Gió qua rặng liễu - Chương 08 part 2

Trong lúc vừa tiến bước vừa suy tính, nó chú ý đến mấy ngọn đèn xanh đỏ cách đó một quãng ngắn, ở một mé thị trấn và tiếng phì phò của các đầu tàu hỏa cùng tiếng rầm rầm của các toa tàu chuyển bánh đập vào tai nó. “A ha!” nó nghĩ, “thế này thì may quá! Lúc này điều ta cần nhất trên đời là một nhà ga xe lửa; đã vậy ta lại không phải đi qua thị trấn để đến nhà ga và sẽ không phải minh chứng rằng mình chính là cái nhân vật đáng xấu hổ này bằng những lời đối đáp sắc sảo nữa, dù rằng những lời lẽ ấy tuy vô cùng hữu hiệu lại chẳng khiến con người ta có ý thức tự trọng hơn.”

Thế là nó rảo bước tới nhà ga, tra cứu một thời gian biểu và phát hiện rằng một chuyến tàu hỏa áng chừng đi về hướng quê mình sẽ khởi hành sau nửa giờ nữa. “Lại gặp may rồi!” thằng Cóc nói, phấn chấn hẳn lên, và đến ngay cửa bán vé để mua vé.

Nó nói tên nhà ga mà nó biết là gần nhất với cái làng có đặc trưng chủ yếu là Lâu đài Cóc, và lập tức đưa mấy ngón tay vào cái chỗ trước đây vẫn là túi áo gi lê của mình để tìm số tiền cần thiết. Nhưng tại đó, tấm áo choàng bằng vải bông bấy nay vẫn từng ủng hộ nó một cách cao thượng và bị nó hèn hạ lãng quên đã cản trở khiến những cố gắng của nó trở thành vô ích. Như trong một cơn ác mộng, nó vật lộn với cái vật lạ kỳ dường như đang níu lấy bàn tay nó khiến tất cả những nỗ lực cơ bắp của nó trở thành nhão nhoẹt và cười nhạo nó hoài. Trong khi đó, những hành khách khác xếp hàng phía sau và sốt ruột chờ đợi đang gợi ý ít nhiều về giá vé và bình phẩm ít nhiều về hoàn cảnh túng tiền. Cuối cùng, không hiểu vì sao – nó thật sự không hiểu bằng cách nào – nó đã phá tung các rào cản, đạt được mục tiêu, sờ được tất cả những chỗ mà các túi áo gi lê muôn thuở vẫn ở đấy và thấy – chẳng những không có tiền mà cũng chẳng có cái túi nào để mà đựng tiền, chẳng có cái áo gi lê nào để mang những cái túi cả!

Hoảng hồn, nó nhớ ra là đã bỏ lại cả áo khoác lẫn áo gi lê trong phòng giam cùng với sổ tay, tiền, chìa khóa, diêm, túi bút – tất cả những thứ khiến cho cuộc đời đáng sống, tất cả những thứ phân biệt một con vật nhiều tiền, chúa tể của tạo vật với những con vật thấp hèn hơn vì ít tiền hoặc không có tiền mà cứ ăn chơi nhảy múa một cách buông thả, chẳng được trang bị gì để bước vào trận đấu thực sự.

Trong hoàn cảnh khốn đốn, nó đành liều giải quyết dứt điểm vụ này, và, với sự trở lại của cung cách khoa trương ngày trước – sự pha trộn giữa một thổ hào và một ông giáo trung học – nó nói, “Nghe này, ta phát hiện ra là đã quên cái ví ở nhà. Xin ông cứ vui lòng đưa ta cái vé ấy rồi ngày mai ta sẽ gửi tiền đến trả. Ta nổi tiếng ở vùng này mà.”

Nhân viên bán vé tròn mắt nhìn nó cùng cái mũ mềm màu đen cũ bẩn một lát rồi phá ra cười. “Tôi phải cho rằng bà đã từng khá nổi tiếng ở vùng này,” ông nói, “nếu bà vẫn từng hay thử chơi cái trò này. Nào, xin quý bà vui lòng tránh ra khỏi cửa bán vé, bà đang cản trở những hành khách khác đấy!”

