Kiếp đi ở - Chương 01 - Phần 1

Chương 1

14 tháng Chín

Hôm nay, 14 tháng Chín, lúc ba giờ chiều, trời êm ả, hơi lất phất mưa, tôi đến nhận việc ở một chỗ mới. Đây là chỗ làm thứ mười hai trong hai năm qua. Tất nhiên tôi không nói về những chỗ làm của những năm trước nữa, vì nhiều chuyện lắm, không sao kể được. Tôi có thể tự hào là mình đã thấy được nơi sâu thẳm các bộ mặt và những cái xấu xa của nhiều tâm hồn... Tôi đã lặn lội khắp nơi, từ nhà này đến nhà khác, từ khu rừng Boulogne đến nhà ngục Bastille; từ Đài quan sát đến Đồi Monmartre, từ Ternes đến Gobelin, chẳng đâu ở lâu, vì vậy mà được biết nhiều ông chủ bà chủ. Rồi lại đến chỗ này nữa. Nhiều chuyện không thể ngờ được.

Tôi đến làm ở chỗ này là do tôi xem mục nhắn tin trên báo Figaro, chứ không phải do tiếp xúc với bà chủ nhà. Và mãi sau giữa bà và tôi mới viết thư hợp đồng với nhau. Thư bà viết rõ ràng, rành mạch nhưng biểu lộ tính keo kiệt. Giấy viết thư là loại giấy xấu, không ai dùng. Nghèo như tôi, mà tôi cũng chả dùng loại giấy ấy. Giấy tôi dùng là loại giấy tốt màu hồng hoặc xanh phơn phớt, lại xức nước hoa, ngoài ra tờ giấy nào cũng in các cành hoa thật đẹp...

Vậy là tôi đã đến Normandie, ở Mesnil-Roy. Dinh cơ của bà chủ nhà cách đấy không xa và có tên gọi là Lâu đài Prieuré... Đấy là nơi từ nay tôi đến để sinh sống.

Tôi không khỏi vừa buồn vừa tiếc sao lại thiếu suy nghĩ đem thân mình chôn vùi vào nơi hang cùng ngõ hẻm này! Chỉ thoáng qua tôi đã thấy ngao ngán và tự hỏi không biết rồi đây sẽ ra sao? Rõ ràng là chẳng có gì hay ho và rất nhiều cái phiền.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com – gác nhỏ cho người yêu sách.]

*

* *

Đây không phải là lần đầu tiên tôi đến làm việc ở một tỉnh lẻ. Bốn năm trước đây đã có một lần rồi, và trong hoàn cảnh rất đặc biệt.

Câu chuyện tôi kể dưới đây có nhiều chi tiết rất kinh, tuy thế tôi vẫn muốn kể. Ý định của tôi khi viết bản nhật ký này là không lấp lửng với người đọc và với cả chính mình. Khi cần, tôi sẽ nói hết sự thật, dù rằng đó là sự thật tàn nhẫn, dù rằng khi lột cái vỏ bề ngoài, một sự thật thối tha sẽ phải phơi bày.

Chuyện là như thế này:

Tôi đã đến "Phòng xếp việc làm". Tiếp tôi là một chị người to béo. Chị là người hầu phòng của ông Robour nào đấy ở Touraine. Hợp đồng xong rồi, tôi phải lên tàu vào một ngày, một giờ, đến một ga, đúng như kế hoạch.

Tàu đỗ, tôi trả vé cho người kiểm soát rồi đi ra. Một người đánh xe mặt to bự, dáng phục phịch, gọi tôi:

- Có phải chị là người hầu phòng mới đến làm cho nhà ông Robour không?

- Phải, chính tôi đây.

- Chị có hòm xiểng gì không?

- Có một cái hòm.

- Chị đưa phiếu gửi cho tôi rồi đứng đây đợi.

Nói rồi anh ta vào sân ga; nhân viên nhà ga gọi tên anh ta một cách trìu mến: "Anh Louis". Louis tìm chiếc hòm của tôi trong một đống ngổn ngang những hành lý và bảo chở trên một chiếc xe bò ra xe của anh ta đang đậu gần rào chắn:

- Chị lên đi! - Anh Louis bảo tôi.

