Xác Chết Dưới Nước - Chương 14 - Phần 2
Khoảng mười giờ sáng, chúng tôi tiếp tục đi từ South Audley đến đại sứ quán Mỹ ở khu vực quảng trường Grosvenor. Đó là một tòa nhà bằng đá granite xây theo kiến trúc của những năm 50, được bảo vệ bởi một con chim ưng bằng đồng tạc trên mái nhà. An ninh thắt chặt, bảo vệ ở khắp mọi nơi. Chúng tôi trình hộ chiếu, thư giới thiệu rồi bị chụp ảnh. Cuối cùng được hộ tống lên tầng hai để gặp tùy viên hợp pháp cao cấp của FBI tại Anh. Đứng từ căn phòng đúng góc tòa nhà của Chuck Olson có thể nhìn thấy một dãy dài những người đang đợi lấy Visa và thẻ xanh. Ông tùy viên dáng người chắc nịch trong bộ com lê tối màu và mái tóc cắt tỉa gọn gàng cũng bạc trắng như của Wesley.
- Rất hân hạnh. - Ông ta bắt tay chúng tôi. - Xin mời ngồi. Có vị nào muốn uống cà phê không?
Tôi và Wesley chọn chỗ ngồi trên chiếc đivăng cạnh chiếc bàn gọn ghẽ chỉ vài tập tài liệu. Chiếc bảng trên đầu Olson có vài hình vẽ mà tôi đoán là tác phẩm của con ông ta, trên nữa thì treo huy hiệu của Bộ Tư pháp. Nhìn thêm những giá sách và giấy khen các loại thì có thể thấy rằng chủ nhân của căn phòng giản dị này là một người bận rộn.
- Chuck! - Wesley bắt đầu. - Tôi chắc rằng anh đã biết tiến sĩ Scarpetta là bác sĩ tư vấn pháp y của chúng tôi, và mặc dù chị ấy đang có rất nhiều việc cần giải quyết ở Virginia, nhưng vẫn phải đến đây.
- Lạy Chúa tôi. - Olson chỉ thốt lên được có thế, vì nếu như có một thảm họa hạt nhân ở Anh hay một quốc gia nào đó ở châu Âu, thì việc tôi được điều đến đây không gì khác ngoài xử lý các tử thi.
- Vì thế liệu anh có thể đưa ra một bức tranh toàn cảnh để chúng tôi hình dung được không. - Wesley nói.
- Ồ, rất dễ hiểu. - Olson nói. - Khoảng một phần ba lưới điện ở Anh quốc là từ các nhà máy hạt nhân. Chúng tôi cũng đang lo lắng về một vụ khủng bố tương tự và chưa biết rằng liệu đã có nhà máy nào bị chính những tên khủng bố này lên kế hoạch hay chưa.
- Nhưng nhóm Tân Phục Quốc Do Thái có nguồn gốc từ Virginia. - Tôi nói. - Anh đang nói rằng bọn chúng có mạng lưới quốc tế chăng?
- Bọn chúng không phải là lực lượng chỉ đạo trong vụ này. - Ông ta nói. - Bọn chúng không phải là những người muốn có plutoni.
- Vậy thì là ai? - Tôi hỏi.
- Phía Libya.
- Tôi nghĩ thế giới đã biết điều này rồi. - Tôi đáp lời.
- Ồ, giờ thì chuyện đó đã xảy ra rồi. - Wesley nói. - Và nó đang xảy ra ở Old Point đấy thôi.
- Như quý vị đã biết, - Olson tiếp tục, - Qaddafi đã muốn có vũ khí hạt nhân từ lâu rồi nhưng mọi nỗ lực đều bị cản trở. Nhưng có vẻ như hắn đã tìm ra cách. Hắn đã tìm ra nhóm Tân Phục Quốc Do Thái ở Virginia, và chắc chắn ở đây hắn cũng cấu kết với những nhóm cực đoan như thế. Có rất nhiều người Ả rập ở đây.
- Làm thế nào mà anh biết chính xác là Libya? - Tôi hỏi.
