tay một người sói, cứ tưởng đấy là Julio. Còn Tita thì hét vào mặt một người ăn mặc như cung nữ, "Bela, tớ tìm được cậu rồi!" nhưng đâu có phải Bela. Thế rồi bất chợt tôi nhìn thấy con nhân mã.

Nó đứng im, con nhân mã ấy, nhìn một nhóm người Indian nhảy múa trên đường phố, nhưng nó làm thiên hạ chú ý nhiều hơn là đám nhảy múa. Một đám đông nho nhỏ đã tụ họp xung quanh nó, vừa cười nói vừa bình phẩm. Có người vỗ mạnh vào mông nó, làm nó đá chân loạn xì ngậu ra sau.

Tita ôm chặt lấy cánh tay tôi. Phản ứng đầu tiên của tôi là đưa nàng chạy ngay khỏi nơi đó, cứ như thể họ đã phát hiện ra bí mật của chúng tôi, như thể họ đang nói, chúng bay che giấu thế nào nổi, chúng tao biết hết rồi, chúng tao biết bọn bay đã từng là cái gì. Và ai đang nói vậy? Julio với Bela chăng? Có phải họ đang ở bên trong bộ quần áo nhân mã giả trang kia?

Cố trấn tĩnh và làm chủ bản thân, tôi nắm lấy tay Tita và bước đến gần con nhân mã.

Đó là một bộ giả trang rất tồi tệ, làm bằng một thứ vải thô màu nâu chẳng giống da ngựa một chút nào. Cái đuôi làm bằng sợi nhuộm không được tẩy sạch. Những bộ móng bằng nhựa đen quá to so với thân mình. Trong khi nhìn những cái móng ấy, tôi bất chợt thấy lạ: làm sao mà những người trong gánh xiếc lại có thể nhầm một con nhân mã thật là tôi với hai con người núp trong một bộ giả trang được nhỉ? Những cái móng ngựa của tôi, mặc dù đã rất to (có lẽ tôi có mang huyết thống của giống ngựa Percheron) vẫn cứ nhỏ hơn rất nhiều so với những cái móng giả kia. Có giả trang thì có lẽ phải là người có bàn chân rất nhỏ, hoặc phải luôn đi kiễng trên đầu ngón chân thì may ra... May ra.

Chúng tôi đứng đó, không biết phải làm gì. Mình đi khỏi đây thôi, Tita thì thầm. Tôi nhìn nàng. Mặt nàng tái xanh và hoảng hốt và vẻ mặt ấy đã khiến tôi quyết định phải làm rõ chuyện này cho xong một lần. Nếu Julio và Bela đang ở trong bộ giả trang kia, nếu cuộc chơi này là một thông điệp cho chúng tôi, thì đã đến lúc phải công khai mọi chuyện. Em ở đây nhé, tôi bảo Tita. Chen vai thích cánh qua đám đông, tôi đi thẳng đến chỗ con nhân mã và đứng sững ngay trước mặt nó.

Tôi không thể thấy bộ mặt thật của người đó, chụp dưới một cái túi giấy nâu vẽ thành mặt quỉ sứ. (Thử tưởng tượng xem, một nhân mã có bộ mặt quỉ!) Bộ ngực lông lá và cái bụng tròn trịa kia có thể là của Julio được lắm.

"Mày định gây sự gì thế hả?" Hắn gào lên. "Mày chưa thấy một thằng nào ăn vận giả trang hay sao hả, thằng hề kia?"

Pedro Bento!

Tôi lùi lại, kinh ngạc và sợ hãi. Đúng vậy, đó là Pedro Bento. Cái giọng nói tôi đã từng nghe trong chiếc xe taxi.

"Mày làm cái gì thế, Pedro, muốn đánh nhau đấy à?" Một giọng đàn bà từ trong bụng con nhân mã phát ra, và tôi nhận ra ngay. Đó là bà dạy sư tử của gánh xiếc!

Và rồi bọn họ cãi nhau, bà ta kêu ca cứ phải cúi lom khom thật khó chịu, toát hết cả mồ hôi trong bộ áo giả trang. "Rồi còn phải ngửi rắm của mày nữa chứ, Pedro! Thằng khốn, sao mày cứ đánh rắm liên miên thế! Rồi bây giờ còn gây sự đánh nhau nữa!"