Một ông già lịch sự từ nãy cứ thúc vào lưng nó hoài, bây giờ đẩy bật nó ra, mà tệ hơn nữa, lão còn gọi nó là quý bà, điều đó khiến thằng Cóc uất người hơn bất kỳ chuyện gì đã xảy ra vào tối hôm đó.

Bối rối và hoàn toàn tuyệt vọng, nó lang thang không mục đích dọc thềm ga nơi đoàn tàu đang đỗ, nước mắt ròng ròng hai bên mũi. Thật là đau, nó nghĩ, khi đã sắp an toàn đến nơi và đã về gần đến nhà thì lại bị ngăn trở chỉ vì thiếu dăm đồng si-linh(28) chết tiệt và vì cái tính nghi ngời vặt của đám viên chức làm công ăn lương kia. Chẳng bao lâu nữa, việc nó vượt ngục sẽ bị phát hiện, cuộc săn đuổi sẽ bắt đầu, nó sẽ bị tóm cổ, bị sỉ vả và bị xiềng xích đầy mình, bị lôi trở lại nhà tù với bánh mỳ – nước lã và cái nệm rơm, số lính canh gác nó và các hình phạt dành cho nó sẽ tăng gấp đôi, và ôi chao, cô gái ấy sẽ có những lời bình phẩm châm chọc thật khủng khiếp! Biết làm gì bây giờ? Nó không nhanh chân, hình dáng nó thật không may là ai cũng nhận ra. Nó không thể chui vào gầm ghế ở một toa chở hành khách ư? Trước kia nó đã thấy bọn học sinh sử dụng phương pháp này khi khoản tiền đi đường mà các bậc phụ huynh chu đáo cung cấp đã bị chuyển sang các mục đích khác thú vị hơn. Còn đang cân nhắc, nó bỗng thấy mình đối diện với cái đầu tàu đang được viên lái tàu trìu mến tra dầu, lau chùi và vuốt ve. Đó là một người đàn ông lực lưỡng, một tay xách can dầu, tay kia nắm một túm vải vụn.

“Chào mẹ!” viên lái tàu nói, “Có chuyện rắc rối gì thế? Nom mẹ có vẻ không được vui lắm.”

“Ồ, thưa ông!” thằng Cóc vừa nói vừa lại bắt đầu khóc lóc, “Tôi là một bà thợ giặt nghèo khổ và bất hạnh. Tôi mất hết cả tiền và không thể trả tiền mua vé. Tối nay bằng cách nào tôi cũng phải về đến nhà mà tôi chẳng biết phải làm gì bây giờ. Trời ơi là trời!”

“Việc đó quả là gay đấy,” viên lái tàu trầm tĩnh trả lời. “Mất tiền – không về nhà được – mà còn có vài đứa trẻ chờ đợi bà, tôi dám chắc là thế?”

“Rất nhiều đứa cơ đấy,” thằng Cóc thổn thức. “Mà chúng nó sẽ bị đói, sẽ nghịch diêm – và sẽ đánh đổ những cây đèn, cái lũ trẻ ngây thơ ấy! – và còn cãi nhau và làm đủ chuyện nữa chứ. Ối trời ơi là trời!”

“Thôi được, tôi sẽ cho bà biết tôi sẽ làm gì,” viên lái tàu tốt bụng nói. “Bà bảo bà làm nghề thợ giặt, ra là thế. Rất tốt, thế là được rồi. Còn tôi là một viên lái tàu, như bà có thể thấy rõ, và không thể phủ nhận rằng đó là một công việc bẩn thỉu kinh khủng. Nó ngốn của tôi hàng lô áo sơ mi khiến bà xã nhà tôi giặt giũ đến mệt lử. Nếu khi về đến nhà, bà nhận giặt cho tôi vài chiếc sơ mi rồi gửi cho tôi, thì tôi sẽ cho bà đi nhờ trên đầu máy của tôi. Như thế là trái với nội quy của công ty, nhưng ở nơi xa xôi hẻo lánh này thì chúng ta cũng chẳng nên quá câu nệ làm gì.”