Lần này thì Wesley đáp lời:
- Lý do là vì chúng tôi đã xem rất nhiều bản ghi các cuộc đàm thoại của Joel Hand mà chủ yếu là đến từ Tripoli và Benghazi trong vòng hai năm qua.
- Nhưng anh lại không biết được rằng Qaddafi đang nỗ lực làm gì ở London này.
- Những gì chúng ta sợ chính là chúng sẽ tấn công ta ở điểm nào. London chính là điểm xuất phát của cả châu Âu, Hoa Kỳ và Trung Đông. Đây là một trung tâm tài chính khổng lồ. Cái việc Libya ăn trộm lửa từ nước Mỹ không có nghĩa nước Mỹ là mục tiêu chủ đạo của chúng.
- Lửa ư? - Tôi hỏi.
- Giống như trong chuyện thần thoại về thần Prometheus ấy mà. Lửa là mật mã để chúng tôi ám chỉ plutoni.
- Tôi hiểu rồi. - Tôi nói. - Những gì mà ông nói kinh khủng quá. Hãy cho tôi biết tôi cần phải làm gì.
- Chúng ta cần phải tìm ra đầu não của vụ này, cả mục đích của những sự việc đang diễn ra và những chuyện có thể xảy ra sau đó. - Olson nói. - Chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa trong việc tìm hiểu tâm lý bọn khủng bố, và điều này rõ ràng là nhiệm vụ của Wesley. Nhiệm vụ của chị là lấy thông tin. Tôi biết chị có một đồng nghiệp rất quan trọng ở đây.
- Chúng tôi chỉ dám hy vọng thôi. - Tôi nói. - Nhưng tôi cũng đang định liên lạc với ông ta.
- Thế còn về vấn đề an ninh thì sao? - Wesley hỏi. - Chúng ta có cần phải cho người đi cùng cô ấy không?
Olson nhìn tôi một cách kỳ quặc như thể đang đánh giá sức mạnh của tôi, như thể tôi không phải là tôi mà là một vật thể hay một võ sĩ chuẩn bị bước vào cuộc thi đấu.
- Không! - Ông ta nói. - Tôi nghĩ ở đây cô ấy sẽ tuyệt đối an toàn, trừ phi anh biết trước chuyện gì đó.
- Tôi không chắc đâu. - Wesley cũng nhìn sang tôi. - Có lẽ chúng ta nên cử ai đó đi với cô ấy.
- Hoàn toàn không cần thiết. Không ai biết tôi đang ở London cả. - Tôi nói. - Mà tiến sĩ Mant thì miễn cưỡng gặp chúng ta, nếu không muốn nói là sợ chết, vì thế anh ta tất nhiên sẽ không cởi mở nếu thấy có ai đó đi cùng với tôi. Khi đó mục đích của chuyến đi này sẽ thất bại.
- Được. - Wesley miễn cưỡng nói. - Miễn là chúng tôi biết rõ em đang ở đâu, và chúng ta cần gặp nhau ở đây tối thiểu là bốn tiếng trước khi lên máy bay.
- Tôi sẽ gọi cho các anh nếu như tôi gặp rắc rối. - Tôi nói. - Các anh vẫn ở đây chứ?
- Nếu chúng tôi không có mặt ở đây thì thư ký của tôi sẽ báo cho cô biết chúng tôi đang ở đâu.
Tôi đi xuống sảnh chỗ có đài phun nước và bức tượng đồng của Lincoln nổi bật bên bức tượng sắp hàng chân dung các tổng thống Mỹ tiền nhiệm. Những người chịu trách nhiệm an ninh kiểm tra hộ chiếu của những vị khách đến thăm một cách sát sao. Họ để tôi đi qua với bộ mặt giám sát lạnh lẽo khiến tôi cảm thấy ánh mắt của họ theo ra đến tận cửa. Trong không khí ẩm lạnh của buổi sáng, tôi gọi một chiếc taxi và đưa cho người tài xế địa chỉ nằm không quá xa quảng trường Eaton, mạn Belgravia.