Tôi trèo lên xe, ngồi cạnh anh. Xe chạy.

Anh đánh xe liếc nhìn tôi. Tôi cũng nhìn anh và nhận ra ngay rằng anh là một người quê mùa, thô kệch, chưa bao giờ làm việc ở một nhà quyền quí. Tôi thấy buồn lòng, vì tôi quen sống với những gia nhân mang đồng phục đẹp đẽ. Tôi không ghét gì bằng nhìn thấy những người mặc chiếc quần bằng da bạc phếch bó sát đùi. Cái anh Louis này lại còn cục mịch ở đôi găng tay để giữ dây cương đánh xe, với bộ quần áo rộng thùng thình, bằng vải nhuộm màu xám xịt và cái mũ cát-két bằng da quét vec-ni kẻ hai vạch vàng. Nét mặt anh ta cau có, giọng nói thì cục cằn. Không phải người hung ác. Tôi biết những hạng người như thế này lắm. Mới gặp nhau thế nào cũng dở trò quái quỉ. Nhưng rồi dần dần dấu dịu và yên ổn. Nhiều khi yên ổn đến không ngờ.

Chúng tôi ngồi yên như thế lúc lâu, chẳng ai nói với ai. Anh ta làm ra bộ mặt người đánh xe có cỡ, kéo cao dây cương, roi ngựa ngoáy tròn. Trông thật buồn cười.. Còn tôi, tôi cứ giữ vẻ đàng hoàng nhìn phong cảnh, tuy phong cảnh chẳng có gì đặc biệt, vẫn đồng ruộng, cây cối, nhà cửa, như mọi nơi khác. Anh ta cho ngựa đi bước một để xe lên dốc. Và bỗng dưng với vẻ đùa giỡn anh ta hỏi tôi:

- Chị có mang nhiều giầy như thế này không?

- Nhiều! - Tôi trả lời, ngạc nhiên thấy câu hỏi chẳng ăn nhập gì, và nhất là thấy cách hỏi kỳ lạ của anh ta.

- Sao anh hỏi thế! Hỏi thế là bất nhã, anh già ạ.

Anh ta khẽ lấy cùi tay hích tay tôi và nhìn tôi với con mắt khác lạ vừa như có ý châm chọc lại vừa thích thú, rồi hỏi:

- Đi giầy để làm trò!

Rồi anh tắc lưỡi ra hiệu cho ngựa đi nhanh. Tôi thấy bứt rứt! Anh ta nói thế nghĩa là thế nào nhỉ. Tôi cho là anh ta ngốc nghếch không biết gì, ai lại gợi chuyện với phụ nữ bằng một câu hỏi ngây ngô như thế!

Cơ ngơi của ông Robour khá đẹp và to. Một ngôi nhà xinh xắn, quét vôi ve nhạt, chung quanh có thảm cỏ và vườn hoa, có rừng thông toả hương thơm ngát. Tôi thích cảnh nông thôn nhưng, cũng thật buồn cười, chả biết thế nào, tôi lại thấy u uẩn và chỉ muốn ngủ.

Bước chân vào tiền sảnh tôi thấy nghi nghi hoặc hoặc. Người đợi tôi ở đấy lại chính là chị hầu phòng, người đã nhận tôi vào làm hôm tôi đến "phòng xếp việc làm" ở Paris. Hôm ấy chị ta lục vấn tôi chả biết bao nhiêu chuyện, nào hỏi tôi có những thói quen gì, nào tôi ưa thích những gì... Vì vậy mà hôm nay gặp chị, tôi có ngay cảm giác không thích chị và ghét chị. Người chị ta to béo phục phịch, đầy những mỡ, cái ngực thì đồ sộ, đi cứ nẩy lên chồm chồm, hai bàn tay nhũn nhẽo, ướt chượt. Mắt trông có vẻ ác, lạnh nhạt, xấu tính. Chị ta nhìn cứ như xoáy mắt vào da thịt và đầu tóc người ta, khiến người ta thấy khó chịu.

