Xác Chết Dưới Nước - Chương 06 - Phần 1

Chương 6
Chúng tôi đến Richmond lúc hai rưỡi, một bảo vệ kéo cổng lên cho chúng tôi vào khu vực hẻo lánh ngay sát nơi tôi vừa mới chuyển đến. Đặc trưng của vùng này ở Virginia là không có tuyết, và cây cối thì lúc nào cũng đẫm nước mưa và đóng băng suốt đêm. Nhiệt độ đang tăng dần lên.
Ngôi nhà xây bằng đá của tôi nằm cách xa phố chính trên một con dốc trông ra khúc cua đầy sỏi đá ven bờ sông James, khu đất trống được bao quanh bởi một hàng rào sắt nung để trẻ con hàng xóm không thể chui qua được. Tôi không biết bất kỳ người láng giềng nào và cũng không hề có ý định làm quen với họ.
Tôi không lường trước hết các vấn đề khi lần đầu tiên trong đời quyết định xây nhà, nhưng cho dù nó chỉ lợp ngói đen, hiên lát gạch hay sơn màu cửa chính thì cũng khiến cho tất cả những người xung quanh nhảy vào làm phiền. Đến khi các cuộc gọi tẻ ngắt của chủ thầu bắt đầu cản trở công việc của tôi trong nhà xác thì tôi đã dọa thưa kiện những nhà hàng xóm. Nhưng chưa cần phải nói gì thì cũng đã có một vài lời mời tới các bữa tiệc trong vùng.
- Cháu chắc là những hàng xóm của dì sẽ rất vui khi thấy dì ở nhà. - Cháu gái tôi nói lạnh tanh khi chúng tôi bước ra khỏi xe.
- Dì không nghĩ họ còn chú ý đến dì như thế nữa. - Tôi lục tung mọi thứ lên để tìm chìa khóa.
- Vớ vẩn! - Marino nói. - Cô là người duy nhất dành hết thời gian ở hiện trường vụ án và mổ xác người chết mà họ biết. Họ có thể nhìn qua cửa sổ trong suốt quãng thời gian cô ở nhà. Chết tiệt, bảo vệ có thể gọi cho mọi người để họ biết cô đã về chứ.
- Cảm ơn nhiều. - Tôi nói và mở khóa cửa chính. - Và chỉ khi nào tôi bắt đầu cảm thấy khá hơn khi sống ở đây.
Chuông chống trộm kêu ầm ĩ nên tôi nhanh chóng tra đúng chìa, rồi nhìn quanh theo thói quen vì căn nhà vẫn khá lạ lẫm đối với tôi. Tôi đã sợ mái nhà sẽ dột, thạch cao sẽ rụng ra hay bất kỳ thứ gì đó sẽ rơi xuống, rồi khi mọi thứ đều ổn cả, tôi thực sự thư giãn trong sự mãn nguyện. Ngôi nhà có hai tầng, rất thoáng, với cửa sổ được thiết kế rộng để thu nhận ánh sáng. Phòng khách là một bức tường bằng kính lớn nhìn xa hàng dặm ra dòng sông James, và khi chiều muộn, tôi có thể ngắm mặt trời lặn xuống những rặng cây bên bờ sông.
Kế bên phòng ngủ là căn phòng đủ lớn để tôi có thể làm việc. Đầu tiên tôi kiểm tra fax và tức thì nhận được bốn bức.
- Có gì quan trọng không vậy? - Lucy hỏi, con bé đi theo tôi trong khi Marino đang dỡ các hộp và túi đồ xuống.
- Thật ra tất cả đều là của mẹ cháu gửi cho cháu. - Tôi đưa hết cho con bé.
Nó nhăn mặt.
- Sao mẹ cháu lại gửi fax về đây chứ?
- Dì không nói với mẹ cháu là dì tạm thời sống ở Sandbridge mà.
- Không, nhưng ông bà biết dì ở đâu mà, phải không ạ?