Bà cụ Mant sống ở khu Ebury Mews, trong một tòa nhà ba tầng được chia thành các căn hộ nhỏ. Tòa nhà xây bằng xi măng với ống khói màu đỏ chọc thẳng trên tấm lợp mái nhà nhiều màu. Những ô cửa sổ trồng đầy hoa thủy tiên, nghệ tây và trường xuân.
Tôi theo cầu thang lên tầng hai và gõ cửa. Tiếng trả lời bên trong không phải là của phó phòng giám định pháp y. Người đàn bà dáng vẻ đoan trang nhìn tôi bối rối không kém.
- Xin lỗi. - Tôi lên tiếng. - Hình như căn hộ này đã được sang tên rồi.
- Không, xin lỗi, nhà này không bán. - Bà ta nói chắc chắn.
- Tôi đang tìm Philip Mant. Chắc là tôi nhầm...
- À, Philip là em trai tôi. - Bà ta cười dễ chịu. - Cậu ấy vừa đi làm. Chị đến không đúng lúc rồi.
- Đi làm?
- Ồ phải. Cậu ấy luôn đi làm vào khoảng giờ này để tránh kẹt xe mà. Nhưng tôi không nghĩ là tránh được. - Rồi bà ta ngần ngại khi đột nhiên nhận ra người lạ trước mặt. - Tôi có thể bảo với cậu ấy là ai đến được không?
- Bác sĩ Kay Scarpetta. Tôi cần gặp anh ấy có việc gấp.
- Tại sao lại không chứ. - Người đàn bà vừa có vẻ hài lòng vừa ngạc nhiên. - Tôi đã nghe cậu ấy kể nhiều về chị. Em tôi rất quý chị và chắc chắn cậu ấy sẽ rất vui khi nghe tin chị đến. Cơn gió nào mang chị đến London thế này?
- Tôi không bao giờ bỏ lỡ cơ hội được ghé thăm nơi này. Không biết làm thế nào để tìm anh ấy bây giờ nhỉ?
- À thế này, chị đến nhà xác công cộng Wesminster ở đường Horseferry nhé.
- Vâng, tôi sẽ rất vui được gặp anh ấy.
Tôi không chắc mình đang nói gì nhưng người đàn bà có vẻ hài lòng.
- Đừng báo trước cho anh ấy là tôi đến nhé. - Tôi tiếp tục. - Tôi muốn gây sự bất ngờ.
- Ừ, hay lắm. Chắc chắn cậu ấy sẽ rất bất ngờ.
Tôi gọi một chiếc taxi và cứ nghĩ mãi về việc có nên tin vào chuyện này được không. Cho dù lý do của Mant là gì đi chăng nữa thì tôi không thể không cảm thấy băn khoăn đôi chút.
- Chị đến tòa án Coroner ạ? - Người lái xe hỏi tôi. - Đây rồi này. - Anh ta chỉ một tòa nhà bằng gạch khá đẹp.
- Không, tôi đến nhà xác.
- Thì cũng đến rồi đây. Chị nên đi bộ vào trong chứ đừng bắt xe chở vào nữa. - Anh ta cất giọng cười khàn khàn.
Tôi rút tiền ra trả trong lúc anh ta đỗ xe trước một tòa nhà nhỏ nhắn theo tiêu chuẩn của London.
Tòa nhà xây bằng gạch và đá granite với một bức tường chân mái lạ mắt chạy dọc xung quanh. Dãy hàng rào bao bằng sắt được sơn màu đồng và chạm trổ cầu kỳ. Căn cứ theo ngày tháng ghi trên tấm biển ngoài cửa thì nhà xác này đã hơn trăm tuổi, và tôi thoáng nghĩ đến việc tiến hành giám định pháp y hồi đó kinh khủng đến thế nào. Sẽ có vài nhân chứng kể chuyện và tôi băn khoăn liệu thời đó người ta có nói dối ít hơn không.
Bộ phận lễ tân ở nhà xác nhỏ hẹp nhưng được sắp xếp một cách khoa học và đẹp mắt giống như bất cứ tiền sảnh nào của một doanh nghiệp bình thường.
