Sáng, Trưa, Đêm - Chương 01 - 02

Chương 1 - Sáng

Dmitri hỏi:

- Ông có biết chúng ta đang bị bám đuôi không, ông Stanford?

- Biết. - Ông phát hiện ra họ đã hai mươi tư giờ nay.

Hai gã đàn ông và người đàn bà đó ăn bận xoàng xĩnh, cố trà trộn vào đám du khách mùa hạ đang đi vãn cảnh trên những con phố rải cuội vào lúc sáng sớm, song ở đâu chứ trong cái làng nhỏ xíu của xứ St. Paul de Vence nầy thì giữ cho mình khỏi bị tình nghi quả không phải là dễ.

Lần đầu tiên Harry Stanford nhận ra họ bởi họ ăn bận xoàng xĩnh quá, cố gắng quá mới không nhìn vào ông. Bất cứ ông quay về hướng nào cũng thấy một trong ba người đó vật vờ trước mặt.

Bám theo một mục tiêu như Harry Stanford thì có gì là khó. Ông cao một mét chín mươi, mái tóc bạch kim đổ xuôi xuống cổ áo và một gương mặt với những đường nét cao sang quí phái gần như là đế vương. Cùng đi với ông là một cô gái trẻ và đẹp đến choáng ngợp, một con chó chăn cừu giống Đức trắng tuyền, và Dmitri Kaminsky, gã vệ sĩ cao hơn hai mét với cái cổ bò mộng và cái trán gồ. Chúng ta thì lẫn vào đâu cho được, Stanford nghĩ bụng.

Ông biết ai là kẻ đã phái họ theo dõi ông, biết cả lý do của nó nữa. Và ông cũng linh cảm được một nỗi nguy hiểm đang sắp sửa xẩy đến. Từ lâu ông đã có thói quen tin vào linh cảm của mình. Chính linh cảm và trực giác đã giúp ông trở thành một trong nhứng nhân vật giầu có nhất hành tinh. Tạp chí Forbes ước tính giá trị tài sản của tập đoàn Stanford Enterprises ở mức sáu tỉ đô la, trong khi tờ Fortune 500 thì cho là bảy tỉ. Cả Wall Street Journal, Barron s lẫn Financial Times đều cố gắng lột tả Harry Stanford, cố giải thích cái bí ẩn trong ông, cái khả năng kỳ diệu về sắp xếp thời gian và cảm quan nhạy bén không tin nổi của ông để có thể gây dựng nên cái tập đoàn Stanford Enterprises khổng lồ như ngày nay. Song không một tạp chí hay tờ báo nào thực sự thành công khi khám phá về ông cả.

Điều mà ai nấy đều thừa nhận là ông có một sức lực phi phàm, không biết mệt mỏi là gì. Triết lí của ông thật đơn giàn: Một ngày không giao kết được một vụ làm ăn là một ngày bỏ đi. Ông khiến cả đối thủ lẫn nhân viên của mình và bất cứ ai khác tiếp xúc với ông đều kiệt sức. Ông là một hiện tượng kỳ lạ một cái gì đó lớn hơn cả bản thân cuộc sống. Ông nghĩ về mình như một kẻ hữu thần. Ông tin vào Chúa, và vị Chúa ông tin muốn ông phải giàu có còn kẻ thù của ông thì phải chết.

Harry Stanford là một hình ảnh quảng đại, và báo chí biết mọi điều về ông. Harry Stanford là một hình ảnh riêng tư, và báo chí chẳng biết gì về ông hết. Họ từng viết về sức lôi cuốn của ông, về lối sống phóng túng của ông, về chiếc máy bay chuyên cơ, cái du thuyền, cùng với những toà nhà huyền thoại của ông ở Hobe Sound, Morocco, Long Island, London, Pháp, và dĩ nhiên, về toà lâu đài Rose Hill hùngvĩ của ông ở vùng Back Bay, Boston. Thế nhưng con người thật của Harry Stanford ra sao thì vẫn là một hiện tượng bí ẩn.

- Chúng ta đang đi đâu đây? - Cô gái hỏi.

