Quyến Rũ Người Đẹp - Chương 11 - Phần 2

“Cậu bé yêu quý của tôi,” nữ công tước quả phụ của Lexington, người vừa đến Luân Đôn cùng Christian nói.

“Con nhận ra giọng điệu đó đấy, mẹ kế,” vẫn đứng trước cửa sổ, anh trả lời. “Mẹ đã biết được một mẩu chuyện tầm phào đặc biệt ngon lành nào đó.”

Trẻ con nô đùa trong công viên nhỏ bên kia đường, thả diều, cho vịt ăn và chơi trò trốn tìm. Một cậu bé lén thoát khỏi cô gia sư đi kèm để cho con ngựa đang đóng cương vào một cỗ xe hai bánh đỗ gần lề đường ăn táo.

“Và một tin đồn rất, rất hiếm. Tin đồn liên quan đến con.”

“Con biết rồi.” Hy vọng rằng tin tức sẽ không lan truyền cho đến sau khi anh có thời gian nắm chắc bàn tay người anh yêu là quá nhiều.

Cô gia sư trách mắng và giật tay cậu bé khỏi con ngựa, không nghi ngờ gì là đang dọa dẫm cậu bé về những con bọ chét và những thứ không mong muốn khác chắc chắn thường đi cùng với một con vật như thế. Có phải tấm rèm cửa của cỗ xe lay động? Sau khi đọc hết tờ bào, lúc này, tên đánh xe đang rút thứ gì đó giống như là một nắm tiền nhàu nát khủng khiếp ra từ áo khoác.

“Từ khi chúng ta đến Luân Đôn vào sáng nay, mẹ đã nhận được không phải một, không phải hai, mà là ba lá thư khác nhau về cuộc tình nóng bỏng của con trong chuyến vượt biển. Trước mặt bàn dân thiên hạ, ngạc nhiên chưa.”

Ít nhất bây giờ anh có thể nói về cô. “Vâng, mọi chuyện đúng là thế.”

Có phải những ngón tay đi găng siết lấy mép rèm trên chiếc xe ngựa cho thuê?

“Chắc chắn không phải mọi chuyện. Có vài tin đồn rằng con đã kết hôn với cô ta.”

Anh quay lại. “Điều đó thì không đúng. Nhưng không phải chưa từng thử.”

Đang chỉnh sửa lại bình hoa tu-líp đặt trên chiếc bàn chân quỳ, nữ công tước dừng khựng lại giữa chừng. Bà cũng quay lại – một phụ nữ xinh đẹp mới vừa qua tuổi bốn mươi, chỉ hơn Christian mười ba tuổi. Nhưng thay vì buột miệng ra lời phản ứng ngay lập tức, bà ngồi xuống chiếc ghế Louis XIV và cố ý chỉnh váy thật kỹ lưỡng. “Con đã cầu hôn?”

“Vâng.”

“Con không hề nói một chút nào về chuyện đó.”

“Tình huống có phần nào phức tạp. Con không muốn mẹ lo lắng.”

“Và mẹ sẽ lo lắng ít đi khi được biết theo cách này.”

Anh cúi đầu để bà biết rằng anh đã nhận thấy sự trách móc. “Con xin lỗi.”

“Kể cho mẹ nghe đi nào, tình huống phức tạp là như thế nào? Khi công tước Lexington cầu hôn, quý cô may mắn đó chấp nhận. Thế là hết.”

Giá như đơn giản như thế. “Cô ấy đã dùng tên giả.”

Vừa đặt chân đến Anh, anh đã thu xếp để gặp những người quen thuộc với giới quý tộc

Đức. Nhà Seidlitz là một dòng tộc nổi tiếng người Phổ. Nhà Hardenberg là dòng dõi quý tộc Silesia. Nhưng không hề có dấu tích gì về nam tước von Seidlitz – Hardenberg, vì thế không hề có một nữ nam tước von Seidlitz – Hardenberg nào. Dường như đó không phải là tên thật, và vì thế có xé nát cả lục địa châu Âu cũng không có hy vọng tìm thấy.