- Tất nhiên, nhưng dì và mẹ cháu không phải lúc nào cũng thẳng thắn được với nhau. - Tôi liếc xem con bé đang đọc gì. - Ổn cả chứ?
- Mẹ cháu rất kỳ quặc. Dì biết đấy, cháu đã cài đặt modem và ổ đĩa CD trong máy tính cho bà ấy và đã chỉ cách sử đụng. Lỗi tại cháu. Giờ bà ấy lúc nào cũng gặp vấn đề. Mỗi cái fax này đều là một vấn đề với máy tính. - Con bé cáu kỉnh lật lật các trang giấy.
Tôi cũng phát cáu lên với mẹ nó, Dorothy, chị gái tôi, người chị ruột thịt duy nhất của tôi, và chị ấy cũng chả buồn gọi điện cho đứa con duy nhất để chúc mừng năm mới nữa.
- Mẹ cháu gửi hôm nay, trong kỳ nghỉ, và bà ấy vẫn đang viết thêm một cuốn sách khác bên cạnh những cuốn sách ngớ ngẩn dành cho trẻ em.
- Công bằng một chút đi nào. Sách của mẹ cháu cũng không đến nỗi ngu ngốc mà.
- Vâng, thực là khó hiểu. Cháu cũng không biết mẹ cháu thực hiện các cuộc nghiên cứu ở đâu nữa, nhưng chắc chắn không phải là nơi cháu lớn lên rồi.
- Dì ước gì cháu và mẹ không xung đột với nhau như vậy. - Lúc nào tôi cũng nói thế với Lucy. - Nhưng một ngày nào đó cháu sẽ phải giảng hòa với bà ấy. Đặc biệt là khi bà ấy qua đời.
- Dì lúc nào cũng nghĩ về cái chết.
- Bởi vì dì biết rõ về nó, và đó là mặt khác của cuộc sống. Cháu không thể tránh được nó như không thể tránh bóng đêm. Sẽ có lúc cháu phải đối mặt với Dorothy.
- Không, cháu sẽ không làm đâu. - Con bé xoay tròn chiếc ghế làm việc bằng da của tôi và ngồi xuống, mặt đối mặt. - Vô ích thôi dì ơi. Bà ấy không hiểu gì về cháu. Không bao giờ.
Điều đó có lẽ đúng thật.
- Cứ vô tư sử dụng máy tính đi. - Tôi nói.
- Cháu chỉ mất một phút thôi.
- Marino sẽ đón chúng ta khoảng bốn giờ.
- Cháu lại không biết chú ấy đã đi rồi cơ đấy.
Những chiếc chìa khóa va vào nhau leng keng khi tôi bước vào phòng ngủ và bắt đầu dỡ dần đồ đạc, giấy tờ. Tôi cần một chiếc xe và đang nghĩ tại sao lại không thuê lấy một chiếc. Tôi muốn thay quần áo nhưng cũng không biết nên mặc gì nữa. Thật khó chịu với ý nghĩ rằng Wesley vẫn luôn khiến tôi phải băn khoăn khi chọn đồ để mặc, và mỗi phút trôi qua càng khiến tôi sợ hãi khi phải đối mặt với anh.
Marino đón chúng tôi như đã hứa. Anh cũng tìm thấy một cửa hàng rửa xe vẫn còn mở cửa ở đâu đó và đã bơm đầy xăng. Chúng tôi đi về phía đông dọc theo đại lộ Monument dẫn vào khu phố Fan, nơi những biệt thự thanh tao nằm dọc theo những đại lộ cổ kính và sinh viên thì chật ních trong các ngôi nhà cổ. Đến chỗ tượng đài Robert E. Lee, anh đánh tay lái vào phố Grace, nơi Ted Eddings từng sống trong một căn hộ đôi màu trắng kiểu Tây Ban Nha với cờ hiệu ông già tuyết Santa treo ở mái hiên cửa trước. Cạnh đó có cả một chiếc xích đu nữa. Băng giấy vàng nhạt bao quanh hiện trường vụ án được kéo qua các cột giống như kiểu gói quà Giáng sinh, với dòng chữ màu đen in đậm để cảnh cáo những kẻ tò mò muốn vào bên trong.