Ông đang mải nghĩ nên không đáp. Hai kẻ bám đuôi phía bên kia đường đang sử dụng kỹ thuật chuyển chéo, và chúng đã thế chân nhau một lần nữa. Cùng với cảm giác về mối nguy hiểm, Stanford thấy giận sôi người vì chúng đang xâm phạm tới quyền tự do cá

{Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.}

nhân của ông. Chúng cả gan mò tới đây săn ông, tới cái nơi nghỉ ngơi bí mật không một ai biết đến nầy của ông.

St. Paul de Vence là một cái làng trung cổ, phong cảnh ngoạn mục, dấu những nét cổ kính huyền thoại của mình trên dãy Alps Maritimes, giữa Cannes và Nice. Làng được bao quanh bởi một loạt những quả đồi lúp xúp và những thung lũng ngập tràn những hoa, cây ăn quả và những rừng thông. Bản thân ngôi làng là nơi hội tụ của những xưởng vẽ, phòng tranh và những hiệu đồ cổ, một cái nam châm khổng lồ thu hút du khách bốn phương.

Đoàn của Harry Stanford rẽ sang đường Rue Grande. Ông hỏi Sophia, tên cô gái:

- Em có thích các viện bảo tàng không?

- Thưa ông, có. - Nàng đang háo hức được làm vui lòng ông. Nàng chưa gặp một ai như Harry Stanford cả. Hãy đợi cho đến khi ta kể cho các bạn gái của ta nghe về anh. Ta từng nghĩ, về tình dục ta chẳng còn gì để học hỏi thêm nữa cả, nhưng Chúa ơi, anh sáng tạo quá đi! Anh sẽ rút kiệt sức lực của ta mất.

Họ leo đồi lên viện bảo tàng nghệ thuật Fondation Maeght và xem lướt những bộ sưu tập nổi tiếng của Bonnard và Chagall cùng nhiều nghệ sĩ đương thời khác. Khi Stanford giả bộ vô tình liếc quanh, ông trông thấy người đàn bà bám đuôi đang mải ngắm một bức của Miró. Ông quay sang Sophia:

- Đói chưa?

- Em đói rồi, nếu như anh cũng đã đói. - Mình không được ép anh ấy.

- Tốt lắm. Chúng ta sẽ ăn trưa ở La Colombe d Or.

La Colombe d Or là một trong những nhà hàng khoái khẩu của Stanford, một toà nhà xây từ thế kỷ mười sáu, nằm ngay lối vào làng, gần đây nó được chuyển thành một khách sạn và nhà hàng. Stanford và Sophia ngồi trong vườn, cạnh hồ nước, còn Prince, con chó chăn cừu tuyền trắng nằm dưới chân ông với đôi mắt đầy cảnh tỉnh. Con chó là biểu tượng của Stanford. Ông đi đâu Prince theo đó. Có lời đồn rằng khi Stanford ra lệnh, con vật có thể cắn nát họng người ta. Không ai muốn thử xem lời đồn đại đó thực hư thế nào.

Dmitri ngồi bên chiếc bàn kề lối vào khách sạn; quan sát cẩn thận những kẻ đang theo dõi Stanford khi họ cứ thay nhau xuất hiện rồi bỏ đi:

Stanford quay sang Sophia:

- Em yêu, anh gọi món cho em nhé?

- Dạ.

Stanford luôn tự hào về mình là kẻ sành ăn. Ông gọi một đĩa xa lát xanh và món Fricas Bee de lotte cho hai người. Khi hầu bàn bê món chính tới, Danielle Roux, người đàn bà điều hành khách sạn cùng chồng mình là François, đi đến bên ông và mỉm cười:

- Mọi việc ổn cả chứ, ngài Stanford?

- Tuyệt lắm, thưa bà Roux.

- Và mọi chuyện sẽ tuyệt cả thôi. Chúng nó là một nhóm người lùn Pygmy đang cố tạo cho mình cảm giác của những chàng khổng lồ. Chúng tới đây để chuốc lấy một nỗi thất vọng lớn

Sophia nói:

- Lần đầu tiên em tới đây đấy. Cái làng mới dễ thương làm sao.

Stanford quay sang nhìn nàng. Dmitri vừa "thửa" cho ông cô bé nầy hôm qua.

- Ông Stanford, tôi "mua" cho ông một người đấy.

- Có trục trặc gì không? - Nghe vậy, Stanford hỏi.

