Cô Gái Đùa Với Lửa - Phần II - Chương 04 - Phần 1

PHẦN II: Yêu thương từ nước Nga

10 tháng Một - 23 tháng Ba

Nói chung, một phương trình mang một hay nhiều hơn cái gọi là ẩn số thường được biểu thị bằng x, y, z, v.v... Nếu các giá trị thay vào các ẩn số đó mà đem lại được đẳng thức cho giữa hai vế của phương trình thì ta nói là thỏa mãn được phương trình và có một nghiệm.

Thí dụ: 3x + 4 = 6x-2 (x = 2)

CHƯƠNG 4

Thứ Hai, 10 tháng Một

Thứ Ba, 11 tháng Một

Salander xuống sân bay Arlanda ở Stockholm hồi trưa. Cộng cả giờ bay cô đã qua chín tiếng ở sân bay Grantly Adams ở Barbados. Hãng British Airways chỉ cho máy bay cất cánh khi nào nó đã nhót ra được một hành khách dáng dấp có vẻ láng máng Ả Rập để chất vấn, xóa đi một mối đe dọa có thể có về khủng bố. Vào lúc hạ cánh xuống sân bay Gatwick ở London, cô đã bị lỡ mất chuyến bay chuyển tiếp tới Thụy Điển và phải chờ cả đêm rồi mới mua vé lại được.

Salander cảm thấy mình như một nải chuối đày nắng quá lâu. Tất cả đồ lề cô có chỉ là một túi du lịch đựng máy tính PowerBook, Các chiều kích và quần áo thay đổi. Cô qua cửa xanh của hải quan không phải kiểm tra an ninh. Khi ra ngoài đến các xe buýt con thoi của sân bay, cô đã được một trận mưa tuyết lạnh buốt chào đón trở về nhà.

Cô do dự. Cả đời cô đều phải chọn dùng thứ rẻ rúng nhất và cô thì chưa quen với ý nghĩ mình đang có trong tay hơn ba tỉ curon tháu được nhờ một cú đột nhập Internet phối hợp với trò gian lận kiểu cũ, ngon ơ. Sau một thoáng chịu rét ướt cô đã hê đi đời nhà ma các phép tắc mà vẫy một taxi. Cô cho người lái địa chỉ của cô trên đường Lundagatan rồi ngủ thiếp đi ở ghế sau.

Mãi tới lúc taxi ló ra trên đường Lundagatan và người lái lay gọi cô mới nhận ra cô đã cho địa chỉ cũ. Cô bảo ông ta cô đã đổi ý, ông cứ lái tiếp đến Gotgatsbacken. Cô cho ông ta một boa hậu hĩnh bằng đôla rồi chửi thề khi giẫm phải một vũng nước cống. Cô mặc jean áo phông và jacket vải mỏng. Cô đi xăng đan và bít tất sợi ngắn cổ. Cô len lén đi bộ lên cửa hàng 7 - Eleven mua ít dầu gội đầu, thuốc đánh răng, xà phòng, rượu kefir, sữa, pho mát, trứng, bánh mì, bánh quế cuộn đông lạnh, cà phê, trà nhúng Lipton, một hũ rau quả muối chua, táo, một bánh pan pizza cỡ lớn hiệu Billy và một bao thuốc lá Marlboro nhẹ. Cô trả bằng thẻ Visa Card.

Khi trở lại hè phố, cô phân vân đi ngả nào. Cô có thể đi bộ lên Svartensgatan hay xuống Hokens Gata để đến Slussen. Đi ngả Hokens Gata thì phiền là cô sẽ phải tạt qua cửa tòa soạn Millennium, có rủi ro đâm bổ vào Blomkvist. Cuối cùng cô quyết định cứ đi theo lối của mình để tránh anh. Cô đi bộ xuống tới Slussen tuy lối này xa hơn chút ít rồi quặt phải lên Mosbacke Torg bằng đường Hokens Gata. Cô cắt ngang quảng trường, đi qua tượng Chị Em ở trước nhà hát Sodra rồi cho chân leo đồi đến Fiskargatan. Cô đứng lại tư lự ngước nhìn lên tòa cao ốc chung cư. Không thật sự cảm thấy nó là “mái ấm”.

