Con Nhân Mã ở trong vườn - Phần 8 chương 2

Một loạt những ca mổ không thành công và hậu quả tử vong của nhiều bệnh nhân, trong đó có một nhân vật quan trọng trong chính phủ, đã dẫn đến việc cảnh sát đến đóng cửa bệnh viện theo lệnh của toà án. Sau nhiều năm chỉ biết ăn dần những gì mình có, ông lại được phép hành nghề trở lại, nhưng tình hình không còn như trước nữa. Các bệnh nhân có tiếng tăm không còn tìm đến ông, những tạp chí quốc tế không còn muốn phỏng vấn ông. Tôi buộc lòng phải làm nhiều thứ khác nhau, ông nói. Bây giờ, tôi phải làm cả nạo phá thai... và cho những lão thũ lãnh phá sản người Ả rập thuê nhà. Không còn như xưa nữa, thưa ông Guedali, tôi nói thật đấy.

Rồi mặt ông sáng lên: Tôi vừa mới nhớ ra là mình có một món quà cho ông! Ông đứng dậy và chạy ù khỏi phòng rồi quay lại ngay với một thứ rất lạ: một cái trống bằng đất sét, trang trí rất có nghệ thuật. Da mặt trống thủng lỗ chỗ.

"Cái trống này," ông giải thích, "được căng bằng da của ông đấy. Bọn thổ dân trả lại tôi. Họ bảo da không được tốt và cứ bị rách. Họ cũng trả lại cả cái roi đuổi ruồi, nhưng không biết tôi đã để nó ở chỗ nào. Ông có muốn giữ cái này làm kỉ vật không? Chỉ một món tiền nhỏ là nó sẽ thuộc về ông đấy."

Tôi đưa cho ông ta ít tiền, nhưng bảo ông hãy đốt cái trống đó đi. Tôi không muốn có bất kì cái gì có thể nhắc nhở đến quá khứ, tôi nói. Tôi hiểu, ông ta bảo.

Tôi nhắc ông rằng Tita vẫn cần ủng. Ông nói chuyện đó không phải lo. Người thợ làm ủng đã rất già, sắp chết đến nơi rồi, nhưng ông biết một người thợ khác hoàn toàn có thể đáp ứng nhu cầu của chúng tôi. Ông bà có thể yên trí quay về Brazil, ông nói khi chấm dứt câu chuyện.

Chúng tôi về Amsterdam, rồi từ đó trở về Brazil cùng với các bạn. Hai thằng nhóc song sinh đón chúng tôi tận sân bay, mỗi đứa mặc một cái áo dệt kim hở cổ của đội bóng đá yêu thích nhất của mình: một thằng là đội Quốc tế, thằng kia là đội Corinthians.

Tình hình trong khu chung cư vẫn tốt đẹp cả. Mọi thứ đều bình yên, và không có gì phá vỡ sự bình yên ấy, cho đến buổi tối ngày 15 tháng 7 năm 1972.

Một đêm, khoảng một tuần lễ trước ngày đó, tôi gặp Paulo tại sảnh tiếp tân để trao đổi về một việc hệ trọng. Hai chúng tôi đang tính lập một công ty mới. Paulo không thoả mãn với công việc làm ăn của mình, và tôi cũng vậy. Triển vọng trong lĩnh vực mà chúng tôi đang làm không được tốt lắm. Tôi có những thông tin đáng tin cậy về việc chính phủ sắp có những hạn chế mới trong nhập khẩu, là nguồn lãi chính của tôi. Paulo đang tính mở một hãng tư vấn nhỏ. Chúng tôi cũng có một đề nghị của Julio muốn chúng tôi sang làm với anh ta trong lĩnh vực phát triển bất động sản. Nhưng tớ không muốn làm công ăn lương tí nào, Paulo nói, ngay cả cho Julio cũng vậy thôi. Bàn đi tính lại những vấn đề ấy, chúng tôi ở lại chỗ tiếp tân cho đến tận khuya.