Dmitri ngoác miệng cười. "Không". Anh ta thấy cô nàng ở sảnh khách sạn Negresco, bèn sán lại.

- Xin lỗi, cô có nói được tiếng Anh không?

- Có - Nàng đáp bằng một thứ tiếng Anh ngữ điệu Italia.

- Bạn tôi muốn mời cô dùng bữa tối với ông ấy.

Nàng nổi cáu:

- Tôi không phải điếm. Tôi là một diễn viên điện ảnh. - Thực thì nàng từng kiếm được một vai phụ trong bộ phim mới nhất của Pupi Avati và một vai với hai dòng thoại trong một phim của Giuseppe Tornatore. - Làm sao tôi có thể ăn tối với một người lạ cơ chứ?

Dmitri lôi ra một cục tiền một trăm đô la và dúi vào tay nàng năm tờ.

- Bạn tôi hào phóng lắm. Ông ấy có một cái du thuyền, và ông ấy đang cô đơn. - Gã quan sát thái độ của Sophia đang thay đổi từ cáu giận sang tò mò, rồi ham thích.

- Thực thì tôi đang trong thời gian chờ đợi cuốn phim tới. - Nàng nhoẻn cười. - Chắc ăn tối với bạn ông cũng chẳng hại gì.

- Tốt lắm. Ông ấy sẽ rất vui.

- Thế ông ta đang ở đâu?

- Ở St. Paul de Vence.

Dmitri chọn khá lắm. Gái Ý hẳn hoi. Tuổi ngoài hai nhăm. Khuôn mặt gợi tình, tựa như mặt mèo nhung vậy. Bộ ngực thật cao và đầy. Lúc nầy nhìn nàng ngồi bên kia bàn, Stanford bỗng nẩy ra một ý:

- Em có thích du lịch không, Sophia?

- Em thích lắm.

- Tốt. Chúng ta sẽ đi chơi với nhau một chuyến ngắn. Anh xin lỗi một phút nhé.

Sophia nhìn ông đi ra một máy điện thoại công cộng đặt kế buồng vệ sinh nam.

Stanford tra đồng xu vào khe máy và quay số:

- Cho xin tổng đài viên hàng hải.

Vài giây sau có tiếng đáp:

- Đây là người điều hành liên lạc vùng bờ biển…

- Tôi muốn đặt một cuộc gọi cho du thuyền Blue Skies, chín tám không…

Cuộc gọi kéo dài chừng năm phút và khi kết thúc, Stanford gọi tiếp cho sân bay Nice. Lần nầy thời gian đàm thoại ngắn hơn.

Xong, Stanford quay sang nói gì đó với Dmitri và gã nầy nhanh chóng đi ra khỏi nhà hàng. Stanford trở lại với Sophia:

- Em sẵn sàng chưa?

- Dạ, rồi.

- Vậy chúng ta hãy đi dạo một lát. - Ông cần thời gian để vạch ra một kế hoạch.

***

Hôm ấy là một ngày đẹp trời. Nắng chiếu hồng những áng mây và ánh sáng bạc tràn ngập những con đường rải cuội.

Họ đi dọc đường Rue Grande, ghé qua nhà thờ Eglise, một nhà thờ cổ kính xây cách đây đã hai nghìn năm. Tới trước cửa nhà thờ, họ dừng lại mua một ít bánh mì nóng. Khi quay đi thì một trong ba kẻ theo dõi đã đứng sẵn ở bên ngoài, đang vờ chăm chú ngắm mặt trước của nhà thờ. Thấy Dmitri đã đang đợi ở đó, Stanford dúi túi bánh mì cho Sophia:

- Em mang lên nhà trước dùm anh. Anh sẽ lên ngay.

- Vâng.

Stanford nhìn Sophia đi xa dần, rồi quay sang Dmitri:

- Cậu có phát hiện ra được gì không?

- Con đàn bà và một gã đang ở tại khách sạn Le Hameau, trên đường La Colle.

Stanford biết chỗ nầy.

- Còn gã thứ ba?

- Ở Le Mas d Artigny. Ngài muốn tôi làm gì với chúng đây?

- Không làm gì cả. Tự tôi sẽ săn sóc chúng.