Nỗi khốn khổ của thằng Cóc bỗng chuyển thành niềm vui sướng vô ngần khi nó hăm hở trèo lên buồng lái trên đầu tàu. Cố nhiên nó chưa hề giặt một chiếc sơ mi nào trong đời, mà có cố giặt cũng chẳng được và dù thế nào thì nó cũng sẽ không bắt đầu thử làm công việc này, song nó lại nghĩ “Khi trở về an toàn tại Lâu đài Cóc, lại có tiền và có những túi áo để đựng tiền, mình sẽ gửi cho ông lái tàu thật nhiều để đủ trả công giặt giũ hàng đống quần áo, và làm như thế thì cũng vậy, hoặc còn tốt hơn cho ông ấy.”

Ông trưởng tàu vẫy cờ hiệu, viên lái tàu thổi còi hào hứng trả lời, và đoàn tàu rời ga. Trong lúc đoàn tàu tăng tốc và thằng Cóc có thể thấy những cánh đồng thật sự, nào là cây cối, bờ giậu, nào là bò, ngựa, tất thảy cứ vun vút lướt qua ở hai bên, và trong lúc nó còn đang nghĩ, mỗi phút trôi qua lại đưa nó gần hơn biết bao với Lâu đài Cóc, với những người bạn nhiệt tình, với những đồng tiền xủng xoảng trong túi áo, với cái giường êm ái để ngủ cùng những món ngon để ăn và những lời ca ngợi đầy cảm phục khi nghe nó kể lại những cuộc phiêu lưu và trí thông minh xuất chúng của mình, nó bỗng nhảy choi choi mà la hét và hát những khúc ca ngắn khiến viên lái tàu vô cùng ngạc nhiên vì trước kia thỉnh thoảng ông cũng bắt gặp những bà thợ giặt, nhưng chẳng có một ai giống bà này.

Họ đã vượt qua biết bao dặm đường, và thằng Cóc đã tính đến chuyện sẽ ăn món gì vào bữa tối ngay khi nó về đến nhà, thì nó để ý thấy viên lái tàu, vẻ mặt bối rối, đang nhoài mình sang một bên đầu tàu mà chăm chú lắng nghe. Rồi nó thấy ông trèo lên đống than mà chằm chằm nhìn ra bên ngoài qua nóc các toa tàu; sau đó, ông quay trở lại và nói với thằng Cóc: “Thật rất kỳ lạ; trong đêm nay chuyến tàu của chúng ta là chuyến cuối cùng chạy về hướng này, vậy mà tôi có thể thề là đã nghe thấy một chuyến tàu nữa đuổi theo chúng ta!”

Thằng Cóc lập tức dừng ngay các trò hề phù phiếm của mình. Nó trở nên nghiêm trọng và buồn nản, một cảm giác đau âm ỉ ở phần dưới sống lưng nó truyền sang đôi chân khiến nó muốn ngồi xuống mà cố hết sức không nghĩ đến tất cả mọi khả năng có thể xảy ra.

Lúc này vầng trăng đang tỏa sáng rực rỡ và viên lái tàu đang cố đứng vững trên đống than có thể nhìn thấy đường tàu dài tít tắp phía sau. Lát sau, ông ta gọi to: “Bây giờ tôi có thể nhìn rõ rồi! Đó là một đầu tàu, trên tuyến đường của chúng ta, đang chạy với tốc độ rất lớn. Có vẻ như chúng ta đang bị truy đuổi!”

Thằng Cóc khốn khổ bò rạp xuống nền bụi than, cố hết sức nghĩ xem có thể làm được một điều gì đó, nhưng ngán thay, lại không thể nào nghĩ ra được.

“Họ đang nhanh chóng tiến gần chúng ta!” viên lái tàu kêu to. “Mà cái đầu tàu ấy đầy những người nom rất kỳ cục! Những người giống như bọn cai ngục thời cổ đang vung những ngọn giáo; những viên cảnh sát đầu đội mũ sắt đang vung vẩy dùi cui; và những người ăn mặc xoàng xĩnh – hiển nhiên là các thám tử mặc thường phục, trộn cũng không lẫn được, thậm chí từ khoảng cách thế này – đang vung vẩy súng lục và ba-toong. Tất cả bọn họ đều đang vẫy vẫy và cùng hét lên như nhau – ‘Dừng lại! Dừng lại! Dừng lại!’ “