Cánh cửa mở dẫn tới một hành lang, và vì không thấy ai nên tôi cứ tiến thẳng, đúng lúc đó thì một phụ nữ từ trong phòng đi ra, hai tay ôm một đống sách to.
- Xin lỗi. - Cô ta hơi giật mình. - Chị không được phép vào trong.
- Tôi đang tìm bác sĩ Mant.
Cô gái mặc một chiếc váy dài và áo len bó, giọng nói như người Scotland.
- Liệu tôi có thể nói với ông ấy là ai đang chờ được không? - Cô ta hỏi lịch sự.
Tôi chìa thẻ ra.
- Ồ, tôi biết rồi. Ông ấy đang mong chị đấy.
- Tôi không nghĩ thế đâu. - Tôi nói.
- Vậy ư? - Cô gái chuyển những quyển sách sang tay kia và trông có vẻ bối rối.
- Anh ấy là đồng sự của tôi ở bên Mỹ. - Tôi nói - Tôi đang muốn gây một bất ngờ nho nhỏ, vì thế liệu tôi có thể tự đi tìm anh ấy được không?
- Vâng ạ, chị vào phòng nhiễm độc nhé. Chị cứ đi theo lối này và sẽ thấy khu để đồ ngay bên trái phòng chứa xác. Mọi thứ chị cần đều ở đó, sau đó, rẽ trái lần nữa đi qua mấy cánh cửa nữa là đến. Đã rõ chưa ạ? - Cô gái mỉm cười.
- Cảm ơn.
Tôi tìm đến phòng để đồ và bắt đầu xỏ giày, đeo găng tay, khẩu trang và mặc áo choàng để tránh bắt mùi vào quần áo. Tôi đi ngang qua căn phòng lát đá hoa có sáu chiếc bàn làm bằng thép không gỉ và những chiếc tủ đông lạnh trắng lóa. Các bác sĩ mặc áo xanh có vẻ như sẽ bận rộn suốt cả buổi sáng ở nhà xác Westminster này. Tất cả ngước nhìn tôi khi thấy có người đi qua. Cuối cùng tôi cũng thấy người phó của mình trong đôi ủng cao su cao cổ, đang đứng trên bục để phẫu thuật một thi thể đã bị phân hủy trầm trọng mà tôi đoán là ở dưới nước đã lâu. Mùi hôi thật kinh khủng.
- Bác sĩ Mant. - Tôi gọi.
Anh quay lại và cảm giác như không biết tôi là ai hay là anh đang ở đâu nữa. Trông anh có vẻ như sốc nặng.
- Bác sĩ Scarpetta? Lạy Chúa tôi, sao lại có chuyện này chứ? - Anh nặng nề bước xuống bục, bởi lẽ thân hình cũng không nhỏ nhắn gì. - Tôi bất ngờ quá. Tôi không biết phải nói gì nữa. - Anh lắp bắp, và đôi mắt thì ánh lên nỗi sợ hãi.
- Tôi cũng bất ngờ. - Tôi đáp bằng giọng chẳng vui vẻ gì.
- Tôi tưởng tượng được chị bất ngờ thế nào rồi. Đi thôi. Không nên đứng đây nói chuyện với cái xác chết trôi đáng sợ này. Thi thể này được tìm thấy trên sông Thames chiều hôm qua. Có vẻ như anh ta đã bị đâm trước đó nhưng chúng tôi vẫn chưa tìm thấy danh tính của nạn nhân. Chúng ta nên đi ra sảnh thôi. - Anh có vẻ căng thẳng.
Philip Mant là một quý ông đứng tuổi lịch lãm với mái tóc trắng dày, lông mày rậm trên đôi mắt xám tinh anh và người ta không thể không yêu quý anh. Anh dẫn tôi ra khu phòng tắm để khử trùng bàn chân, tháo bỏ găng tay, khẩu trang và ném vào thùng rác. Sau đó chúng tôi đi lên sảnh, chỗ cửa hậu nhìn ra bãi đỗ xe. Cũng như mọi thứ khác ở London, màu xám đơn điệu trong căn phòng này cũng có lịch sử lâu đời của nó.