Những người dự hội ở xung quanh đó nghe rõ hết cả và buồn cười nôn ruột. Pedro Bento đấm vào mông mình thình thịch, tức là vào người đàn bà; và bà ta cũng đấm trả từ bên trong bộ áo giả trang, đến nỗi cuối cùng thì nó rách toạc ra và để lộ nguyên hình bà, lôi thôi lốc thốc và mặt mũi đầy kinh ngạc. Quả thật, đó chính là bà dạy sư tử ở gánh xiếc.

Đi thôi, tôi bảo Tita. Tôi quàng tay ôm lấy sườn nàng và đưa nàng vào một quán bar gần đấy. Chúng tôi cùng ngồi, tôi vẫn còn khó chịu, nhưng còn lo lắng hơn khi thấy vẻ hốc hác trên gương mặt Tita. Tôi cầm lấy hai bàn tay nàng, chúng lạnh như băng. Tôi gọi rượu mạnh và ép nàng uống. Khi nàng đã bình tĩnh hơn, tôi kể cho nàng biết hai người ở bên trong bộ áo nhân mã ấy là ai. Nàng nhìn tôi chằm chằm, không nói một lời. Tôi biết không phải nàng ghen với người đàn bà dạy sư tử. Mà là một nỗi hãi hùng khủng khiếp đang hành hạ nàng. May sao, những người bạn của chúng tôi đã thấy chúng tôi và cùng kéo cả vào quán bar ấy. Chúng mình đi chén thôi! Julio và Bela reo lên, vui mừng vì không ai phát hiện ra họ trong hai bộ áo quần du hành vũ trụ. Tita và tôi làm đủ mọi thứ để hoà mình vào niềm vui chung ấy, nhưng vẫn chỉ thấy vui gượng mà thôi. Tôi biết Tita cũng đang tự hỏi như tôi rằng: liệu bí mật của chúng tôi còn giữ được bao lâu nữa?

Những ngày sau đó trôi qua đầy lo lắng. Từng giây từng phút, tôi sợ bị chạm trán với Pedro Bento. Đi đâu tôi cũng đeo kính râm; hễ thấy một cái taxi dừng lại gần mình là tôi lập tức quay đi chỗ khác. Còn bà dạy sư tử... phải, tôi cũng rất sợ chạm mặt bà ta, nhưng là một cái sợ khác, vừa hoảng vừa thích. Tôi tưởng tượng thấy mình sau khi cơn kinh ngạc của bà ta đã qua đi, tôi mời bà đi uống rượu, rồi đưa bà tới một nhà trọ, và hỏi khi đang ở trên giường, "Thế nào, ai là ngựa, hả? Bà gọi ai là ngựa thế hả?" Còn bà thì hổn hển thì thào với tôi, "Anh... đồ ngựa đực... anh..."

Còn Tita, nàng mỗi ngày một thu mình lại nhiều hơn. Nàng đã bỏ các môn học và thậm chí không còn xem cả TV nữa. Cả ngày nàng chỉ ngồi im một chỗ và nhìn đăm đăm vào không trung.

Tôi tưởng nguyên nhân là cái con nhân mã giả kia, sự chạm trán với Pedro Bento và người dạy sư tử kia ở Sao Paulo. Tôi cố trấn tĩnh nàng: Nghe này, Tita, họ sẽ không nhận ra anh đâu. Cái người mà họ đã quen ngày trước có mình ngựa, móng ngựa và đuôi ngựa hẳn hoi cơ.

Nhưng sự thực đó không phải là cái làm nàng phiền lòng. Hoặc có thể, nó không làm phiền lòng đến mức ấy. Nàng có một chuyện gì khác, một cái gì đó vừa khiến nàng lo sợ, cũng vừa khiến nàng đôi khi lại nở một nụ cười bí hiểm.

"Em có chuyện quái quỉ gì vậy?" Tôi hỏi nàng, lòng đầy thắc mắc. Nàng không trả lời. Rồi một đêm, lúc chúng tôi đang từ chỗ Julio trở về nhà, nàng bảo tôi: "Em có mang."