Khi tôi về nhà, Tita đã đi nằm và đang đọc sách trên giường. Tôi cởi quần áo, nằm xuống giường và thiếp đi ngay lập tức. Chẳng mấy chốc tôi bị Tita lay dậy. Có chuyện gì thế, tôi lúng búng, buồn ngủ trĩu cả người. Em nghe có tiếng động ở dưới nhà, nàng thì thào. Tôi nhìn đồng hồ: 2h15 sáng. Em tưởng tượng đấy thôi, tôi nói, rồi xoay mình sang bên kia. Nàng lại lay tôi: nhưng rõ ràng em nghe thấy có cái gì đó, Guedali, rõ ràng có ai đó đang ở dưới nhà.

Chuyện vô lý. Ai ở dưới đó mới được chứ? Đám gia nhân ngủ trong dãy nhà ngang của họ từ lâu rồi, hai đứa bé đang ở với ông bà tận Porto Alegre trong cả tháng 7, và trộm thì không thể đột nhập qua hệ thống an ninh của khu biệt thự được. Tôi giải thích tất cả những cái đó cho Tita.

Nhưng nàng vẫn khăng khăng: có người dưới nhà, Guedali, em chắc chắn là có ai đó đang ở dưới nhà. Anh không biết! Anh mệt lắm rồi, anh làm việc suốt ngày rồi và anh muốn ngủ. Thế thì anh lấy phôn gọi cho gác cổng đi, nàng nói. Em điên à? Tôi hỏi, rất khó chịu. Em tưởng anh sẽ làm phiền gác cổng rồi làm ầm ĩ cả lên chỉ vì những cảm giác hoang tưởng của em hay sao? Nếu thế thì em sẽ xuống nhà xem sao vậy, nàng giận dữ nói. Thì em đi đi, tôi đáp. Tôi xoay người ngủ tiếp. Một lúc sau tôi giật mình tỉnh dậy. Tita không ở trên giường. Tôi hốt hoảng gọi nàng.

Em đang ở dưới nhà, có tiếng nàng đáp. Nhưng em đang làm gì dưới ấy? Tôi hỏi. Em đang hút nốt điếu thuốc, nàng nói, em sẽ lên ngay, em không thích hút thuốc trên giường.

Suốt tuần lễ ấy tôi gặp Paulo hoài. Cả hai chúng tôi đều không biết quyết bề nào; tôi có cảm tưởng như chúng tôi đang chạy một vòng tròn mà cứ mỗi ngày một rộng thêm ra. Cuối cùng, đêm ngày 15 tháng 7, 1972, tôi quyết định phải chấm dứt chủ đề ấy một lần cho xong. Hoặc chúng tôi phải mở một công ty mới, hoặc về làm cho Julio, hoặc chẳng làm gì cả, tôi muốn có quyết định cuối cùng.

"Anh sẽ ra sảnh tiếp tân nói chuyện với Paulo," tôi bảo Tita. "Đừng đợi, anh sẽ về muộn đấy."

Nhưng khi tôi đến chỗ tiếp tân thì không thấy Paulo đâu. Người gác nói chưa hề thấy Paulo ngày hôm ấy. Cử chỉ ấy của Paulo có vẻ cực kì khiếm nhã đối với tôi; bực mình, tôi về ngay nhà.

Tôi mở cửa và bước vào nhà. "Anh đã về," tôi gọi. "Paulo không đến..."

Tôi sững lại, không thể tin được. Tôi đang thấy gì trước mặt tôi đây? Không phải là màn ảnh xi - nê, không phải một minh hoạ trong sách, cũng không phải là tưởng tượng của tôi, nó ở ngay kia, trước mắt tôi, đứng ngay trên tấm thảm phòng khách của tôi và đang nhìn tôi.

Một con NHÂN MÃ.

Một con nhân mã thật (Một con nhân mã thật, đúng vậy, thực sự là thật, mặc dù trong đầu tôi vẫn loé lên một ý nghĩ có thể đó chỉ là một con búp bê nhồi, một mô hình nhân mã, một bức tượng mà Tita đã mua về để trang trí phòng khách, cho dù nếu vậy thì nàng thật là ma quái.) Với một tấm áo choàng trắng, rất đẹp trai. Và rất trẻ: bộ ngực và đôi cánh tay cuồn cuộn cơ bắp, nhưng bộ mặt lại là của một thiếu niên mới lớn; tóc dài, mắt xanh, một chàng trẻ tuổi đẹp mã. Chưa thể quá tuổi hai mươi.