- Trong hoàn cảnh này thì tôi không muốn sẽ chạm mặt bất kỳ ai ở bên trong cả, và tôi cũng không biết còn kẻ nào khác có chìa khóa không. - Marino vừa nói vừa mở cửa trước. - Tôi không cần các vị chủ nhà lắm chuyện vào kiểm tra những thứ đồ dùng vớ vẩn của anh ta.
Không dấu hiệu nào cho thấy sự có mặt của Wesley và tôi đã nghĩ rằng anh sẽ không xuất hiện thì ngay lập tức nghe tiếng kêu khò khè quen thuộc của chiếc BMW xám. Nó đỗ phía bên kia đường, và tôi nhìn thấy cần ăngten radio thụt xuống khi anh tắt máy.
- Bác sĩ, để tôi đứng đây chờ anh ta, cô cứ đi vào trước đi. - Marino bảo.
- Cháu muốn nói chuyện với chú ấy. - Lucy quay ra cầu thang.
- Còn tôi vào trước nhé. - Tôi nói và đeo găng vải vào tay như thể tôi chẳng quen biết gì Wesley vậy.
Tôi bước vào phòng khách của Eddings và sự hiện diện của cậu ta tức thì xuất hiện, ở mọi nơi mọi chỗ. Tôi cảm nhận được tính cách tỉ mỉ trong từng món đồ nhỏ nhất, những tấm thảm Ấn Độ và sàn nhà sáng bóng, hơi ấm của cậu còn đó trên những bức tường màu vàng rực rỡ treo những bức tranh cùng một kiểu đậm nét. Bụi bặm đã phủ một lớp dày cùng với dấu tích của cảnh sát ở khắp nơi, có thể họ đã mở hết các tủ và ngăn kéo. Thu hải đường, sung leo và hoa anh thảo dường như cũng đau buồn với sự thiếu vắng của chủ nhân. Tôi đưa mắt nhìn quanh để tìm chiếc bình tưới nước. Thấy một cái trong phòng giặt đồ, tôi đổ đầy nước và bắt đầu chăm sóc những cái cây vì nghĩ rằng chẳng có lý gì lại để chúng chết. Vì thế tôi không nghe thấy tiếng bước chân của Benton Wesley.
- Kay à? - Tiếng anh nhỏ nhẹ phía sau tôi.
Tôi quay lại và chắc anh đã cảm nhận được nỗi đau trong mắt tôi, nhưng không phải là dành cho anh.
- Em đang làm gì thế? - Anh chăm chú nhìn tôi đang tưới nước một chậu cây.
- Chính xác là những gì mà anh đang nhìn thấy.
Anh nhìn tôi yên lặng.
- Em quen cậu ta. Ted ấy. - Tôi nói. - Không thân thiết lắm, nhưng các nhân viên của em đều biết cậu này. Cậu ta đã phỏng vấn em nhiều lần và em tôn trọng... Ồ... - Tâm trí tôi bắt đầu loạn lên.
Wesley gầy đi, điều đó khiến cho các đường nét trên khuôn mặt anh dường như còn sắc hơn. Mái tóc giờ đây đã hoàn toàn bạc trắng, mặc dù anh cũng không nhiều tuổi hơn tôi bao nhiêu. Trông anh có vẻ mệt mỏi, nhưng tất cả những người tôi biết trông đều như vậy. Anh cũng không có vẻ gì là đã ly thân cả. Anh không có vẻ đau khổ khi rời xa vợ hay tôi.
- Pete đã kể cho anh về vụ mấy cái xe. - Anh nói.
- Thật không thể tin được. - Tôi vừa nói vừa tưới nước.