Nữ công tước quả phụ hít mạnh vào. “Tên giả?”

“Và con chưa bao giờ nhìn thấy mặt cô ấy.”

Bà chớp mắt, chết sững.

“Thật là, Christian.” Bà gõ ngón tay lên thành ghế. “Có đến hàng trăm quý cô trẻ danh giá phù hợp ở đây và con cầu hôn với người con thậm chí không thể nhận ra nếu con đi qua cô ta trên đường hay sao?”

“Cô ấy là người con yêu.” Điều đó lẽ ra đã đủ lý lẽ nhưng theo cách nào đó nó không có vẻ gì phù hợp, dựa trên tất cả những điều còn chưa biết. “Mẹ sẽ yêu quý cô ấy – cô ấy biết đặt con ở đúng chỗ của mình.”

Nữ công tước vẫn chưa bị thuyết phục. “Mẹ muốn gặp cô ấy và tự mình đánh giá.”

“Con sẽ sắp xếp ngay khi con có thể thuyết phục cô ấy chấp nhận lời cầu hôn.”

“Và bao giờ con có thể làm được việc ấy?”

“Vào ngày sinh nhật của con, con hy vọng thế. Cô ấy đã đồng ý ăn tối cùng con ở khách sạn Savoy.”

Nữ công tước đứng lên. “Con biết là mẹ tin tưởng sự đánh giá của con, Christian. Mẹ đã tin tưởng sự đánh giá của con kể từ lần đầu tiên chúng ta gặp nhau. Nhưng nếu mẹ không chỉ ra sự bất thường đặc biệt của tình huống này thì mẹ sẽ là người bất cẩn. Con đã đặt mình vào một tình cảnh rất mạo hiểm, và mẹ không chỉ ám chỉ thanh thế hay của cải của con đâu.”

Anh xứng đáng bị cảnh báo như thế. “Con e rằng trái tim con đã hoàn toàn bị chiếm hữu. Con sẽ đau khổ nếu không cưới được cô ấy.”

“Con có thể cũng đau khổ nhường ấy trong một cuộc hôn nhân, đến lúc đó thì đã quá muộn.”

“Bây giờ đã là quá muộn. Nếu con không thể có cô ấy, con sẽ không lấy ai.”

Bà thở dài. “Con chắc về việc này chứ?”

“Chắc.”

Một tiếng vọng của điều gì đó kêu lanh canh bên trong anh khi anh đưa ra câu trả lời rõ ràng đến thế, có lẽ là sợ hãi. Anh cũng đã chắc chắn như thế khi gặp bà Easterbrook lần đầu tiên, rằng cô ta nắm giữ chìa khóa hạnh phúc của anh.

“Hãy cẩn thận, con yêu quý,” nữ công tước nói. “Chỉ nên lặp lại lời cầu hôn nếu cô ta chứng tỏ là xứng đáng.”

Anh cố gắng làm giảm nhẹ sự nặng nề của câu chuyện. “Vậy đây là lời của người đã nói rằng sẽ hạnh phúc nếu bắt được con cưới bất kỳ cô gái nào còn sống.”

“Chỉ vì cô gái này có sức mạnh làm con bị tổn thương con yêu. Chỉ vì thế mà thôi.”

*

* *

Vì tất cả những tấm bạt của cỗ xe ngựa đã thả xuống để che Venetia khỏi tầm nhìn, không khí trong xe vốn đã bốc mùi thuốc lá và rượu gin, nay càng trở nên khó chịu hơn với từng phút trôi qua. Sự tập trung của cô không thể bớt đi.

Hình ảnh người cô yêu đã khiến cô mê sảng. Cô không thể lý luận. Cô không thể nghĩ ngợi. Điều quan trọng duy nhất là cô có thể nhìn thấy anh lần nữa. Cô không biết mình hy vọng đạt được điều gì khi làm thế, nhưng sức hút của lực kéo cô về phía anh lớn hơn tất cả sức lực cô có thể gom góp lại để tránh xa anh.