Tôi không chịu tin. Ông bác sĩ Morocco đã cam đoan với tôi nếu uống những viên thuốc ấy thì nàng sẽ không bao giờ có thai. Nhưng tình cờ, nàng nói, em đã quên không uống thuốc ấy nhiều tháng nay rồi. Em điên rồi, tôi nói. Chúng tôi đang ngồi trong ô tô, bàn tay tôi đang liệt cứng lại, không thể bật khoá khởi động. Nàng không đáp, nhưng châm một điếu thuốc lá.

Tôi mở máy và phóng hết tốc lực về nhà. Tôi vào thẳng chỗ để điện thoại và gọi ngay một cú đường dài sang cho ông bác sĩ Morocco. Ông nhấc máy, nhưng buồn ngủ hoặc say rượu, mãi không nghe ra tôi nói gì. Cuối cùng thì tôi cũng làm cho ông hiểu rằng Tita có mang. Ông đoan chắc với tôi nàng sẽ không việc gì, nàng có một tử cung người bình thường. Nhưng cái gì rồi sẽ từ đó chui ra? Tôi hét lên. A... ông nói, cái đó thì tôi không biết được. Nếu anh sợ như vậy thì đưa chị ấy đến đây, nếu cần thì tôi sẽ nạo cái thai ấy cho anh.

Tôi đặt điện thoại xuống. Tita đăm đăm nhìn tôi. Em muốn có đứa con của em, nàng nói, dù cho nó có là người, nhân mã, hay là ngựa. Em muốn có con, nàng nhắc đi nhắc lại.

Từ lúc đó trở đi tôi không yên được một phút nào. Ở văn phòng, trong xe, trong những giấc mơ, lúc nào tôi cũng bị hành hạ bởi cùng một thứ nhãn ảnh: những quái vật với các bộ phận người (tay, chân, môi, mắt) và các bộ phận ngựa (chân, đuôi, bờm, dái) kết hợp lại theo các tỉ lệ khác nhau, và luôn luôn, luôn luôn thành những hình thù khủng khiếp.

Càng gần đến ngày sinh, bụng Tita càng to ra một cách đáng sợ. Tôi khẩn khoản rằng hai vợ chồng phải đi Morocco, ít nhất thì cũng để tham vấn ông bác sĩ xem sao. Nhưng quyết tâm của nàng là không thể lay chuyển. Không cần đâu, em biết mọi chuyện sẽ tốt đẹp cả, nàng bình thản nói, thậm chí còn có vẻ rất hạnh phúc. Thế còn lúc sinh nở thì sao, tôi hỏi. Chúng ta sẽ thu xếp thế nào đây? Thế nào thì cũng là theo ý Thượng Đế cả, nàng đáp. Em sẽ sinh con như những người đàn bà Indian, có bao giờ họ cần đến bệnh viện và bác sĩ đâu. Nghe nàng nói, tôi cảm thấy nàng đã điên rồi, điên hẳn rồi.

Nhiều khi tôi hoảng hốt tỉnh giấc trước lúc bình minh. Tita vẫn ngủ, và tôi nhìn bụng nàng, lộ rõ dần dưới làn ánh sáng còn rất nhẹ của buổi rạng ngày. Cảm giác bao trùm của tôi là sợ hãi, lo lắng, và một ý muốn nổi loạn mù quáng, không phải chống lại Tita mà là chống lại chính bản thân mình, và chủ yếu là phản kháng cái thực thể linh thiêng có tên là Jehovah hoặc bất kỳ một cái tên nào khác, người phải chịu trách nhiệm về những nỗi nhọc nhằn đau khổ nhiều đến thế.