- Chị có muốn uống chút gì đó không? - Anh ta hỏi khi rút bao thuốc lá Players ra. - Tôi biết chị không hút thuốc nữa nên sẽ không mời đâu.
- Tôi không cần gì cả trừ một vài câu trả lời của anh.
Bàn tay anh hơi run lên khi đánh que diêm.
- Bác sĩ Mant, nhân danh Chúa, anh ở đây làm gì thế? - Tôi bắt đầu. - Anh về London chỉ vì gia đình anh có người mất thôi chứ.
- Đúng thế, một sự trùng hợp ngẫu nhiên.
- Sự trùng hợp ngẫu nhiên? Ý anh là gì thế?
- Bác sĩ Scarpetta, tôi đang định đi thì mẹ tôi đột ngột qua đời và điều này khiến tôi dễ lựa chọn hơn.
- Thế nghĩa là anh không có ý định quay trở lại. - Tôi hỏi, tự nhiên thấy lòng day dứt.
- Tôi rất xin lỗi, nhưng không, tôi không quay lại đâu. - Anh gẩy tàn thuốc.
- Ít ra thì anh cũng phải nói với tôi để tôi đi tìm người thay thế chứ. Tôi đã cố liên lạc với anh mấy lần.
- Tôi không nói với chị và không gọi bởi vì tôi không muốn chúng biết.
- Chúng? - Câu hỏi của tôi như treo trong không gian. - Chính xác thì anh đang nhắc đến ai, bác sĩ Mant?
Anh có vẻ rất căng thẳng khi hút thuốc, chân bắt chéo, và bụng phập phồng lồi lên cả thắt lưng.
- Tôi không biết chúng là ai, nhưng tất nhiên chúng biết chúng ta là ai. Điều đó khiến tôi lo sợ. Tôi có thể nói chính xác chuyện này bắt đầu từ khi nào. Hôm đó là ngày 13 tháng Mười, không biết chị có nhớ vụ này hay không.
Tôi không hiểu anh đang nói gì nữa.
- Bên Hải quân đã làm giám định pháp y vì có một xác chết ở bãi tàu Norfolk.
- Có phải cái người đã vô tình đâm vào bãi tàu cạn không? - Tôi mơ hồ nhớ lại.
- Chính đấy.
- Anh nói đúng. Đó là vụ bên Hải quân làm, không phải chúng ta. - Tôi bắt đầu đoán xem anh định nói những gì. - Nói cho tôi biết chúng ta liên quan gì đến vụ đó?
- Chị thấy đấy, đội cứu hộ đã nhầm lẫn. - Anh tiếp tục. - Thay vì vận chuyển xác chết đến bệnh viện Hải quân Portsmouth thì họ lại mang đến phòng của tôi và thằng nhóc Danny không biết điều đó. Nó cứ thế lấy máu, làm xét nghiệm, rồi ghi chép đủ thứ và trong quá trình làm việc đã phát hiện ra một thứ rất bất thường trong số những vật dụng cá nhân của người đã chết.
Tôi nhận ra rằng Mant vẫn chưa biết chuyện về Danny.
- Nạn nhân mang theo một chiếc túi vải. - Anh tiếp tục - Và đội cứu hộ đặt luôn nó lên thi thể rồi bọc tất cả lại bằng một tấm vải. Trông rất tệ, và tôi nghĩ rằng nếu không có điều đó thì chúng ta đã không có đầu mối.
- Đầu mối về cái gì?
- Cái anh chàng đã chết đó có một cuốn giáo lý tà ác mà sau tôi tìm hiểu thì thấy nó liên quan đến một giáo phái. Đó là hội Tân Phục Quốc Do Thái. Điều kinh khủng là quyển sách đó miêu tả chi tiết những vụ tra tấn, giết người vô cùng rùng rợn. Đối với tôi thì đó là một sự khủng bố tinh thần đáng sợ.