Chị hầu phòng đưa tôi vào phòng khách, bảo tôi đợi đấy để chị đi báo ông chủ. Theo chị ta nói thì ông chủ muốn gặp tôi trước khi tôi bắt tay vào công việc. Chị bảo:

- Tôi nhận chị vào làm. Nhưng ông chủ còn chưa nhìn thấy chị. Ông chủ cần phải biết chị đã, để xem ông chủ có ưng ý chị không.

Trong lúc chờ đợi, tôi ngước mắt nhìn gian phòng, thấy rất sạch sẽ ngăn nắp. Đồ đồng đồ gỗ, sàn gác, các cửa lớn nhỏ đều đánh xi bóng lộn, có thể soi gương được. Ở đây không có những bức thảm, những bức rèm thêu thùa tỉ mỉ như ở nhiều nhà ngoài Paris nhưng đồ đạc đều trang nhã, tiện nghi, hợp với khung cảnh yên tĩnh, ôn hoà nơi tỉnh nhỏ.

Giữa lúc này, ông chủ bước vào. Mới nhìn tôi đã thấy ngồ ngộ. Một ông già loắt choắt, râu ria nhẵn nhụi, trông như con búp bê. Cử chỉ nhanh nhẹn, hoạt bát. Chân đi lắp tắp như cào cào nhảy ngoài đồng cỏ. Ông chào tôi rất lễ độ và nói:

- Cô tên gì, cô bé?

- Célestine, thưa ông.

- Célistine à? Đẹp đấy. Nhưng dài quá, cô ạ. Tôi gọi tắt là Marie, được không? Cũng đẹp mà lại ngắn gọn... Tất cả hầu phòng của nhà tôi tôi đều gọi là Marie cả. Đây là một tập tục đã nhiều năm. Thà thôi không mướn, chứ không muốn gọi khác.

Các ông chủ nhà đều như thế cả. Họ không muốn gọi người hầu phòng bằng tên chính. Vì vậy tôi chẳng lấy gì làm ngạc nhiên. Các ông chủ trước đã đặt cho tôi đủ mọi thứ tên gọi các thánh ghi trên lịch.

Ông gặng lại:

- Cô đồng ý cho tôi gọi cô là Marie chứ, cô bé?

- Vâng, thưa ông.

Ông nói, giọng vui vẻ, rất lịch thiệp. Trong lúc nói, ông không nhìn mặt tôi, cũng không nhìn quần áo tôi như những người đàn ông khác. Nhưng từ lúc vào phòng, mắt ông không rời khỏi đôi giầy trên chân tôi. Rồi đột nhiên ông hỏi:

- Cô còn những cái khác không?

- Cái tên khác ấy ạ, thưa ông? - Tôi hỏi lại.

- Không. Tôi muốn hỏi những đôi giầy khác kìa, ông nói và đưa lưỡi liếm môi như kiểu mèo liếm mép.

Tôi không trả lời ngay. Tôi nghĩ chắc đôi giầy tôi đang đi có chuyện gì đấy. Chả vậy mà, dọc đường, anh đánh xe cũng đã nhạo tôi. Cuối cùng, với nét mặt không được vui và giọng nói hơi gắt, tôi trả lời:

- Có, thưa ông. Tôi còn những đôi khác nữa.

- Cũng đánh xi à?

- Cũng đánh xi, thưa ông.

- Cũng đánh rất bóng à?

- Vâng, thưa ông.

- Tốt. Bằng da màu vàng, có không?

- Giầy da vàng thì tôi không có. Nhưng sao, thưa ông?

- Cần phải có. Tôi sẽ cho cô.

- Cảm ơn ông.

- Đủ rồi! Đủ rồi! Không có gì!

Tôi thấy sợ. Mắt ông vẩn lên những nét bấn loạn và mờ đi như có làn sương che phủ. Trán ông thánh thót mồ hôi. Sợ ông ngất, tôi đã định kêu lên và gọi cấp cứu. Nhưng thấy cơn khủng hoảng của ông qua đi, giọng nói đã trở lại bình thường, khoé môi thấy có chút nước bọt.