Nghe vậy, thằng Cóc quỳ ngay xuống giữa đống than, chắp hai tay giơ lên mà van xin, năn nỉ, “Hãy cứu cháu, ông lái tàu tốt bụng quý mến ơi, rồi cháu sẽ thú nhận mọi chuyện! Cháu không phải là bà thợ giặt khờ dại như cái vẻ bề ngoài của cháu đâu! Cháu chẳng có con cái nào đang chờ đợi cả, con thơ dại hoặc không thơ dại cũng đều chẳng có! Cháu là một con cóc – cái anh chàng Cóc nổi tiếng và được nhiều người mến mộ, một điền chủ; cháu vừa mới trốn thoát, nhờ sự táo bạo và trí thông minh tuyệt vời của mình, từ một ngục tối ghê tởm mà bọn kẻ thù của cháu đã ném cháu vào. Nếu mấy thằng cha trên cái đầu tàu kia mà bắt lại cháu thì sẽ lại là xiềng xích, bánh mỳ – nước lã và cái nệm rơm cùng nỗi đau khổ dành cho thằng Cóc tội nghiệp, bất hạnh và vô tội này thôi!”

Viên lái tàu cúi nhìn nó, vẻ rất nghiêm khắc, “Bây giờ hãy khai ra sự thực, vì sao mà anh bị bỏ tù?”

“Chẳng có chuyện gì nghiêm trọng lắm,” thằng Cóc tội nghiệp nói, mặt đỏ rừ. “Cháu chỉ mượn một chiếc xe hơi trong lúc các chủ nhân của nó đang ăn trưa, lúc ấy họ không cần dùng đến xe. Cháu không có ý định ăn trộm, thật đấy, nhưng người ta – đặc biệt là các vị quan tòa – lại có quan điểm khắc nghiệp đến thế về những hành động thiếu suy nghĩ và bốc đồng.”

Viên lái tàu nom có vẻ rất trầm trọng, nói, “Ta e rằng xưa nay anh quả thật là một con cóc ranh ma, và đúng ra ta phải giao nộp anh cho nền công lý bị xúc phạm. Song lúc này hiển nhiên là anh đang đau khổ và cùng quẫn, vì vậy ta sẽ không bỏ mặc anh. Thứ nhất, ta không dính dáng gì đến xe hơi, thứ hai, ta không thể đồng ý để bọn cảnh sát sai vặt khi đang ở trên cái đầu máy của mình. Vậy thì hãy vui vẻ lên đi, anh Cóc! Ta sẽ cố gắng hết sức, và chúng ta vẫn có thể thắng bọn họ!”

Hai bác cháu xúc lấy xúc để, cố chất thêm than; lò than cháy đùng đùng, những tia lửa bắn vụt lên, đầu máy nhảy chồm chồm và lắc lư, vậy mà những kẻ đuổi theo vẫn cứ dần dần tiến gần hơn. Viên lái tàu thở dài, lau trán bằng một túm giẻ, và nói, “Ta e rằng chẳng ăn thua gì, anh Cóc à. Anh thấy đấy, tàu của họ chở nhẹ và lại có đầu máy khỏe hơn. Bây giờ chúng ta chỉ còn có thể làm một việc duy nhất, mà đó là cơ may của anh, vì vậy anh phải rất chú ý những điều ta bảo. Có một đường hầm phía trước chúng ta một quãng không xa, và phía bên kia đường hầm đó thì tuyến đường chạy qua một khu rừng rậm. Nghe này, ta sẽ tăng tốc đến mức tối đa trong lúc chạy qua đường hầm, còn bọn kia sẽ chạy chậm lại chút ít, đương nhiên là thế, vì sợ gặp tai nạn. Khi qua hết đường hầm, ta sẽ đóng nồi hơi nước lại và hãm phanh thật mạnh, và đúng lúc an toàn để thực hiện việc đó thì anh phải nhảy ra và trốn trong rừng trước khi bọn họ vượt qua đường hầm và nhìn thấy anh. Sau đó, ta sẽ lại chạy hết tốc độ, và bọn họ có thể rượt đuổi ta nếu họ thích, muốn bao lâu tùy họ và xa bao nhiêu tùy họ. Bây giờ hãy chú ý và sẵn sàng nhảy khi ta bảo!”