Bên cạnh nó là Tita. Sự thực là họ đang ôm nhau.

Họ đang ôm nhau trong tay, Tita và con nhân mã. Họ nhảy vọt ra khỏi nhau khi tôi bước vào, nhưng họ đã ôm chặt lấy nhau. Trong vòng mấy giây đồng hồ, chúng tôi nhìn nhau chằm chằm không nói một lời. Thằng bé im lặng đứng đó, hai mắt cúi gằm, mặt đỏ hồng. Tita thì cố giấu nỗi hoảng sợ lo lắng của mình bằng cách châm thuốc hút.

"Em thấy không cần phải giấu giếm gì hết," Tita nói. Có một vẻ thách thức trong giọng nói của nàng khiến tôi giận dữ, như thể nàng tin chắc là nàng hoàn toàn đúng. Hắn là ai? Tôi hỏi, hầu như không giữ nổi bình tĩnh. Một con nhân mã, nàng nói. Cái đó thì rõ rồi, tôi nói với một giọng hơi khang khác, tôi không phải là đồ ngốc. Tôi muốn biết chàng công tử nhân mã này là ai và anh ta đang làm gì trong nhà tôi, ôm riết lấy vợ tôi như thế. Chẳng là, Tita mở miệng, đã mất giọng tự tin, anh ta xuất hiện.

Tôi ngắt lời nàng.

"Tôi không hỏi cô. Cô đừng có nói một lời nào hết. Anh ta phải là người giải thích chuyện này. Con nhân mã kia. Nó sẽ phải nói cho tôi biết mọi chuyện, không được quanh co, không được giấu giếm."

***

Câu chuyện của con nhân mã:

Hắn cũng ra đời ở nông thôn như Tita và tôi, nhưng trong một ngôi nhà đẹp, gần một bãi biển riêng trong tiểu bang Santa Catarina. Cha mẹ hắn, một cặp vợ chồng trẻ (hắn là con đầu lòng), là người khá giả. Họ đều xuất thân từ Curitiba, chồng là con trai của một nhà sản xuất đồ gỗ giàu có và vợ là một người được thừa kế một gia tài kếch xù. Cuộc sinh nở thiếu tháng ấy được một bác sĩ quen tình cờ đang nghỉ hè ở bãi biển ấy giúp được vuông tròn, và mặc dù người bác sĩ ấy đã rất hài lòng khi thấy đứa trẻ chính mình đỡ ra đời. Khi cơn hoảng sợ ban đầu đã dịu lại, ông ta gọi người cha ra một bên. Đó là một quái vật, ông ta nói, nó sẽ không thể sống được, nếu anh muốn tôi sẽ giúp cho nó chết trong êm ái ngay lập tức. Không, người cha vừa nói vừa khóc, nó là con trai tôi, tôi không đủ can đảm làm chuyện ấy, nhưng nếu vợ tôi muốn thế thì... Ông bác sĩ hỏi người mẹ trẻ, nhưng bà không trả lời, chỉ nhìn lên trần nhà. (Đúng hệt như mẹ tôi, bà đã bị choáng đến độ câm lặng hoàn toàn.)

Ba hôm sau họ trở về nhà. Trong xe ô tô, họ giấu đứa bé nhân mã dưới nhiều lần chăn phủ, và từ đó trở đi che giấu nó rất kĩ. Toàn bộ tầng trên của ngôi nhà là dành riêng cho nó; cha mẹ chỉ ở dưới nhà. Gia nhân không ai được lên gác trong bất kì trường hợp nào, và chuyện này đã khiến cho hàng xóm lân bang đặt nhiều điều dị nghị. Người ta đồn cả đống chuyện ma quỷ và phù phép. Bọn ngốc ấy sẽ ngạc nhiên biết bao nếu chúng thấy những gì có trong tầng gác bị cấm ấy. Con nhân mã không phải là thứ kinh ngạc nhất! Chúng sẽ phải kinh hoàng trước cả một thế giới lạ lùng. Hàng ngàn đồ chơi và trò tiêu khiển tràn ngập phòng nuôi trẻ, rồi sách báo đầy màu sắc, các loại máy nghe nhạc, máy chiếu hình, máy thu hình, tất cả những gì mà một đứa trẻ có thể mơ ước. Và giữa những thứ đó mới là một con nhân mã.