Ông nói: "Không sao, qua rồi. Ở vào tuổi tôi là như thế. Nhưng để một phụ nữ phải đánh xi lấy giầy mình, không được. Tôi rất kính trọng phụ nữ, cô Marie ạ, tôi không muốn để như thế. Từ nay, cô để tôi đánh xi giầy cho cô. Tôi sẽ làm việc giữ gìn, bảo quản giầy dép của cô. Tối đến, trước khi đi ngủ, cô mang giầy đến phòng tôi, để cạnh giường, trên mặt bàn con. Sáng ra, khi đến mở cửa sổ phòng tôi, cô lại lấy giầy đem về".

Thấy tôi tỏ vẻ ngạc nhiên, ông nói thêm: "Tôi yêu cầu cô như thế, có gì lớn lao đâu. Một việc rất tự nhiên. Cô nghe tôi nhé...".

Rồi ông rút từ túi áo ra hai đồng tiền vàng và nói:

- Nếu cô biết vâng theo lời tôi thì thỉnh thoảng tôi lại cho cô như thế này. Tiền công của cô thì hàng tháng bà quản gia sẽ trả. Còn tôi, cô Marie ạ, thỉnh thoảng tôi có quà riêng cho cô và tôi chỉ yêu cầu cô có thế thôi. Có gì là lạ đâu!

Rồi tự nhiên ông khùng lên, chân tay vung vẩy người rung lên như lá cây rung lên trong giông bão. Ồng hỏi như quát:

- Sao không nói gì, cô Marie? Phải nói đi chứ! Sao cô đứng ngay ra vậy? Phải bước đi để tôi xem đôi giầy của cô vận động thế nào.

Rồi ông quì xuống, hôn đôi giầy của tôi, cầm lên tay run run, vuốt ve, phụng phịu như trẻ con, ông nói:

- Chao ôi! Marie, cô đưa ngay đôi giầy cho tôi, đưa ngay, đưa ngay, đưa ngay!

Tôi vô cùng ngạc nhiên. Không còn biết đây là thật hay đang mơ... Hai mắt ông lồi trố, trắng dã, đầy những tia đỏ, mồm ông nhầy nhụa nước bọt như nước xà phòng.

Rồi ông mang đôi giầy của tôi đi. Suốt hai tiếng đồng hồ ông đóng cửa ngồi trong phòng.

- Ông chủ thích cô lắm, cứ tiếp tục như thế. Chỗ làm này tốt đấy! - Bà quản gia bảo tôi.

Bốn hôm sau, như thường lệ, buổi sáng tôi đến mở cửa sổ phòng ông chủ. Tôi sợ chết ngất được, bạn ạ. Tôi thấy ông chủ chết rồi. Ông nằm duỗi thẳng cẳng trên giường, mình trần trùng trục, cơ thể cứng đơ. Trước khi chết ông không vùng vẫy. Chăn chiếu không bị xô lệch, cũng không có dấu hiệu chống chọi với cái chết, dấu hiệu hấp hối cũng không. Trông ông như người nằm ngủ, nhưng mặt ông tím bầm, trông rất sợ. Nhưng sợ hơn nữa là cảnh tượng này: Răng ông cắn chặt lấy một chiếc giầy của tôi. Tôi đã cố giằng ra mà không được. Sau cùng tôi phải lấy dao cắt đứt bỏ lại miếng da ông ngậm trong mồm.

Tôi cũng biết là trong đám đàn ông có những kẻ có hành động điên loạn, nhưng điên loạn đến như ông chủ tôi thì tôi chưa thấy bao giờ.

*

* *

Đến chỗ làm mới này chắc là sẽ không giống như thế, sẽ khác đi. Nhưng khác thế nào, tốt hơn hay xấu hơn, thì tôi cũng không biết. Qua kinh nghiệm đi làm nhiều năm thì tôi có thể khẳng định rằng cái nghề hầu phòng ít phần tốt, nhiều phần xấu.

Các bạn sẽ hỏi tôi đã biết như vậy mà sao lại cứ làm, sao không bắt chước như nhiều chị em khác đi lang bang một thời gian, rồi cố công may ra kiếm được một tấm chồng, để có cuộc sống ổn định đỡ phải sống kiếp tôi đòi.