- Còn cái gã thám tử ấy, hắn ta tên gì nhỉ? Roche à? Anh phải nói chuyện với sếp của hắn. Bọn anh vẫn hay nhắn tin cho nhau, nhưng nếu cần nói chuyện, anh sẽ gặp trực tiếp.
- Anh không cần phải làm thế.
- Có phiền toái gì đâu.
- Anh không nói thì hơn.
- Cũng được. - Anh giơ tay kiểu đầu hàng và nhìn quanh phòng. - Cậu này cũng là người có tiền nhưng đã mất mát khá nhiều đây.
- Vẫn có người chăm sóc cây cối cho cậu ta.
- Thường xuyên không? - Anh nhìn mấy chậu cây.
- Những cây hoa chưa nở thì ít nhất mỗi tuần một lần, còn lại, những ngày khác thì còn phụ thuộc nắng chiếu vào phòng thế nào.
- Vậy những cái cây này chưa được tưới trong một tuần rồi à?
- Hoặc lâu hơn thế. - Tôi nói.
Lúc này, Lucy và Marino đã vào trong sảnh.
- Em muốn kiểm tra bếp. - Tôi đặt chiếc bình xuống.
- Ý kiến hay đấy.
Đó là một căn phòng nhỏ, có vẻ như chưa được sửa chữa gì từ những năm sáu mươi. Trong tủ bếp tôi thấy một bộ xoong nồi cũ và hàng tá thức ăn đóng hộp như cá ngừ và súp, cả đồ ăn nhanh như bánh quy xoắn. Còn đồ Eddings để trong tủ lạnh thì hầu hết là bia. Nhưng tôi rất thích một chai sâmpanh Louis Roederer Cristal được thắt nơ đỏ.
- Em tìm gì à? - Wesley nhìn xuống bồn rửa.
- Chắc thế. - Tôi vẫn chăm chú nhìn vào tủ lạnh. - Chai rượu này sẽ khiến anh mất năm trăm đô và năm mươi xu cho nhà hàng đây, cũng có thể là một trăm đô hai mươi xu nếu mua trong cửa hàng.
- Chúng ta có biết được cậu ta phải trả bao nhiêu không?
- Em không biết. Nhưng em nghĩ không còn đầy đâu.
- Cậu này cũng có rất nhiều xi đánh giày và bàn chải đây này. - Wesley nói và đứng dậy.
Tôi xoay chai rượu và đọc nhãn mác.
- Một trăm đô ba mươi xu, và không phải mua ở đây. Theo em biết thì Richmond không có cửa hàng rượu nào tên là “Người Bán Rượu” cả.
- Có thể là một món quà chăng. Nó có cả giỏ đấy còn gì.
- Thế còn D.C thì sao?
- Anh không biết. Lâu nay anh cũng không mua nhiều rượu ở D.C.
Tôi đóng cửa tủ lạnh, thầm thích thú trong lòng vì anh và tôi đã từng nhiều lần cùng nhau thưởng thức rượu. Ngày trước chúng tôi thích lựa chọn và uống rượu khi ngồi sát vào nhau trên đivăng hoặc trên giường.
- Người này không mua sắm nhiều đâu. - Tôi nói. - Em không thấy dấu vết nào chứng tỏ cậu ta từng ăn uống ở đây.
- Anh còn thấy như cậu ta thậm chí còn không vào đây nữa cơ.
Tôi cảm nhận được sự gần gũi khi anh tiến lại gần bên, và tôi hầu như không thể chịu đựng được. Mùi nước hoa cologne của anh luôn phảng phất khiến tôi liên tưởng tới mùi quế và gỗ. Bất cứ khi nào tôi ngửi thấy mùi đó ở đâu, đều phải sững lại trong thoáng giây như lúc này đây.
- Em ổn chứ? - Anh hỏi với giọng dường như không dành cho ai cả ngoài tôi.
- Không, ở đây kinh khủng quá. - Tôi đóng cửa buồng hơi mạnh.
Anh bước ra phòng ngoài.