Hắn lớn lên buồn rầu, nhưng không nổi loạn; u uẩn, nhưng lễ phép. Hắn bộc lộ lòng biết ơn đối với những gì cha mẹ hắn đã làm để hắn có được một cuộc đời hạnh phúc. Hắn có những cơn khủng hoảng của mình. Hắn thường khóc lóc và đá vào tường, nhưng chỉ những khi hắn có một mình mà thôi. Trước mặt cha mẹ, hắn kiềm chế được bản thân. Họ thật tốt, cha mẹ hắn, lòng thương yêu của họ khiến hắn quên mình là một con nhân mã, quên cả tình trạng cô đơn khủng khiếp của mình. Ta cần gì phải có bạn bè, hắn tự nhủ (và sau này, Ta cần gì phải có bạn gái,) một khi ta đã có một người cha và một người mẹ tuyệt vời đến thế. Tối nào họ cũng lên với hắn, kể cho hắn nghe những sự kiện trong ngày, vuốt ve hắn. Con có móng ngựa và đuôi ngựa cũng chẳng sao, hắn nói với cha mẹ; cứ nghĩ đến những người gù có bướu, những người sinh ra không chân không tay, như các nạn nhân của chất thalidomide đấy. Nhưng chẳng lẽ con không muốn ra ngoài, không muốn thấy thế giới sao? Cha hắn hỏi, giọng đau đớn. Cha với mẹ là thế giới của con rồi, hắn đáp rồi ôm choàng lấy họ.

Thế rồi tình cờ mẹ hắn dự một buổi tiệc trà từ thiện và gặp một mệnh phụ phu nhân rất đáng mến có chồng là luật sư, chính là Deborah. Họ trở thành bạn thân, và một đêm nọ người đàn bà khốn khổ cởi mở lòng mình, kể chuyện về đứa con trai. Deborah kinh ngạc nói có biết một trường hợp như thế. Nhưng có giải pháp đấy! Chị kêu lên. Hãy viết thư cho bệnh viện ấy ở Morocco, họ tiến hành những phép lạ ở đó!

Cha mẹ hắn hỏi ý kiến người bạn bác sĩ đã đỡ cho hắn ra đời và là người duy nhất biết sự tồn tại của con nhân mã. Tôi nghĩ rất đáng thử xem sao, ông ta khuyên họ như vậy.

Tuy nhiên, con nhân mã không chịu đi Morocco, mặc mọi lý do thuyết phục của cha mẹ hắn. Hắn nói sẽ không ra khỏi nhà, chấm hết. Nhưng con không muốn được giải phẫu ư, không muốn được chữa trị ư? Không. Hắn không nghĩ là mình mắc bệnh gì; hắn không cần một cuộc giải phẫu nào hết, hắn chỉ đơn giản là không giống mọi người mà thôi. Và chừng nào cha mẹ hắn còn yêu thương hắn thì mọi thứ đều ổn cả. Người bạn bác sĩ phải xen vào, rất tức giận: Ôi chao, không thể thế được! Ra đời với một thân hình ngựa là chuyện khủng khiếp, một thảm kịch của số phận. Thế mà bây giờ lại không chịu mổ, sao lại có thể thế được? Cháu phải đi Morocco, thích hay không cũng mặc cháu.

Mẹ hắn bắt đầu khóc lóc, cha hắn ngã vật xuống một chiếc ghế bành. Cuối cùng, hắn quyết định: hắn sẽ đi Morocco, nhưng sẽ đi một mình. Tại sao lại đi một mình? Ông bác sĩ kêu lên. Bác có thể đi với cháu. Cháu sẽ đi một mình, hắn gào lên, hoặc là chẳng đi đâu cả!