Các bạn nghĩ như vậy cũng đúng. Tôi chẳng phải sắc nước hương giời nhưng có thể nói là hơn hẳn các chị em khác. Nhiều các bà mệnh phụ, nhiều chị ở lầu son gác tía còn phải ghen với tôi. Tôi tuy cao lớn nhưng mềm mại, óng ả, cân đối, mái tóc của tôi mướt một màu hung, đôi mắt xanh biếc khêu gợi và nghịch ngợm; cái miệng mang vẻ táo tợn, thách thức; cử chỉ độc đáo, tác phong vừa linh lợi vừa dịu dàng, rất hợp với ý thích của đàn ông. Chẳng dám tự phụ, với hình thức như vậy, tôi có nhiều ưu thế để "thành đạt" lắm chứ! Nhưng tôi đã bỏ lỡ nhiều cơ hội; có những cơ hội thật tuyệt vời, và chẳng bao giờ trở lại. Nhưng cái chính là tôi sợ, sợ không biết làm như thế tình hình sẽ ra sao, sự việc sẽ dẫn tôi đến đâu. Tôi từng biết rằng người ta sẽ nói đủ thứ lời đường mật để mua chuộc khi mình đã bị sập bẫy rồi thì mọi thứ khổ cực sẽ đến với mình, bệnh tật, ốm đau, chết chóc, cả tù đầy, xỉ nhục. Cứ nghĩ đến đã sợ chết được. Vì vậy mà tôi không dám, tôi sợ.

Còn một điều này nữa. Mặc dầu cuộc đời của tôi phóng túng thật, nhưng tôi có cái may mắn là tôi vẫn giữ được tấm lòng mộ đạo, rất thành tâm. Vì thế mà tôi không rơi xuống vực thẳm. Chà! Nếu không có đức tin, không có cầu khấn, không có Chúa trời, không có Đức Mẹ đồng trinh, thì người ta sẽ vô cùng khổ cực, cuộc đời chỉ là một chuỗi dài những đêm tối u buồn.

Còn một điều nữa nghiêm trọng hơn tất cả là tôi không biết giữ mình trước sự sàm sỡ của đàn ông. Tôi không tránh khỏi là nạn nhân của tính vô tư của tôi và lòng ham mê lạc thú của họ. Tôi là một người đa tình, khao khát yêu đương. Tôi không bao giờ cầu mong tiền bạc để đổi lấy hạnh phúc, đổi lấy những giây phút ngây ngất họ đem lại cho tôi. Khi những con quái vật ấy thủ thỉ bên tai tôi, quệt bộ râu lên gáy tôi, phả hơi nóng lên da thịt tôi, những lúc ấy tôi chỉ còn là một cục xi để bàn tay họ tha hổ nhào nặn, tôi hoàn toàn thuộc về họ, muốn làm gì tuỳ ý.

Vì vậy mà tôi không thể làm theo các chị em kia và vẫn cứ bám bíu lây cái nghề hầu phòng, và vẫn đến làm việc ở lâu đài Prieuré chẳng với ước vọng gì, đến đâu thì đến, ra sao thì ra. Tôi cứ liều nhắm mắt đưa chân... Như thế có khi lại hay... Miễn là bà chủ đừng ngày một ngày hai đuổi tôi đi, để tôi khỏi rơi vào tình cảnh thất nghiệp.

Thời gian gần đây tôi cũng bệnh nọ bệnh kia. Hiện giờ đang đau thận và đau bụng, suy nhược toàn thân đau cả dạ dày, rồi trí nhớ kém... trong người lúc nào cũng bứt rứt. Lúc nãy tôi nhìn vào gương thấy nét mặt võ vàng, nước da trước trong như ngọc, vậy mà bây giờ xám xịt như chì. Trông thấy rõ ràng là già đi, mà tôi thì chưa muốn già.