Cô quyết định đi bộ từ nhà Fitz. Đâu đó dọc đường cô nhận ra đi bộ đến khách sạn Savoy quá xa, vì thế cô vẫy tay một chiếc xe ngựa hai bánh.

Xe ngựa đến khách sạn Savoy đúng lúc công tước trèo vào xe và ra về. Cô đi theo anh về đến nhà, một dinh thự có kiến trúc theo kiểu tân cổ điển mà cô vốn không thích. Có lẽ nếu những bức tường làm bằng kính thì cô sẽ không khó chịu nhiều như thế. Khi đó cô có thể nhìn thấy anh đi lại trong nhà, làm bất cứ điều gì khi anh không làm cô điên cuồng yêu anh.

Nhưng cô không nhìn thấy gì. Những gia sư trong công viên đang dần nghi ngờ chiếc xe ngựa. Và chẳng mấy chốc sẽ có cảnh sát đến và hỏi người đánh xe xem anh ta nghĩ gì mà lại la cà bên ngoài nhà của các công tước và bá tước. Cô không thể đứng ở đây mãi.

Một cái nhìn thoáng qua nữa thôi. Cô chỉ muốn nhìn lướt qua một một lần nữa.

Chúa đang lắng nghe. Một cỗ xe ngựa gắn gia huy nhà Lexington đi đến lề đường. Một phút sau, anh bước ra khỏi cửa chính và trèo vào xe.

Cô đã thấy được anh. Nhưng việc đó giống như nhận được một hạt gạo khi cô đã bị bỏ đói cả tuần.

“Đi theo chiếc xe đó,” cô bảo người đánh xe. “Và đừng để mất dấu.”

Một cái nhìn nữa. Chỉ một lần nữa khi anh xuống xe ở điểm đến.

“Thưa cô, cô sẽ có được ngài ấy sớm hơn nếu cô để ngài ấy nhìn thấy cô,” người đánh xe nói.

Cô ước sao tình huống này là như thế. “Nhanh lên.”

Xe ngựa của anh rẽ sang hướng Tây. Cô nghĩ anh đang đi đến câu lạc bộ ở phố St. Jame, nhưng cỗ xe không dừng lại cho đến khi chạy đến đường Cromwell, ngay trước tòa lâu đài tráng lệ của vương quốc các loài vật, Bảo tàng lịch sử tự nhiên Anh quốc.

Nơi trưng bày bộ xương khủng long của cô!

Cô quăng một nắm tiền xu cho người đánh xe, nhảy xuống, và rủa chiếc váy hẹp khiến cô không thể đi thật nhanh.

Anh bước lên bậc thềm cửa trước và đi qua những mái vòm Roman xinh đẹp để vào Bảo tàng. Phần trưng bày chính ở đại sảnh trung tâm là một bộ xương gần như hoàn chỉnh, chỉ thiếu ba đốt sống của một con cá nhà táng dài mười lăm mét. Trước đây cô chưa bao giờ đến thăm Bảo tàng mà không dừng lại để chiêm ngưỡng bộ xương này, nhưng bây giờ cô chỉ dáo dác tìm kiếm anh.

Cô mong anh đi đến chái đông, nơi trưng bày chim và cá. Hoặc bảo anh lên tầng trên. Nhưng không, hiện giờ anh đang lách qua những nhóm khách tham quan đang tụ tập trước bộ xương cá heo và tiến đến chái đông, nơi trưng bày bộ sư tập hóa thạch.

May mắn là phòng triển lãm chào đón những khách tham quan lần đầu tiên bước vào chái đông trưng bày những động vật có vú: Voi răng mấu khổng lồ Mỹ, voi ma mút khai quật ở Essex đang được bảo tồn toàn vẹn, Unitatherium[1], lợn biển miền bắc, những động vật đã bị săn bắn đến tuyệt chủng vào cuối thế kỷ trước. Có lẽ đó là tất cả những gì anh có ý định xem xét trong chiều hôm nay. Hoặc là những hóa thạch vượn người và người đặt trong lồng trưng bày xếp theo hàng dọc theo bức tường phía Nam. Hoặc là những giống chim tuyệt chủng ở cuối gian trưng bày, những giống chim không bay được rất hay được chú ý, cũng như trứng của chim voi, một loại chim được cho rằng có trọng lượng lên đến nửa tấn.