- Có phải nó có tên là Cuốn giáo lý của Hand không? - Tôi hỏi.
- Đúng thế. - Anh nhướng mắt.
- Nó được bọc da đen?
- Tôi nhớ là như vậy. Và cái tên in trên cuốn sách cũng kỳ quặc đến nỗi tôi biết chắc không phải là tên của người đã chết. Shapiro thì phải.
- Dwain Shapiro.
- Đúng rồi, thì ra chị cũng đã biết về chuyện này.
- Tôi biết về cuốn giáo lý nhưng không biết tại sao cái người đó lại có cuốn sách ấy. Bởi vì tất nhiên tên anh ta không phải là Dwain Shapiro.
Anh ngừng lại, xoa mặt.
- Tôi nghĩ tên anh ta là Catlett.
- Chắc hắn ta là kẻ đã giết Dwain Shapiro. - Tôi nói. - Đó là lý do tại sao hắn lại có cuốn giáo lý.
Mant tỏ vẻ không hiểu.
- Khi tôi nhận ra có một sự nhầm lẫn ở đây, tôi đã bảo Danny chuyển tử thi đến Porthsmouth. Và tất nhiên toàn bộ các vật dụng cá nhân của con người tội nghiệp đó cũng được chuyển đi cùng anh ta.
- Nhưng Danny vẫn giữ quyển sách. - Tôi nói.
- Tôi e là vậy. - Anh nhoài lên trước để gẩy tàn thuốc vào chiếc gạt tàn trên bàn uống nước.
- Tại sao cậu ta lại làm vậy nhỉ?
- Tôi tình cờ bước vào phòng của nó, phát hiện ra cuốn sách mới vặn hỏi. Nó giải thích rằng vì cuốn sách có tên khác ở trên bìa nên chưa chắc đã phải là một phần của hiện trường. Có lẽ cái cặp là của người khác. - Anh ngừng lại - Chị thấy đấy, cậu ta là nhân viên mới vào và tôi chỉ nghĩ đơn giản đây là lỗi nhỏ thôi.
- Anh có thấy tay nhà báo nào gọi điện hoặc quanh quẩn ở văn phòng trong thời gian đó không? Hay có người nào đó hỏi thăm về nạn nhân đã chết ở bãi tàu chẳng hạn?
- Có đấy, một ông Eddings xuất hiện. Tôi nhớ rất rõ bởi vì anh ta rất quan tâm đến việc tìm ra mọi chi tiết, chính điều này làm tôi hơi bối rối. Vì theo như tôi biết, sau đó anh ta lại chẳng viết gì về chuyện đấy cả.
- Liệu Danny có tiết lộ điều gì với Eddings không?
Mant có vẻ đăm chiêu.
- Tôi đã nhìn thấy hai người nói chuyện với nhau. Nhưng cậu Danny trẻ tuổi chắc chắn hiểu rằng tốt hơn hết là không đưa ra bất kỳ một lời bình luận nào.
- Biết đâu cậu ta lại chẳng đã đưa cho Eddings quyển sách vì nghĩ rằng Eddings đang viết về những người Tân Phục Quốc Do Thái?
- Thực sự là tôi không biết. Tôi chưa nhìn thấy cuốn sách thêm một lần nào nữa và nghĩ rằng Danny đã trả nó về cho phía Hải quân. Tự nhiên tôi lại nhớ cậu bé này. Nhân tiện thì cậu ta bây giờ thế nào? Cái đầu gối của nó khá hơn chưa? Tôi vẫn gọi nó là Thằng Lò Cò đấy. - Anh cười.
Nhưng tôi không trả lời câu hỏi hay thậm chí là mỉm cười.
- Nói xem chuyện gì xảy ra sau đó nào? Điều gì đã làm anh sợ?
- Toàn những chuyện kỳ quặc. Vô cùng mệt mỏi. Tôi cảm thấy mình bị theo dõi. Rồi cô giám sát phòng của tôi ấy, chị có nhớ không, đột ngột bỏ việc mà không một lời giải thích. Và một hôm khi tôi đi ra bãi đậu xe thì thấy có máu dính đầy trên cửa kính ô tô. Tôi đã mang đi xét nghiệm và thấy đó là máu của lò mổ, kiểu máu bò ấy.