Rồi thì họ cũng phải đồng ý. Họ đưa hắn lên một chiếc tàu thủy, trong một khoang có những thiết bị đặc biệt và một cái tủ lạnh, một cái thùng vệ sinh dùng hoá chất, v.v... Con tàu cập bến, và chiếc xe thùng màu đen đã chờ ở đó. Ở bệnh viện, ông bác sĩ Morocco khám cho hắn. Không nghi ngờ gì nữa, hắn giống hệt như hai bệnh nhân kia! Ông bác sĩ mừng rơn: ông ta sẽ có nhiều ca phẫu thuật nhân mã nhất thế giới! (Và còn tiền nữa chứ; ông ta cần tiền lắm.) Chúng ta hãy cho giải phẫu ngay lập tức, ông ta nói.

Nhưng con nhân mã trẻ tuổi vẫn còn lưỡng lự. Hắn sợ. Hắn xin được suy nghĩ thêm vài ngày.

Nhưng chẳng ích gì; càng nghĩ hắn càng thấy bất lực hơn, hoảng sợ hơn. Hắn khóc suốt ngày, nhớ cha nhớ mẹ. Nhưng hắn cũng ngượng không muốn trở về vẫn còn là một con nhân mã, với thân và đuôi ngựa, không chịu giải phẫu; hắn cảm thấy, như những người Spartan ngày xưa, rằng hắn phải từ cuộc chiến trở về tay cầm khiên hoặc được khiêng nằm trên chính tấm khiên của mình.

Rồi hắn bắt đầu nghĩ đến cặp nhân mã đã được giải phẫu. Giá như hắn được hỏi chuyện họ! Hắn cảm thấy chắc chắn là, cũng như cha mẹ hắn, họ sẽ hiểu và giúp đỡ được hắn. Hy vọng của hắn là họ sẽ thuyết phục hắn giải phẫu. Hắn lập một kế hoạch tuyệt vọng: hắn sẽ đi Brazil, tìm cặp cựu nhân mã kia, và hỏi ý kiến họ, tìm kiếm sự hỗ trợ về tinh thần ở họ. Khi đã có đủ can đảm, hắn sẽ quay lại Morocco và chịu giải phẫu.

Giữa đêm khuya tịch mịch, hắn đột nhập vào văn phòng của ông bác sĩ. Hắn tìm thấy tập hồ sơ nhân mã trong tủ tài liệu. Có một cái địa chỉ trong đó, địa chỉ để gửi ủng, và hắn liền ghi lại. Hôm sau, hắn bảo ông bác sĩ rằng hiện tại hắn không có ý định giải phẫu; có thể hắn sẽ nghĩ đến chuyện đó trong tương lai. Còn lúc này hắn phải quay về Brazil.

Lại đi trên con tàu hàng đã đưa hắn sang, hắn quay lại cảng Santos. Trước khi tàu cập bến, hắn nhảy xuống biển. Không biết bơi, hắn đã điên cuồng đạp chân và lóp ngóp vào đến bờ.

Hắn phi nước đại trong đêm và ẩn náu lúc ban ngày. Một sáng nọ, trước lúc bình minh, hắn liều lĩnh đột nhập vào một ngôi nhà trông có vẻ bỏ hoang ở ngoại ô thành phố Sao Paulo. Thật sai lầm, vì ngôi nhà đó không bỏ hoang. Sau mấy tiếng ngủ mê mệt, hắn tỉnh giấc và thấy một người đàn ông đang nhìn hắn chằm chằm. Một người đàn ông trung niên có mái tóc bù xù, mặc áo ngắn tay và quanh cổ có một cái dây xích đeo lủng lẳng một cái đồng hồ to tướng. Con nhân mã cố bỏ chạy, nhưng người ấy trấn tĩnh hắn, hỏi hắn từ đâu tới. Tình cờ làm sao, người đàn ông này lại biết một con nhân mã khác, chính là em ruột ông ta, tên là Guedali. Guedali ư! Hắn kêu lên. Đó chính là người tôi đang đi tìm! Người đàn ông kia chỉ đường cho hắn đến khu chung cư biệt thự, chỉ cách đó chừng vài cây số. Đêm ấy, hắn tìm đến nơi. Hàng rào điện chẳng thành vấn đề gì, hắn nhảy một cú là qua, trong đêm tối không ai nhìn thấy.