- À, chúng ta cần phải xem xét kỹ tình hình tài chính của cậu chủ nhà này, xem cậu ta lấy tiền đâu ra để suốt ngày đi ăn nhà hàng và có chai sâmpanh đắt tiền như thế.
Các loại giấy tờ để cả trong phòng làm việc và cảnh sát chưa sờ đến chúng vì chưa chính thức có dấu hiệu phạm tội. Mặc dù tôi vẫn nghi ngờ về nguyên nhân cái chết của Eddings và những sự việc kỳ lạ xảy ra xung quanh nó, nhưng cho tới thời điểm này thì về mặt pháp lý, chúng tôi lại chưa có kẻ tình nghi nào.
- Đã có ai dùng máy tính này chưa? - Lucy nhìn chiếc máy 486 trên bàn.
- Chưa. - Marino nói khi xem xét các tài liệu trong một ngăn tủ sắt màu xanh. - Một cảnh sát bảo không vào được.
Con bé chạm vào con chuột và cửa sổ yêu cầu mật khẩu hiện ra trên màn hình.
- Được rồi. - Con bé nói. - Anh ta đặt mật khẩu, điều này không lạ. Nhưng có điều lạ là không có đĩa trong ổ dự phòng. Chú Pete, mấy người của chú có thấy cái đĩa nào trong này không?
- Có, một hộp đầy đĩa ở trên kia. - Anh chỉ lên giá sách đầy kín sách lịch sử về cuộc nội chiến và một bộ bách khoa toàn thư được bọc da rất công phu.
Lucy lấy chiếc hộp xuống và mở ra.
- Không. Đây là các đĩa chương trình WordPerfect. - Con bé nhìn chúng tôi. - Ý cháu là hầu hết mọi người đều phải có một bản dự phòng các tài liệu của họ, giả thiết là nếu anh ta vẫn làm việc tại nhà.
Không ai biết cậu ta làm việc ở đâu. Chúng tôi chỉ biết rằng Eddings làm cho văn phòng Hội Báo chí ở trung tâm thành phố, trên khu phố Fourth. Chúng tôi cũng không có lý do gì để tìm hiểu xem anh ta làm gì ở nhà, cho tới khi Lucy khởi động lại máy tính, thực hiện các thao tác như ảo thuật và bằng cách nào đó đã vào được phần cài đặt chương trình. Lucy vô hiệu hóa màn hình chờ, rồi bắt đầu tìm các thư mục trong WordPerfect, tất cả đều trống rỗng. Eddings không có một tài liệu nào cả.
- Chết tiệt. - Con bé nói. - Điều này thực sự vô lý trừ phi anh ta chưa bao giờ sử dụng chiếc máy tính này.
- Dì không nghĩ thế đâu, ngay cả khi cậu ta làm việc ở trung tâm thì phòng làm việc ở nhà cũng phải được dùng để làm gì đó chứ.
Con bé gõ thêm chút nữa, trong khi Marino và Wesley xem xét các ghi chép tài chính mà Eddings đã xếp gọn gàng trong chiếc giỏ ở một ngăn kéo tủ có đề tên trên đó.
- Cháu chỉ hy vọng anh ta không xóa sạch cả thư mục phụ. - Lucy nói và lần mò trong hệ thống điều hành. - Cháu không thể khôi phục lại các dữ liệu nếu như không có bản dự phòng. Mà cái này thì có vẻ như anh ta chẳng có.
Tôi thấy con bé gõ chữ undelete*.* và ấn phím enter. Kỳ diệu thay, một dữ liệu có tên killdrug.old hiện ra, và sau khi ra lệnh giữ lại, một tên khác lại hiện ra. Sau khi kết thúc thì đã khôi phục được hai mươi sáu dữ liệu. Chúng tôi nhìn nhau kinh ngạc.
- Đó là sự tuyệt vời của hệ điều hành DOS 6. - Con bé thản nhiên nói và bắt đầu in.