***

Toà biệt thự của Stanford nằm trên đường Rue de Casette, trong một quần thể những ngôi nhà rất cổ và những con phố nhỏ rải cuội. Biệt thự xây bằng đá cổ trát vữa. Tầng hầm có ga ra và một cái hang giả làm hầm rượu. Một cầu thang bằng đá dẫn lên lô phòng ngủ, phòng làm việc, và một sân hiên lợp ngói. Toàn bộ toà nhà được trang trí bằng đồ cổ Pháp và đâu cũng có hoa.

Lúc Stanford về đến nhà thì Sophia đang nằm đợi ông trong phòng ngủ. Nảng đã hoàn toàn sẵn sàng:

- Sao đi lâu vậy anh? - Nàng hỏi thì thào.

Ngoài những lúc đóng phim, Sophia Matteo phải làm thêm nghề kỹ nữ phục vụ qua điện thoại để kiếm sống, và thường khi làm tình nàng luôn giả bộ mình đạt được tột đỉnh khoái cảm để chiều lòng khách. Song với người đàn ông nầy thì nàng khỏi phải "diễn" làm gì. Ông ta tham lam vô độ và nàng thấy mình liên tục được ông đưa lên tận trời xanh.

Khi cả hai đã mệt lả, Sophia ôm ngang người ông và lẩm bẩm một cách mãn nguyện, "Em có thể ở lại nơi nầy mãi mãi".

- Tôi chỉ cũng mong muốn có vậy thôi, - Stanford thầm nghĩ và thấy thoáng buồn.

Họ ăn tối ở nhà hàng Le Café de la Place, ngay lối vào làng. Bữa tối thật ngon miệng, và đối với Stanford, mối nguy hiểm thực sự đã thêm gia vị vào thức ăn.

Trên đường về biệt thự, Stanford bước chậm rãi để đoán chắc những tên bám đuôi theo được.

Lúc một giờ sáng, gã đàn ông đứng bên kia đường thấy đèn trong biệt thự đã tắt hết, bèn bỏ đi.

Lúc bốn rưỡi sáng, Stanford đi sang phòng ngủ dành cho khách, nơi Sophia đang ngáy ngon lành.

- Ông khẽ lay vai nàng:

- Sophia…

Nàng mở mắt, mỉm cười chờ đợi, song lại cau mặt ngay. Ông đă ăn mặc chỉnh tề. Nàng ngồi dậy.

- Có chuyện gì vậy, anh?

- Không có chuyện gì cả, em yêu ạ. Em nói em thích đi du lịch. Thì được, chúng ta sẽ đi với nhau một chuyến ngắn nhé.

Nàng đã tỉnh ngủ hoàn toàn.

- Đi vào lúc nầy ư?

- Đúng. Chúng ta phải hết sức khẽ khàng mới được!

- Nhưng mà…

- Vội lên đi.

Mười lăm phút sau, Stanford, Sophia, Dmitri và Prince đã thao bậc thang đá xuống tầng hầm, nơi chiếc Renault màu nâu đang đỗ. Dmitri nhẹ nhàng mở cửa ga ra và nhìn ra đường. Ngoài chiếc Corniche trắng của Stanford đang đỗ ở đó tịnh không còn một vật gì khác.

- Sạch sẽ, - gã nói.

Stanford quay sang Sophia:

- Chúng ta sẽ chơi một trò chơi nhỏ. Anh và em sẽ nằm dán xuống sàn xe ở hàng ghế sau.

Nàng mở to mắt:

- Tại sao lại phải thế?

- Một đối thủ làm ăn đang theo dõi anh, - ông nói không giấu giếm: - Anh sắp kết thúc một vụ lớn, còn chúng thì đang muốn khám phá xem đó là vụ gì. Nếu để chúng biết thì anh sẽ phải thua thiệt nhiều lắm.

- Em hiểu, - nàng đáp, song thực thì chẳng hiểu ông đang nói gì.

Năm phút sau họ đã tới cổng làng và phóng về xa lộ đi Nice. Một gã đàn ông ngồi trên ghế băng nhìn chiếc Renault tăng tốc độ lao qua cổng. Sau tay lái là Dmitri, còn cạnh gã là con Prince. Gã đàn ông vội rút điện thoại di động và bấm số.

- Chúng ta có thể có rắc rối, - gã báo với người đàn bà.