Ở Paris tôi không có điều kiện chữa, không có thì giờ. Cuộc sống ở đấy hối hả quá, nhộn nhạo quá... Lúc nào cũng đối mặt với người, với chuyện nọ chuyện kia, nhiều cám dỗ, nhiều bất ngờ. Từ sáng sớm đến tối mịt đầu óc lúc nào cũng quay cuồng như chong chóng.

Vì vậy mà tôi cứ phải ra đi... về đây yên tĩnh và thanh bình. Được thở không khí trong lành được tĩnh dưỡng, được nghỉ ngơi.

Bây giờ tôi nói về bà chủ. Lúc đầu tôi thấy bà dễ mến. Bà khen tôi ăn mặc lịch sự và tỏ ra hài lòng với những thông tin bà biết về tôi. Lúc đầu bao giờ chả thế, cái gì cũng thấy đẹp. Nhưng chỉ ngày hôm sau đã khác hẳn... Tôi thấy đôi mắt của bà lạnh, rất dữ, mắt của một người keo kiệt, lúc nào cũng nghi ngờ, cũng soi mói. Tôi không thích đôi môi của bà, nó mỏng dính, khô cong, như có một lớp vẩy trắng. Tiếng nói của bà cộc lốc, sắc lẹm, như sẵn sàng phun ra một câu chửi rủa. Khi hỏi tôi việc này, việc kia, đôi mắt bà soi mói như mắt một nhân viên hải quan. Tôi tự nhủ: Không còn nghi ngờ gì nữa. Đây nhất định là một người riết róng, đo lọ nước mắm, đếm củ dưa hành. Không khác được.

Tuy vậy, phải theo dõi, không nên vội vàng có ấn tượng. Biết đâu những nét khắc nghiệt ấy chỉ là vẻ bề ngoài. Còn bên trong lại là một người rộng rãi, nhân từ. Cứ hi vọng như thế có mất vốn mất lãi gì.

Vừa đến nơi, chưa hết bàng hoàng, sau bốn tiếng ngồi tàu hoả, bụng chưa có mẩu bánh, bà chủ đã dẫn tôi đi khắp nhà, xuống hầm, lên kho, để chỉ dẫn công việc. Nhà cửa mới rộng làm sao chứ! Ngóc ngách thật lắm chỗ. Phải ít nhất bốn người làm mới xuể. Nhà có hai tầng gác, leo lên leo xuống mỏi chân, tầng trệt lại có hai gian nối vào hai đầu. Bà chủ ngồi ở phòng khách, cạnh phòng ăn. Phòng quần áo là chỗ tôi làm việc, kề sát phòng bà. Chung quanh tường, nào tủ, nào kệ, nào giá, đủ loại, đi vào khó tìm được lối ra...

Mỗi khi đến một căn phòng, bà lại nhắc: Phải chú ý cái này, cô gái ạ. Đẹp lắm đấy... Quí hiếm lắm đấy,.. Đắt tiền lắm đấy.

Bà không gọi tôi bằng tên, trước sau chỉ mỗi câu "cô gái ạ". Đi lối này, cô gái, rẽ lối kia, cô gái, một cách gọi trịch thượng nghe phát bực. Bà luôn luôn nói: đắt lắm đấy! Cả những cái vứt đi cũng đắt lắm đấy! Bà bảo tôi cách vặn bấc một cái đèn dầu hoả giống như mọi cái đèn khác, chẳng có gì đặc biệt, vậy mà bà cũng dặn: Đèn này đắt lắm đấy, con gái ạ. Hỏng phải đem sang nước Anh mới chữa được kia đấy. Phải giữ cẩn thận như giữ con mắt mình.

Tôi những muốn trả lời bà:

- Vâng, cả cái bô đi giải của bà cũng đắt lắm và phải đem sang Luân Đôn mới chữa được.