[1] Một loại động vật ăn cỏ có hình dáng giống tê giác.

Nhưng anh chỉ dành cho những sinh vật kỳ diệu được thu thập từ khắp nơi trên thế giới một cái nhìn lướt qua rồi tiến thẳng đến phòng triển lãm chạy song song với phòng trưng bày những động vật có vú, nơi lưu trữ những di tích của loài bò sát.

Cô vẫn chưa mất hy vọng hoàn toàn. Có rất nhiều phòng trưng bày nhánh, nằm vuông góc với phòng trưng bày bò sát, chứa đầy những động vật quý hiếm. Có lẽ... có lẽ...

Có lẽ không. Anh đi chậm lại, dừng trước một bộ xương thằn lằn sọ của vùng Karoo, Nam Phi, và sau đó nghiêng người để đọc tấm bảng nhỏ ghi tên của người phát hiện và quyên tặng.

Trái tim cô đập thình thịch. Tên cô đang nằm trên tấm bảng cách nơi anh đứng chưa đến mười lăm mét. Mặc dù anh không thể nhận ra sự liên hệ đó ngay lập tức, nhưng nếu sau đó anh phát hiện ra rằng cô cũng vượt biển Đại Tây Dương trong cùng khoảng thời gian với anh, thì anh sẽ nhận ra rằng sự trùng hợp này là quá lớn, cho dù anh không sẵn lòng nghĩ rằng nữ nam tước von Seidlitz - Hardenberg và bà Easterbrook cùng là một người.

Anh rời khỏi con thằn lằn sọ. Dọc bức tường phía nam của căn phòng trưng bày là những con thằn lằn biển lớn: Thằn lằn đầu rắn và thằn lằn cá. Tựa vào bức tường phía bắc là những sinh vật đất liền.

Như thể bị lôi kéo bởi một chiếc la bàn, anh sải bước về bức tường phía bắc.

*

* *

Ngay cả Christian cũng không biết tại sao anh lại lăng xăng ở Bảo tàng lịch sử tự nhiên Anh quốc này, thậm chí cũng chẳng phải là đang có một con rồng Swabia được trưng bày, theo như trí nhớ của anh. Lẽ ra anh phải kiểm tra bảo tàng fur Naturkunde ở Berlin hoặc Viện nghiên cứu địa chất cổ đại và khảo cổ học nằm trong đại học Ludwig-Maximillians ở Munich.

Nhưng có điều gì đó lôi kéo anh đến đây. Có lẽ vì cô đã đến Luân Đôn. Và nếu cô đã đến, chẳng lẽ cô không muốn xem bộ sưu tập khủng long lớn nhất nước Anh hay sao?

Hôm nay là một ngày nắng chói chang và phòng trưng bày không đông đúc. Hiện chỉ có nửa tá những chàng trai trẻ trông như sinh viên đại học; một cặp trung niên mập mạp và ăn diện xa hoa; một cô gia sư với hai đứa trẻ mà cô ta cứ phải nhắc nhở chúng giữ im lặng hết lần này đến lần khác mỗi khi giọng chúng trở nên quá phấn khích.

Xuất phát từ một hy vọng hoàn toàn vô lý, anh nhìn về phía cô gia sư nhiều lần. Anh nảy ra ý nghĩ rằng có lẽ nữ nam tước là một người thấp kém nhất trong những người bình dân, và vì thế cô không nghĩ rằng mình xứng đáng có một mối quan hệ với một công tước. Nhưng anh không hề lo lắng về điều đó. Là một công tước với dòng dõi tám trăm năm tuổi có ý nghĩa gì nếu anh không thể kết hôn như mình mong muốn?