- Rắc rối gì vậy?

- Chiếc xe Renault nâu đã ra khỏi làng. Dmitri Kaminsky cầm lái. Ngoài gã ra trong xe chỉ có con chó thôi.

- Không thấy Stanford à?

- Không.

- Tôi không tin. Gã vệ sĩ không bao giờ rời hắn một bước lúc đang đêm, còn con chó thì luôn ở bên hắn.

- Chiếc Corniche còn đỗ ở trước biệt thự không? - Gã đàn ông kia hỏi.

- Còn, song hắn có thể đổi xe lắm chứ!

- Chúng ta trúng mẹo hắn rồi! Gọi sân bay ngay.

Một phút sau họ đã liên lạc được với đài chỉ huy bay.

- Máy bay của ông Stanford ấy à? Nó vừa hạ cánh cách đây một giờ và đã nạp xong nhiên liệu.

Toán bám đuôi Stanford lập tức chia đôi, hai ra sân bay, người còn lại tiếp tục canh toà nhà lúc đó đang im lìm ngủ.

- Xe vừa qua La Coalle-sur-Loup, Stanford ngồi hẳn lên ghế:

- Ngồi dậy được rồi đấy, Sophia. - Ông quay sang Dmitri, - Phi trường Nice. Nhanh!

Chương 2 - Sáng

Nửa giờ sau, tại phi trường Nice, chiếc Boeing 727 chậm rãi lăn bánh trên đường băng tới điểm xuất phát. Trên đài chỉ huy, nhân viên kiểm soát bay nói:

- Rõ là họ đang vội lên đường. Viên phi công đã yêu cầu được cất cánh ba lần rồi.

- Chiếc máy bay đó của ai?

- Harry Stanford.

- Chắc hắn đang đi kiếm thêm vài ba tỉ gì đó. - Viên kiểm soát bay quay nhìn chiếc Learjet cất cánh rồi nhấc microphone và nói:

- Boeing tám chín năm Cha, phòng kiểm soát cất cánh sân bay Nice đây. Các anh được phép cất cánh. Còn năm phút nữa. Sau khi cất cánh, lượn phải về hướng một bốn không.

Viên lái chính và lái phụ của Stanford nhìn nhau nhẹ nhõm. Lái chính ấn nút microphone:

- Roger đây. Boeing tám chín năm Cha sẵn sàng cất cánh. Sẽ lượn ngay sang hướng một bốn không.

Tích tắc sau, chiếc phi cơ khổng lồ gầm máy trên đường băng và lao vút vào trời đêm.

Viên lái phụ lại nói vào microphone:

- Cất cánh, Boeing tám chín năm Cha đang ra khỏi ba ngàn để lên mức bay bảy không. - Anh ta quay sang lái chính. - Hô, ông già Stanford chắc lo chúng ta không cất cánh nổi lắm, đúng không?

Lái chính nhún vai:

- Việc của chúng ta không phải là luận xem tại sao. Việc của chúng ta là hoặc làm hoặc chết. Nó ra sao ở phía sau?

Viên phụ lái đứng lên bước tới ngưỡng cửa nhìn sang khoang hành khách rồi ngoảnh lại nói vào khoang lái:

- Nó đang nghỉ.

Từ trong xe họ gọi đài chỉ huy sân bay:

- Máy bay của ông Stanford còn dưới mặt đất không?

- Không, thưa ông. Nó đã cất cánh rồi.

- Phi công có lưu lại kế hoạch bay không?

- Dĩ nhiên là có, thưa ông.

- Tới đâu?

- Máy bay nhằm hướng JKF.

- Cám ơn. - Gã quay sang đồng sự. - Phi trường Kennedy. Chúng ta sẽ cho người đón hắn ở đó.

Lúc chiếc Renault đã vượt qua ngoại ô Monte Carlo, nhằm hướng biên giới Ý, Stanford nói:

- Còn khả năng chúng vẫn bám đuôi không, Dmitri?

- Không đâu, thưa ông. Chúng đã mất vết chúng ta rồi.

- Tốt. - Stanford ngả người ra ghế, thư giãn. Chả còn phải lo nghĩ gì nữa. Họ sẽ bám theo chiếc máy bay.