Hai bác cháu lại chất thêm than, và đoàn tàu lao vút vào đường hầm, cái đầu tàu chạy ào ào, vừa gầm rú vừa kêu rầm rập, cho tới khi vọt ra khỏi đầu kia của đường hầm, lao vào không khí mát rượi cùng ánh trăng êm dịu, và hai bác cháu nhìn thấy khu rừng trải ra đem sẫm và thân thiện hai bên đường sắt. Viên lái tàu đóng nồi hơi và hãm phanh, thằng Cóc bước xuống bậc lên xuống, và khi đoàn tàu chạy chậm lại với tốc độ gần như người đi bộ thì nó nghe tiếng viên lái tàu ra lệnh, “Nghe này, nhảy!”

Thằng Cóc nhảy, lăn lông lốc xuống một bờ đắp ngắn, đứng dậy không hề hấn gì, rồi lủi vào rừng trốn.

Ghé mắt nhìn ra, nó thấy đoàn tàu của nó lại tăng tốc và khuất dạng ở mãi tít xa. Sau đó, từ trong đường hầm chiếc đầu tàu đuổi theo chạy ào ra, vừa gầm rú vừa huýt còi, đám người ô hợp trên đó vừa vung vẩy các vũ khí khác nhau của họ vừa hét, “Dừng lại! Dừng lại! Dừng lại!” Khi bọn chúng đi khỏi, thằng Cóc cười vang sung sướng – tiếng cười đầu tiên của nó kể từ khi nó bị quẳng vào nhà tù.

Song chẳng mấy chốc nó đã ngừng cười khi bắt đầu nghĩ rằng lúc này đã rất khuya, trời rất tối và lạnh mà nó lại ở trong một khu rừng xa lạ, không có tiền, không có cơ may được ăn bữa tối, vẫn còn cách xa nhà và bạn bè, và cái tĩnh lặng tuyệt đối của vạn vật tiếp sau tiếng gầm rú và rầm rập của đoàn tàu chừng mực nào đó cũng như một cú sốc. Không dám rời khỏi sự che chở của cây cối, vì vậy nó cứ bước đại vào trong rừng với ý định càng rời xa tuyến đường sắt ở phía sau càng tốt.

Sau bao nhiêu tuần lễ bị giam giữa bốn bức tường, nó cảm thấy khu rừng có vẻ xa lạ, không thân thiện và, nó nghĩ, lại còn muốn giễu cợt nó nữa. Những con cú muỗi phát ra những âm thanh lạch cạch vô cảm khiến nó nghĩ khu rừng đầy những cai ngục đang lùng sục và mỗi lúc một đến gần nó hơn. Một con cú trong lúc sà xuống nhẹ nhàng không gây chút tiếng động đã quệt cánh vào vai nó khiến nó giật nảy mình hoảng sợ vì tin chắc đó là một bàn tay, rồi lại lượn ra xa như một cánh bướm đêm, vừa bay vừa cất tiếng cười khe khẽ “hu! hu! hu!” mà thằng Cóc cho là rất vô duyên.

Một lần nó gặp một con cáo. Con vật này dừng bước, soi mói nhìn nó đầy vẻ châm chọc và nói, “Xin chào bà thợ giặt! Tuần này bà trả thiếu nửa đôi bít tất và một cái áo gối. Bà hãy cẩn thận đừng để xảy ra chuyện ấy nữa!” rồi vừa cười khẩy vừa khệnh khạng bỏ đi. Thằng Cóc nhìn quanh tìm một hòn đá để ném hắn mà chẳng tìm được hòn nào, khiến nó bực mình hơn bất kỳ chuyện gì khác. Cuối cùng, vừa đói vừa mệt lả, nó tìm ẩn náu trong một thân cây rỗng, tại đó nó lấy cành cây và lá khô cố làm cho mình một chiếc giường thật thoải mái và ngủ một giấc ngon lành cho tới sáng.

———————————————————————

26. Pound: đơn vị tiền tệ của người Anh, thời xưa được đúc bằng vàng – ND

27. Passport (trong nguyên tác): hộ chiếu – ND

28. Shilling: đơn vị tiền tệ của người Anh. Thời xưa, từ 1970 trở về trước, 20 shilling bằng 1 pound – ND