Căn hộ của bà bề ngoài trông rất đàng hoàng. Chung quanh có cây cối xanh tốt, có núi giả, có vườn hoa, cây cảnh, chạy thoai thoải xuống bờ sông... Nhưng bên trong thật là buồn. Không biết sao người ta lại có thể sống ở đấy. Chỉ thấy toàn ổ chuột. Cầu thang gác ọp ẹp, những bậc lên xuống rung lên mỗi khi đặt chân. Hành lang thì tối om, gạch lát lổng chổng chẳng hòn nào khớp với hòn nào, hòn đỏ, hòn xanh, hòn vàng, không ra hàng lối gì cả. Rào chung quanh là những tấm ván khô cong, bước đi đến đâu rung lên đến đây. Ở tỉnh lẻ mà, sao lịch sự được như ở Paris. Phòng nào đồ đạc cũng cũ nát, thảm che tường thủng lỗ chỗ, bạc phếch, bàn ghế long mộng, lắc lư như đánh võng, ngồi chỉ muốn ngã nhào xuống đất. Tôi quen nhìn những tấm rèm màu sáng sủa, những chiếc đi-văng rộng trải mút êm, có thể duỗi thẳng chân và đặt đầu lên một chồng gối cao, chung quanh là những trang thiết bị hiện đại, đắt tiền, vui tươi. Tôi thấy căn hộ của ông bà chủ ở đây buồn lắm. Tôi sợ không biết có thích nghi với chỗ sinh sống thế này được không, thiếu tiện nghi, thiếu lịch sự, chỗ nào cũng đầy bụi là bụi.

Bà chủ ăn mặc không như người ở Paris. Xộc xệch, nhếch nhác, luộm thuộm, lạc hậu hàng chục năm so với thành phố. Trông bà chẳng gợi lên một tình cảm gì cả. Nhưng người bà cân đối, mái tóc có làn sóng tự nhiên, mướt một màu hung, nước da trắng hồng, nhưng có vẻ đau ốm gì đó. Tôi biết các bà phụ nữ có nước da như thế này, không mấy khi nhầm. Bên ngoài thì hồng, nhưng bên trong thì mỏng. Kiểu ấy là khó sống; muốn đứng vững phải nhiều thuốc men, mà cũng được lúc nào biết lúc ấy, đang ngồi ngã vật ra lúc nào không hay. Những bà như vậy trong thì giòn giã, đỏm dáng, nhưng phục vụ thì mệt lắm.

Bà luôn miệng hỏi: "Cô có biết làm cái này không?" - "Cô có biết làm cái kia không?" hay là: "Cô có cẩn thận không" "Cô có ngăn nắp không?" Chưa hết. Nhiều lúc bà còn hỏi: "Cô có sạch sẽ không? Tôi là một người rất sạch sẽ. Tôi có thể bỏ qua nhiều cái, nhưng bẩn thỉu thì không chịu được". Cũng thật là buồn cười. Bà sợ tôi không sạch sẽ, nhưng thử vào buồng toa-let của bà mà xem, bồn tắm, chậu giặt, giá vắt khăn mặt, quần áo, khai mù mịt, đứng năm phút có thể chết ngất.

Buổi tối, tôi đang xếp bàn ăn thì ông chủ đến. Ông vừa đi săn về. Ông người to lớn, hai vai rộng, bộ ria đen nhánh, nước da mờ đục, dáng đi chậm chạp, vụng về, nhưng có vẻ tốt bụng. Tất nhiên ông không phải là một kỳ tài như ông Jules Lemaitre ở phố Christophe Colomb mà tôi đã nhiều lần hầu hạ, cũng không là người thanh nhã như ông Janzé. Nhưng ông có vẻ đáng mến. Mái tóc ông cứng và quăn, cổ ông như cổ bò tót, hai bắp chân như bắp chân đô vật, môi ông thay lảy những thịt, đỏ chót và tươi, chứng tỏ một người khoẻ mạnh, vui tính. Tôi cam đoan rằng ông này là một người hiếu sắc. Cứ trông cái mũi phập phồng luôn luôn hếch lên như tìm kiếm, đôi mắt lúc nào cũng sáng rực, lẳng lơ... thì biết. Tôi chưa bao giờ gặp một người đàn ông có bộ lông mà dày và thô, hai tay đầy lông lá như ông. Giống như mọi người đàn ông kém thông minh, mình đầy bắp thịt, trông ông lúc nào cũng có vẻ rụt rè, thiếu tự tin.