Cô gia sư là một phụ nữ khoảng ba mươi có khuôn mặt nghiêm trang, cô ta không thích thú gì với sự chú ý của anh. Cô ta trao cho anh một ánh mắt sắc bén và quả quyết quay sự chú ý về với nhiệm vụ của mình, nói với hai đứa trẻ rằng nếu chúng muốn chiêm ngưỡng mọi thứ trước khi đến giờ về nhà dùng trả, tốt hơn hết chúng nên đi xem những con cá hóa thạch.

Cô ta ngẩng cao đầu đến mức mũi gần như hướng thẳng lên trần nhà. Cô ta đẩy lũ trẻ ra ngoài. Trong lúc cô gia sư làm thế, một phụ nữ khác bước vào phòng trưng bày từ đầu bên kia. Cô ta dừng lại để nhìn ngắm những hóa thạch thằn lằn bay được trưng bày trên tường.

Trái tim anh lộn nhào. Cô ta mặc váy và áo khoác màu xám nhạt đơn giản, không giống như những chiếc váy xếp nếp mềm mại, mơ mộng anh vẫn nhìn thấy ở nữ nam tước. Nhưng nhìn từ đằng sau lưng, chiều cao, dáng vóc và cái kiểu quần áo ôm lấy người cô ta – nếu anh giữ một chiếc váy của nữ nam tước, nó sẽ vừa với cô ta một cách hoàn hảo.

Cô ta quay người lại.

Thế giới ngừng lại. Những năm qua biến mất. Và anh lại là cậu bé mười chín tuổi trên sân chơi cri-kê, nhìn chằm chằm vào cô ta với một mũi tên trong trái tim.

Bà Easterbrook.

Francis Bacon đã từng viết, “Không có vẻ đẹp mỹ miều nào lại không có vài sự lạ lùng trong tỷ lệ.” Người đàn ông đó ắt hẳn nghĩ đến bà Easterbrook. Mũi của cô ta hơi dài. Hình dáng bất thường của mi dưới khiến điểm rộng nhất của mắt cô ta không phải là ở giữa, mà xa hơn về phía đuôi mắt. Và chắc chắn đôi mắt đó trông sẽ hoàn toàn lố bịch nếu chúng được đặt cách xa nhau thêm ly nữa thôi. Nhưng cùng với gò má cao và đôi môi đầy đặn, tất cả những điều đó lại chỉ mang đến một ấn tượng choáng ngợp.

Anh muốn đúc khuôn dáng người của cô ta. Anh muốn cắm một bộ com-pa chính xác và đo lường từng khoảng cách giữa những đường nét của cô ta. Anh muốn những nhà hóa học giỏi nhất thế giới phân tích máu và mồ hôi của cô ta – chắc hẳn bên trong người cô ta phải có thứ gì đó khác biệt có thể nhận thấy khiến anh phản ứng đột ngột với cô ta như thế, như thể anh bị uống phải một thứ thuốc phiện mà khoa học chưa tìm ra tên.

Nhưng hơn tất cả mọi thứ, anh muốn...

Anh giật mình quay lại với lý trí: Anh là người đã ràng buộc mình với người khác. Nữ nam tước rất có thể không đáp lại sự cam kết đó, nhưng anh mong đợi nhiều hơn ở mình khi anh đưa ra lời hứa đó.

“Những con súc vật bẩn thỉu, đúng không?” Bà Easterbrook mê hồn nói, đặt chiếc túi xuống mép của một chiếc lồng trưng bày.

Anh liếc nhìn chiếc lồng bên cạnh mình. Trước đó anh đang đứng gần lồng trưng bày một con rùa biển khổng lồ, nhưng lúc này anh đang đứng trước một con thằn lằn cá voi. Anh hẳn đã đờ đẫn, trôi giạt về phía cô ta.

“Ngẫu nhiên tôi lại nghĩ chúng là những vật mẫu đẹp đẽ, đặc biệt là cái này.”

Cô ta liếc nhìn anh, ánh mắt ve vuốt da anh. “Chà,” cô ta nói, “Béo lùn và xấu xí.”