Nhưng nhiều khi tôi cũng xoay ngược được những lo sợ của mình, cởi bỏ được mối hiềm nghi căm phẫn đang tích tắc như một trái bom nổ chậm trong lòng. Quầng ánh sáng nhẹ nhàng phản chiếu từ làn da bụng kia xâm nhập vào tôi, khiến cho tâm trí tôi êm dịu lại. Và nếu tôi để ý thấy bất kỳ một động cựa nào, chắc chắn là do những động cựa của một cánh tay nhỏ bé hoặc cái đầu xinh xinh, là lập tức tôi lại thấy xúc động đến mức, giống như Schiller, muốn ôm chầm lấy hàng triệu người một lúc. Hàng triệu người, kể cả ít nhất là vài chục người da đen, người India, mấy anh khủng bố Palestine, những quái thai (một anh khổng lồ một mắt, một cậu quỉ lùn có hai chân cong ngược lên và giữa các ngón lại mọc ra một bàn chân vận động viên to tướng, đấy là chưa kể đến các anh gù có bướu trên lưng và các chị có những bộ mặt sùi vì bỏng axit,) và cả một con nhân mã con, nếu phải có cả nó. Đúng thế, tôi sẽ có thể yêu cả một con nhân mã con, và tình cảm ấy chỉ có thể xuất hiện từ thiện căn làm cha tự nhiên vẫn còn ở trong tôi. Vậy tôi có sợ nữa không đây? Có sẵn sàng liều lĩnh đón nhận tương lai không đây? Tôi không biết, thực lòng là tôi không biết. Gì thì gì, nào những đợt sóng yêu thương, nào những cơn oán hận, kết quả cuối cùng là một bãi biển vắng vẻ và rộng lớn, một phong cảnh yên bình, và khi tôi thẫn thờ đứng trước khung cảnh ấy, tôi dần dần thiếp đi vào một giấc ngủ yên lành. Cho đến khi chuông đồng hồ đánh thức tôi dậy. Nhưng đó không phải là tiếng kèn của thiên sứ, chỉ là một dụng cụ cơ khí gọi tôi trở lại với thực tế có thể không hoàn toàn phũ phàng, nếu tôi dám trực diện đương đầu với nó.

Việc đầu tiên phải làm là chuẩn bị những thứ cho cuộc sinh nở được tiến hành trong những điều kiện thích hợp nhất. Nhưng làm gì đây? Tôi nảy ra một sáng kiến: mụ đỡ đã đón nhận tôi vào đời. Mụ còn sống không? Tôi gọi điện cho Mina, cầu mong mình đừng gặp chị trong trạng thái trầm uất. May sao, chị Mina có vẻ rất vui, chị vừa đính hôn với ông bác sĩ phân tâm vẫn điều trị cho mình.

Tôi bảo chị Tita đã có mang, và chị chúc mừng tôi nhiệt liệt, nhưng khi tôi nói đến những nỗi lo âu của mình thì chị lập tức sợ hãi và nói rằng chị lại cảm thấy một cơn u uất đang dâng lên rồi đây. "Ôi không được, không có đâu!" Tôi hét ầm lên. "Chị phải giúp em đây này!"

Mina không phụ lòng tôi. Chị lên xe đi luôn xuống những con đường quê bụi mù của Rio Grande và tìm thấy mụ đỡ già trong một cái trại gia súc ở tít tận một nơi hẻo lánh, đang ngồi uống trà cỏ đắng. Mụ đã gần như loà, khổ thân mụ. Mụ có nhớ Guedali không? Tất nhiên rồi, thằng cu Do Thái nửa người là ngựa chứ gì? A, vậy là cậu ấy sắp làm cha hử? Thời gian đi nhanh vậy sao, thưa cô.

Mụ rất thích vì tôi đã tìm mụ để đỡ cho vợ mình. Tuy vậy, mụ không muốn đi xa: thưa cô, tôi già quá rồi, chẳng muốn rời khỏi túp nhà bé nhỏ của mình nữa. Tôi chẳng đi nổi một bước khỏi đây đâu. Nếu muốn, họ có thể đến đây. Mina thuyết phục mụ rất khó khăn; chị phải hứa đủ mọi thứ: quần áo, đồ bát đĩa bằng sứ, đồ đạc trong nhà, rồi cuối cùng thì mụ cũng đồng ý. Mina chở mụ về Porto Alegre rồi đưa mụ lên máy bay.