Ông điểm lại tình huống trong đầu. Vấn đề là họ đã biết gì và biết từ khi nào. Họ chỉ là những con chó rừng lẩn theo vết sư tử mà thôi, hy vọng sẽ hạ gục được ông. Stanford cười thầm. Họ đánh giá quá thấp cái người đang khiến họ bận tâm. Những kẻ từng phạm những sai lầm loại nầy đều đã phải trả giá đắt. Lần nầy rồi cũng vậy thôi. Ông là Harry Stanford, bạn bè của các vị tổng thống và các vị vua chúa, có đủ quyền lực và sức mạnh tài chính để vực dậy hay làm lụn bại nền kinh tế của cả chục quốc gia chứ đâu phâi chuyện đùa.

Chiếc Boeing 727 đang bay trên bầu trời Marseilles. Lái chính nói vào microphone:

- Marseilles nghe đây, Boeing tám chín năm Cha đang ở trong tầm kiểm soát của các vị. Chúng tôi đang ra khỏi tầng bay một chín không để vào tầng hai ba không. Roger.

***

Chiếc Renault tới San Remo ngay khi trời vừa sáng. Stanford còn nhớ rõ thành phố nầy lắm, song nó cũng thay đổi rất nhanh. Ông nhớ ngày nó còn là một mảnh đất tao nhã với những khách sạn và nhà hàng hạng nhất, với một sòng bạc mà các con bạc khi bước vào đều phải đeo cà vạt đen và người ta có thể thắng hoặc thua cả một gia tài trong một buổi tối. Nay nó đã không chống đỡ nổi với tệ nạn du lịch, với những ông bầu lớn miệng đánh bạc trong ống tay áo.

Xe của Stanford tiến dần tới vịnh, cách biên giới Pháp-Ý mười hai dặm đường. Vịnh có hai hải cảng, Marina Porto Sole ở phía đông và Porto Communale ở phía tây.

- Chúng ta tới cảng nào đây? - Dmitri hỏi - Porto Communale, - Stanford đáp. Càng vắng người càng hay.

Chỉ vài phút chiếc Renault đã đỗ sát bên mạn du thuyền Blue Skies, một chiếc tàu bóng mượt dài một trăm tám mươi bộ. Thuyền trưởng Vacarro và mười hai thành viên thuỷ thủ đoàn đã xếp hàng chờ sẵn trên boong. Thuyền trưởng xăng xái đi xuống đón đoàn.

- Chào ngài Stanford. Để chúng tôi xách hành lí cho, và…

- Không có hành lí. Nhổ neo thôi.

- Rõ, thưa ngài.

- Chờ một phút. - Stanford nhìn đám thuỷ thủ và cau mặt. - Người đứng cuối hàng ấy. Anh ta mới vào đúng không?

- Vâng, thưa ngài. Buồng lái của chúng tôi thiếu mất một thuỷ thủ do ngã bệnh ở Capri, chúng tôi bèn tuyển anh ta vào thay chân. Anh ta…

- Tống cổ nó đi, - Stanford ra lệnh.

Viên thuyền trưởng bốì rối nhìn ông.

- Trả tiền và hãy để nó đi khỏi con tàu nầy.

Thuyền trưởng gật đầu: "Rõ, thưa ngài".

Nhìn quanh, linh tính cho Stanford thấy có chuyện chẳng lành. Cảm giác đó mỗi lúc một trỗi lên, rõ ràng tới độ ông gần như có thể đưa tay ra là sờ được nó. Ông không muốn có một người lạ mặt nào ở gần mình. Thuyền trưởng Vacarro cùng thuỷ thủ đoàn đã đi với ông nhiều nằm nay. Ông có thể tin cậy ở họ. Ông quay nhìn cô gái. Dmitri đã nhặt cô ta một cách ngẫu nhiên nên có thể coi nguy hiểm sẽ không đến từ phía đó. Còn với Dmitri, gã vệ sĩ nầy đã cứu mạng ông không chỉ một lần trong đời. Stanford quay sang bảo gã:

- Hãy luôn ở bên tôi.

- Vâng, thưa ông.

Stanford nắm tay Sophia:

- Lên tầu đi, em yêu.