Hắn tìm được nhà chúng tôi. Cửa sau (Tita lại bất cẩn) không đóng. Hắn lẻn vào và đứng đó trong đêm tối, không biết phải làm gì, lưỡng lự không biết nên đợi hay nên lên tiếng gọi, cho đến tận rạng ngày. Có tiếng nói của đám gia nhân trong nhà. Sợ hãi, hắn ẩn mình dưới hầm rượu. Ở dưới đó, hắn làm dịu được cơn đói đau thắt ruột gan (hắn đã không ăn gì trong nhiều ngày) với vài món đồ hộp, rồi hắn mở mấy chai vang. Chẳng mấy chốc hắn lăn ra ngủ, ngà ngà say.

Khi đêm xuống, hắn mở cửa hầm rượu và đi lên nhà trên. Hắn vào đến phòng khách thì không biết nên làm gì nữa. Rồi hắn nghe tiếng chân bước trên cầu thang, sợ hãi, muốn trốn chạy, nhưng không kịp nữa rồi - mà cũng chẳng có lý do gì để phải chạy trốn vì người đang đến là Tita, một cựu nhân mã, bây giờ lại là một người đàn bà đẹp, đáng yêu hệt như trong ảnh mà hắn đã thấy trong hồ sơ bên Morocco, bức ảnh đã khiến hắn mê mẩn.

Họ đối mặt nhau. Tita chẳng có vẻ gì sợ hãi, thậm chí không cả ngạc nhiên. Nàng mỉm cười, hắn mỉm cười đáp lại. Nàng cầm lấy tay hắn và dẫn hắn vào gầm cầu thang. Họ đứng đó, thì thầm chuyện trò hàng tiếng đồng hồ, kể chuyện mình cho nhau nghe. Trước khi chia tay, nàng tặng hắn một cái hôn. Chỉ là một cái hôn thân mật lên má, nhưng đó là tình yêu. Nàng đã phải lòng chàng nhân mã trẻ tuổi.

Chiều hôm đó nàng cho gia nhân nghỉ sớm rồi xuống hầm rượu. Ở đó, trong bóng tối, họ đã ân ái nhau. Ôi, sướng biết bao, nàng rên rỉ, và thèm muốn nữa, lần nữa, lần nữa.

Đầu giờ buổi tối nay, 15 tháng 7 năm 1972, hắn nghe thấy tiếng tôi nói từ ngoài cửa: "Đừng đợi, anh sẽ về muộn." Và hắn liều lĩnh ra ngay khỏi hầm rượu. Tita ôm chầm lấy hắn, ôi anh yêu, anh điên rồi, điên rồi, điên rồi! Anh hãy quay về chỗ trốn ngay đi đã.

***

Đến đoạn cuối của câu chuyện, hắn run bần bật, rõ ràng đang sợ hãi đến cực điểm. Hắn nói chỉ có ý định hỏi chuyện chúng tôi, làm rõ vài điều nghi ngại và hắn sẽ đi ngay, hắn không hề có ý định làm phiền chúng tôi.

Nhưng tôi không nhìn hắn, tôi nhìn Tita. Không nghi ngờ gì nữa, nàng đã thực sự phải lòng con nhân mã trẻ tuổi, không còn biết mô tê gì nữa. Nàng đã quên tôi, hai đứa con trai của chúng tôi, quên tất cả. Nàng chỉ còn biết có hắn. Tôi biết rằng mình phải làm cái gì đó ngay lập tức, nếu không thì...

Cửa bật mở, một nhóm người chạy ùa vào, la hét: "Chúc mừng ngày kỉ niệm, chúc mừng ngày kỉ niệm!" Paulo và Fernanda, Julio và Bela, Armando và Beatrice, Tania và Joel. Bela đang mang một chiếc bánh gatô, Armando cầm hai chai rượu, và Tania mang một bó hoa. Tôi chợt nhớ ra: hôm nay là ngày kỉ niệm khai trương khu nhà của chúng tôi, một ngày mà chúng tôi không năm nào không liên hoan kỉ niệm; chính vì thế mà Paulo đã không đến chỗ tiếp tân, vì anh còn mải gọi mọi người đến liên hoan.