Tôi ra đón mụ ở sân bay. Nhìn thấy cảnh một bà già nhỏ thó mặc bộ đồ đen, tay ôm khư khư một bọc đồ (về sau tôi mới biết là bọc thức ăn), ngơ ngác giữa những đám dân Sao Paulo đông đặc, tôi thấy đau nhói trong lòng. Liệu mụ có khả năng đỡ đẻ nữa không đây? Tuy nhiên, lúc về đến nhà, ấn tượng của tôi lại khác đi. Vừa được giới thiệu với Tita, mụ đã đặt bọc đồ xuống, xắn tay áo lên và bảo: nào, con gái thân mến, con cởi bỏ quần áo ra và nằm xuống đây. Hơi giật mình khi thấy cặp móng ngựa ("Ta đã quên mất các con như thế nào rồi") mụ khám cho nàng với vẻ rất tự tin và thành thạo. Chưa trở dạ ngay đâu, mụ bảo chúng tôi. Sẽ trong tuần tới đấy. Còn đứa bé, nó có bình thường không? Tôi hỏi. Mụ không đáp, vờ như không nghe thấy. Tôi hít một hơi dài, bụng bảo dạ: thôi, trăm sự ở cả trong tay Thượng Đế.

Paulo trêu chọc tôi: chưa có một anh sắp làm cha nào lại lo lắng như cậu cả, anh nói. Mà đúng thế: tôi thu xếp cho mụ đỡ ở căn phòng sát cạnh chúng tôi, chỉ một tiếng động nhỏ của Tita là tôi chạy ngay sang mụ. Bình tĩnh nào, Guedali, mụ đỡ già ngái ngủ bảo tôi (mụ ngủ suốt ngày). Chưa đến lúc đâu, tôi đã bảo cậu rồi mà.

Một đêm, Tita thức giấc, thấy những cơn đau đều đặn và dữ dội. Tôi chạy sang gọi mụ đỡ, đã thấy mụ dậy rồi, mặc quần áo và đang canh chừng rồi. Lần này thì đúng rồi, Guedali, đã đến lúc rồi. Ta đi thôi. Cậu sẽ giúp tôi một tay.

Hết sức trấn tĩnh cơn bồn chồn lo lắng trong lòng, tôi nhìn thấy cái đầu đứa trẻ xuất hiện, rồi đến thân mình, rồi hai cái chân. Bình thường. Bình thường cả. Nó có bình thường không, Dona Hortensia [xxxiii], tôi hỏi, đứa trẻ có bình thường không? Lẽ nhiên rồi, mụ đỡ lẩm bẩm khi cắt nhau cho đứa trẻ. Một thằng cu hoàn toàn bình thường. Mà tại sao không chứ? Cậu tưởng ai sinh ra cũng có móng ngựa đấy chắc?

[xxxiii] Tiếng Tây Ban Nha, Dona nghĩa là "bà". Tên mụ đỡ là Hortensia (ND)

Mụ dừng lại, nhìn sang tôi vẻ rất ngạc nhiên. Nhưng cậu có bốn cái chân ngựa cơ mà, Guedali, hai cái kia đâu rồi? Tôi đã mổ chúng đi rồi, nhưng tôi sẽ kể cho mụ nghe sau, hãy để ý vào đứa bé đi đã, xin Thượng Đế thương lấy chúng con.

Nó là một đứa bé đẹp đẽ, cái thằng cu mà mụ đỡ vừa đưa cho tôi ẵm. Tita nhìn tôi và mỉm cười, kiệt sức nhưng vui vẻ. Mụ đỡ nhìn bụng nàng. Vẫn còn to lắm. Hừm, mụ nói, vẫn còn nữa đấy.

Vẫn còn nữa? Tôi hoảng hốt nhìn mụ. Cái gì nữa? Cái gì khác nữa sẽ ra đời? Chân ngựa chăng? Một cái đuôi chăng? Một cái thân ngựa chăng?

(Quang cảnh thế này: Tita nằm trên giường, chăn nệm be bét máu, cặp chân ngựa của nàng dang rộng, mụ đỡ đang lắng nghe bụng nàng, chau mày và lẩm bẩm cái gì đó không thể nghe ra được; còn tôi thì đứng dựa vào tường, gần như xỉu.)