Dmitri đứng trên boong quan sát đám thuỷ thủ chuẩn bị khởi hành. Gã nhìn bao quát hải cảng một lượt song không thấy gì khả nghi. Vào lúc sáng sớm thế nầy chưa có một hoạt động nào diễn ra cả. Động cơ kỳ vĩ của chiếc du thuyền khởi động và con tàu lừng lững lướt đi.

Viên thuyền trưởng đến gần Stanford:

- Ngài chưa nói chúng ta sẽ đi đâu, thưa ngài Stanford.

- Chưa, tôi chưa nói, hẳn thế? - Ông suy nghĩ một giây - Đi Portofino.

- Rõ, thưa ngài.

- Mà nầy, tôi cấm ông không được sử dụng liên lạc bằng sóng vô tuyến.

Thuyền trưởng Vacarro cau mày:

- Không được sử dụng liên lạc vô tuyến ư? Rõ, thưa ngài, nhưng ngộ nhỡ…

- Khỏi lo chuyện đó. Cứ làm như tôi nói đi. Và tôi không muốn một ai sử dụng điện thoại vệ tinh.

- Rõ, thưa ngài. Chúng ta có nán lại Portofino không ạ?

- Tôi sẽ cho ông biết có nán lại đó hay không.

Stanford dẫn Sophia đi một vòng quanh tầu. Con tầu là một trong những tài sản đoạt giải của ông nên ông thích phô trương nó. Ai nhìn cũng phải choáng ngợp trước sự xa xỉ nầy. Nó có một lô phòng ở cao cấp, kèm phòng chờ và một phòng làm việc.

Phòng làm việc, rộng thênh thang và tiện lợi với một chiếc đi văng, vài ghế mềm và một cái bàn giấy mà trên đó, có đủ mọi phương tiện để điều hành cả một thành phố nhỏ. Trên tường treo một tấm bản đồ điện tử lớn với một chiếc thuyền nhỏ chuyển động cho thấy vị trí thực của con tàu. Hai cửa kính trượt mở ra một hàng hiên có đặt một xích đu, một bàn với bốn chiếc ghế. Vào những ngày thanh bình Stanford thích dùng bữa sáng ngoài hàng hiên nầy.

Có sáu phòng ngủ dành cho khách. Phòng nào cũng được trang trí bằng lụa có hoạ tiết thủ công, có cửa sổ và bồn tắm. Còn thư viện lớn thì được ốp gỗ kola.

Phòng ăn đủ chỗ cho mười sáu thực khách. Du thuyền có một hầm rượu và một phòng chiếu phim lí tưởng.

Harry Stanford là một trong những nhà sưu tầm phim khiêu dâm lớn nhất thế giới. Tất thẩy đồ đạc trang trí trong du thuyền đều là những thử quí hiếm độc nhất vô nhị, còn các bức hoạ thì có thể khiến bất cứ viện bảo tàng nào cũng phải thèm thuồng.

- Vậy là em đã xem gần hết du thuyền rồi đấy, - Stanford nói với Sophia. - Anh sẽ cho em xem nốt những gì còn lại vào ngày mai.

Nàng cảm thấy ngượng ngùng:

- Chưa bao giờ em được thấy một cái gì như thế nầy! Nó giống… nó giống như một thành phố vậy.

Stanford nhoẻn cười trước sự ngưỡng mộ của nàng.

- Em sẽ được chỉ cho phòng riêng và hãy nghỉ ngơi cho thoải mái nhé. Anh có ít việc phải làm cho xong đã.

Stanford trở lại phòng làm việc và kiểm tra vị trí của con tàu.

Chiếc Blue Skies đã đến Biển Ligurian và đang đi về hướng đông bắc. Chúng sẽ không đoán nổi ta đi đâu, Stanford nghĩ bụng. Chúng sẽ chờ ta ở JKF. Khi tới Portofino ta sẽ làm rõ mọi chuyện với chúng.

Ở độ cao ba mươi lăm dặm trong không trung, lái chính của chiếc Boeing 727 đang nhận chỉ thị mới.

"Boeing tám chín năm Cha, anh được phép bay thẳng đến Delta India November đúng như trong hồ sơ đường bay."

Anh ta nói với lái phụ, đoạn đi ra cửa vào khoang hành khách.

- Vị hành khách của chúng ta ra sao rồi? - Anh lái phụ hỏi.

- Nó có vẻ đói.