Bela đánh rơi chiếc gatô xuống sàn nhà. Tất cả đứng sững nhìn con nhân mã. Họ đứng như trời trồng trước cảnh tượng ấy. Đột nhiên, "Gọi bảo vệ ngay!" Tania rú lên như mất trí. "Lạy Chúa tôi, gọi bảo vệ ngay!"

Kêu lên một tiếng hãi hùng, con nhân mã lao mình qua mảng cửa sổ lớn nhìn ra vườn và chạy biến đi giữa tiếng kính vỡ rào rào. "Gượm đã!" Tita kêu thét lên, chạy ra theo. Beatrice cố giữ chặt lấy nàng, nhưng nàng đẩy chị ra rồi chạy vọt ra cửa. Tất cả chúng tôi chạy ùa theo. Paulo hét: "Cái quái gì thế, Guedali? Cái quái gì thế?"

"Im đi!" Tôi rít lên. Đúng lúc ấy chúng tôi nghe thấy tiếng chó sủa và tiếng súng nổ hàng tràng nối tiếp nhau. Chúng tôi chạy đến khu công viên và thấy mấy nhân viên bảo vệ ở đằng xa, gần chỗ đài phun nước, còn con nhân mã, nó ngã gục giữa một vũng máu.

Tita chạy vượt lên tôi, vừa chạy vừa gào thét. Hết sức bình sinh, tôi đuổi kịp nàng trước khi nàng kịp chạy đến chỗ đài phun nước và túm được tay nàng. "Bỏ tôi ra, đồ súc vật!" Nàng rú lên, mặt biến dạng vì căm thù và đau đớn. Nàng chống trả, cào cấu mặt tôi, đấm thùm thụp vào ngực tôi. Cuối cùng nàng yếu sức, và hầu như ngất xỉu, để mặc cho tôi dìu về nhà. Tôi đặt nàng lên giường. Chuông cửa reo liên hồi.

Tôi đi xuống mở cửa. Đó là Pedro Bento, tay vẫn còn cầm khẩu súng lục. Hắn xanh xám đi vì sợ và mồ hôi vẫn toát ra như tắm. Đó có phải con trai ông không, Guedali? Hắn trầm giọng hỏi. Tôi không đáp, chỉ nhìn. Hắn nói tiếp: Tha thứ cho tôi, Guedali, nếu như đó là con ông. Những người khác hoảng hốt và bắt đầu nổ súng, khi tôi đến chỗ đài phun nước thì nó đã chết rồi. Tôi chỉ bắn một phát giải thoát vào đầu nó để nó khỏi đau đớn mà thôi.

Trên gác, Tita khóc lóc vật vã. Không sao đâu, tôi bảo Pedro Bento, rồi đóng cửa.

Lạ một điều là tôi hầu như không nhớ được tí gì về ba ngày sau đó. Tôi biết là buổi sáng sau khi con nhân mã chết, tôi có đi xuống phố. Tôi không đến văn phòng như lệ thường, mà vào một khách sạn nhỏ. Tôi nhớ có đến một văn phòng du lịch nhờ họ lấy hộ chiếu cho mình, cũng như đi rút tiền ở ngân hàng, bán hết cổ phiếu và trái phiếu, rồi mua vài thứ quần áo với một cái vali. Tuy nhiên, những gì khác đã diẽn ra trong những giờ đồng hồ dài dằng dặc của những ngày ấy thì tôi không nhớ một tí gì hết. Phần lớn thời gian tôi giam mình trong phòng và xem TV hoặc ngủ (tôi ngủ rất nhiều, lúc tỉnh giấc chẳng còn đang biết là ngày hay đêm nữa.) Chắc hẳn tôi đã phải suy nghĩ nhiều. Nhưng không còn nhớ mình đã nghĩ những gì, đã dự định làm gì, tại sao lại định đi du lịch như thế. Chỉ biết rằng khi đến giờ, tôi cứ thế ra sân bay, vừa kịp lên máy bay. Và chỉ một lúc sau, tôi đã trên đường sang Morocco.