Cô ta đứng quá gần khiến họ gần như chạm vào nhau, nhưng lời nói đến với anh chỉ văng vẳng, như thể bị giảm đi bởi sương mù và khoảng cách. Và khi anh quay đầu đi để không nhìn thẳng vào cô ta, anh bắt đầu nhận thấy một mùi hương hoa nhài tinh tế nhưng suy đồi.

“Nếu cô không thích những tạo vật của Chúa, thưa cô,” anh nói cộc lốc, “Có lẽ cô không nên tham quan một Bảo tàng lịch sử tự nhiên.”

*

* *

Nói xong, người cô yêu quay gót và bỏ đi.

Trong một phút ngắn ngủi, khi họ tiến đến nhau, không khí đã rung lên với những mong đợi. Thật quen thuộc, cảm giác được rút ngắn khoảng cách giữa họ. Bây giờ, anh sẽ mỉm cười và đưa tay ra cho cô. Họ sẽ đứng bên nhau và ngắm nhìn khám phá tuyệt vời của cô. Và không có gì, không có gì có thể tách rời họ lần nữa.

Sau đó cô chú ý đến biểu hiện của anh: Biểu hiện của một người đàn ông mộng du. Một người đàn ông bị bỏ bùa, ý chí bị khuất phục, năng lực bị tước bỏ.

Anh đã không cường điệu.

Phản ứng như thế ở một người đàn ông thường làm cô hổ thẹn – điều đó khẳng định rằng cô là một kẻ quái dị. Nhưng cô yêu phản ứng đó đến từ anh. Cô muốn anh trố mắt nhìn cô không chớp mắt. Điều đó không thay đổi được sự thật là anh yêu cô vì chính con người cô.

Và có lẽ, chỉ có lẽ mà thôi, cô có thể sử dụng diện mạo như một mồi nhử, để kéo anh lại, và giữ anh trong tầm tay cho đến khi anh nhận ra mình không phải không thích cô. Rằng, thật ra, anh thích cô rất nhiều và thật mãnh liệt.

Nhưng sau đó anh choàng tỉnh, và giật lùi lại. Mắt anh hiện rõ vẻ tự trách móc. Anh nghĩ giây phút ngắn ngủi anh quên mất mình, quên mất nữ nam tước là không thể tha thứ được.

Quá nhiều cho niềm hy vọng rằng anh sẽ cho phép kéo dài sự giao tiếp giữa họ. Cô cảm thấy mình giống như một cánh đồng đã thu hoạch, mùa màng đã đi qua, và phía trước không còn lại gì ngoài một mùa đông dài trơ trọi.

Chầm chậm cô nhấc chiếc túi đã đặt ngay lên trên tấm bảng viết, Hóa thạch thằn lằn cá voi được cô Fitzhugh của dinh thự Hampton, Oxfordshire quyên tặng. Cô đã khai quật bộ xương này ở Lyme Regis, Devon, năm 1883.

Cô nói với anh rằng con khủng long của cô là một con rồng Swabia vì thằn lằn cá voi là một hóa thạch thường chỉ tìm thấy ở Anh và cô không muốn tiết lộ xuất xứ người Anh của mình. Cô nhìn vào cái đầu to, đôi chân dày và bộ xương chắc chắn của nó, luôn luôn là biểu tượng của niềm phấn khích được khai phá và những triển vọng bất tận của tuổi trẻ.

“Thưa cô,” một anh chàng, khoảng hơn hai mươi tuổi xuất hiện bên cạnh cô, ai đó cô chưa hề gặp trước đây.

“Thưa cô, bạn tôi và tôi, chúng tôi chèo thuyền đến Oxford. Và chúng tôi tự hỏi... Chúng tôi tự hỏi cô có kế hoạch tham gia cuộc đua thuyền Henley không?”

Bà Easterbrook xinh đẹp lại gây chú ý lần nữa, hiển nhiên là thế.

“Tôi chúc ngài gặp nhiều may mắn nhất, thưa ngài,” cô nói, “Nhưng e rằng tôi sẽ không ở đó.”