- Cháu có thể biết những dữ liệu này bị xóa khi nào không? - Wesley hỏi.
- Thời gian và ngày trên các dữ liệu đều giống nhau. Khỉ thật. Ngày 31 tháng Mười hai, trong khoảng từ một giờ một phút đến một giờ ba lăm phút sáng. Hẳn là dì sẽ nghĩ anh ta chết ngay sau đó.
- Điều đó phụ thuộc vào việc cậu ta đến Chesapeake khi nào. - Tôi nói. - Xuồng của cậu ta đâu có bị phát hiện cho tới tận sáu giờ sáng.
- Thêm nữa, đồng hồ trên máy tính chạy đúng. Vì vậy quãng thời gian đó chắc là đúng. - Lucy nói thêm.
- Liệu có mất tới hơn nửa tiếng để xóa các dữ liệu đó đi không? - Tôi hỏi.
- Không, chỉ mất vài phút thôi.
- Vậy có thể ai đó đã truy cập vào máy tính và xóa hết đi. - Tôi phỏng đoán.
- Đây là chuyện phổ biến mà. Chúng ta cần thêm giấy in. Chờ chút, cháu sẽ lấy thêm ít giấy ở máy fax.
- Vậy thì chúng ta có thể lấy được các báo cáo hàng ngày không? - Tôi hỏi.
- Được chứ.
Con bé in ra một danh sách những phân tích fax vô nghĩa và các số điện thoại mà tôi có ý định sẽ kiểm tra sau. Nhưng ít nhất chúng tôi cũng biết chắc chắn trong khoảng thời gian Eddings chết, có kẻ nào đó đã dùng máy tính của cậu ta và xóa đi tất cả các dữ liệu. Cho dù ai chịu trách nhiệm làm việc này thì cũng không phải là kẻ tinh vi lắm, Lucy tiếp tục giải thích, vì nếu là một chuyên gia về máy tính thì thế nào cũng sẽ cho các dữ liệu vào thư mục phụ, khiến lệnh khôi phục dữ liệu trở nên vô dụng.
- Điều đó cũng không có nghĩa gì cả. Một nhà báo luôn có tác phong sao lưu bản dự phòng tài liệu. Trong chuyện này thì cậu ta chỉ bất cẩn thôi. Thế còn két sắt thì sao? - Tôi hỏi Marino. - Anh có tìm thấy cái đĩa nào trong két không?
- Chẳng có gì hết.
- Như vậy thì không phải có kẻ đã đột nhập vào nhà đâu. - Tôi nói.
- Nếu bọn chúng vào được thì đã phải biết kết hợp khóa an toàn và mã khóa của hệ thống chuông chống trộm.
- Mã khóa có giống nhau không?
- Có, cậu ta sử dụng ngày sinh trong tất cả mã.
- Sao anh biết điều đó?
- Mẹ anh ta bảo thế.
- Còn chìa khóa thì sao? - Tôi hỏi. - Không ai đi bộ được cả. Anh ta chắc phải có chìa để lái xe chứ.
- Roche bảo không có. - Marino nói, và tôi cảm thấy điều này thật kỳ lạ.
Wesley đang xem mấy trang dữ liệu khôi phục vừa in ra.
- Những cái này trông như mấy bài báo ấy. - Anh nói.
- Bài đã in chưa? - Tôi hỏi.
- Chắc một vài bài thì in rồi, tin cũ lắm. Ví dụ máy bay đâm vào Nhà Trắng và vụ tự tử của Vince Foster.
- Cũng có thể là Eddings vừa dọn dẹp lại máy tính. - Lucy nhận định.
- Ồ, đây rồi. - Marino đang xem lại một bản báo cáo tài chính của ngân hàng. - Vào ngày 10 tháng Mười hai, có ba triệu đô la được chuyển vào tài khoản của cậu ta. - Anh mở một phong bì khác và xem kỹ hơn. - Tương tự như vậy vào tháng Mười một.