- Tôi đoán là anh đã gặp thám tử Roche? - Tôi hỏi.
- Không may là tôi chẳng thích thằng cha đó chút nào.
- Hắn có khai thác thông tin từ anh không?
- Hắn ghé qua, tất nhiên không phải vì chuyện giám định pháp y. Hắn chẳng có bụng dạ nào cho những chuyện đó đâu.
- Thế hắn muốn biết điều gì?
- Ồ, về cái xác chết mà nãy giờ chúng ta đang nói đến ấy. Hắn ta cứ hỏi về điều đó.
- Thế hắn có hỏi về những vật dụng cá nhân của nạn nhân không? Về cái túi vải đã vô tình đi theo cái xác đến phòng giải phẫu ấy?
Mant cố nhớ lại.
- Giờ chị hỏi tôi mới nhớ ra, đúng là hắn có hỏi về cái túi vải và tôi đã giới thiệu Danny cho hắn, tôi nhớ là như vậy.
- Chắc chắn Danny không bao giờ đưa nó cho hắn ta rồi. - Tôi nói. - Hoặc chí ít thì cũng không đưa quyển sách, bởi vì sau đó cuốn sách vẫn xuất hiện.
Tôi không nói với anh cuốn sách đã xuất hiện như thế nào vì không muốn làm anh buồn.
- Cái cuốn giáo lý đẫm máu ấy chắc là phải cực kỳ quan trọng đối với kẻ nào đó. - Anh trầm ngâm.
Tôi dừng lại khi anh châm thêm điếu thuốc nữa, sau đó mới nói:
- Tại sao anh không kể cho tôi chuyện này? Tại sao anh chỉ biết trốn chạy mà không nói một lời?
- Nói thực là tôi không muốn chị bị lôi kéo vào vụ này. Hơn nữa chuyện đó nghe có vẻ hoang đường. - Anh ngừng lại và qua nét mặt anh thì tôi có thể khẳng định rằng anh đã đoán biết được về những sự việc tồi tệ đã xảy ra kể từ khi anh ta rời khỏi Virginia. - Bác sĩ Scarpetta, tôi không còn trẻ nữa. Tôi chỉ muốn làm công việc của mình một cách yên bình lâu hơn chút nữa trước khi nghỉ hưu.
Tôi không muốn trách cứ anh thêm nữa, bởi vì tôi hiểu những việc anh đã làm. Thẳng thắn mà nói thì tôi không thể trách anh mà nên vui mừng vì anh đã ra đi mới phải, vì chỉ như thế anh mới bảo vệ được mạng sống của mình. Nực cười thay là anh lại chẳng nắm được thông tin gì quan trọng cả, và nếu như anh bị giết thì đó sẽ là một cái chết vô lý giống như Danny vậy.
Sau đó tôi mới kể sự thật. Hình ảnh chiếc đệm bọc đầu gối đỏ bầm như máu, và lá cây, rác rưởi bám đầy trên mái tóc đẫm máu vụt quay trở lại. Tôi nhớ nụ cười sáng bừng của Danny và sẽ không bao giờ có thể quên chiếc túi giấy nhỏ màu trắng cậu mang ra khỏi quán cà phê, nơi có con chó sủa đến tận nửa đêm. Trong trí nhớ của mình, tôi sẽ luôn nhìn thấy ánh mắt buồn bã và sợ hãi khi cậu giúp tôi phẫu thuật thi thể của Ted Eddings, người mà bây giờ tôi mới nhận ra là cậu đã quen biết từ trước. Hai con người rất trẻ này đã vô tình cùng đưa nhau đến cái chết thảm.
- Lạy Chúa. Thằng bé tội nghiệp. - Mant chỉ nói được có vậy.
Anh lấy chiếc khăn tay chậm lên mắt, và khi tôi đã đi rồi, anh vẫn còn khóc.