Cô nhìn quanh. Đây là một điểm hẻo lánh ở giữa đảo Sodermalm. Không có giao thông chạy qua, điều này hay cho cô. Dễ quan sát thấy ai đang đi đến khu vực. Vào mùa hè nó nổi tiếng với những người đi bộ nhưng vào mùa đông thì những ai ở đây đều là những người có công việc làm ở gần đó. Bây giờ khó mà nhìn thấy một ai - chắc chắn không có ai mà cô nhận được ra hay cô tạm hóng là sẽ nhận ra cô. Salander để túi hàng xuống mặt tuyết nát vữa để móc lấy chìa khóa. Cô đi thang máy lên tầng trên cùng, mở khóa cái cửa có biển đề tên V. Kulla.

Sau khi sở hữu một khoản tiền rất lớn và do đó độc lập về tài chính cho đến hết đời (hay là hết cái thời gian kéo dài mà cô có thể hy vọng đem lại cho ba tỉ curon), một trong những việc đầu tiên Salander làm là kiếm quanh quẩn lấy một căn hộ. Thị trường bất động sản là một thể nghiệm mới với cô. Trước đây cô chưa ném tiền vào bất cứ cái gì quan trọng hơn những món hữu dụng nhất thời mà cô có thể trả bằng tiền mặt hoặc mua theo kế hoạch trả dần hợp lý. Các món mua lớn nhất trước kia là các thứ máy tính rồi chiếc xe máy hạng nhẹ Kawasaki. Cô mua xe này với 7.000 curon - thật sự hời. Cô đã chi tương tự bằng thế nữa cho phụ tùng linh kiện và dành nhiều tháng ra tháo xe để đại tu nó. Cô đã muốn một xe hơi nhưng còn ngại vì không biết sẽ điều hòa việc đó ra sao với quỹ tiền của mình.

Cô nhận ra mua căn hộ là việc thuộc về một trật tự khác. Cô bắt đầu đọc các quảng cáo phân loại trong bản phát hành trên mạng của tờ Dagens Nyheter, cái tự nó đã là một môn khoa học, và cô phát hiện thấy:

1 phòng ngủ + phòng ăn, địa điểm kỳ ảo, gần Ga Sodra, 2,7 triệu curon.

3 phòng ngủ + bếp, cảnh quan quảng trường, Hogalid, 2,9 triệu curon.

2½ phòng ngủ 47 m2, buồng tắm cải tạo, mới đặt hệ thống ống dẫn 1998. Gotlandsgar. 1,8 triệu curon.

Cô đã gọi hú họa vài số điện thoại nhưng không biết cần hỏi những gì. Cô nhanh chóng thấy mình ngu ngốc nên ngừng hỏi thử. Thay vào việc gọi hỏi, một thứ Bảy đầu tiên của tháng Giêng, cô đã đi xem hai căn hộ những ngày công ty bất động sản mở cửa. Một căn ở Vindragarvagen, đường ra mạn trên Reimersholm, căn kia ở Helenborgsgatan gần Hornstull. Căn hộ trên đường Reimers là một chỗ bốn phòng sáng sủa trong một tòa tháp nhìn ra Langholmen và Essingen. Ở đây cô có thể hài lòng. Căn hộ ở Helenborgsgatan là một nhà thấp với cảnh quan là tòa cao ốc bên cạnh cửa ra vào.

Vấn đề là cô không quyết định được mình muốn sống ở vùng nào trong thành phố, căn hộ nên trông ra sao hay cô cần hỏi gì về căn nhà mới. Cô vẫn nghĩ đến ngả mua bốn mươi bảy mét vuông ở Lundagtan, nơi thời thơ ấu cô đã sống ở đó. Qua người đỡ đầu lúc ấy, luật sư Holger Palmgren, khi bước vào tuổi mười tám cô đã được cho sở hữu căn hộ này. Cô buông phịch người xuống chiếc sofa lồi lõm trong tổ hợp bàn giấy kiêm phòng khách của cô rồi bắt đầu suy nghĩ.

Căn hộ ở Lundagatan nhìn ra một cái sân. Nó tù túng và không dễ chịu chút nào. Từ giường ngủ cô nhìn ra một tường bảo vệ trên một mặt tiền có xà chống đỡ. Ở bếp nhìn ra là lưng một tòa cao ốc đối diện với đường phố và cửa vào một khu vực kho chứa ở dưới hầm ngầm. Ở phòng ngủ cô có thể nhìn thấy một ngọn đèn đường và dăm ba cành bạch dương.

Yêu cầu đầu tiên của căn nhà mới là nó nên có một vài cảnh quan nào đó.

Chưa từng có ban công, cô luôn thèm được như các hàng xóm giàu ở chung cư cao hơn vẫn hưởng những ngày ấm áp dưới mái hiên của họ với cốc bia lạnh. Yêu cầu thứ hai là căn hộ mới của cô sẽ phải có một ban công.

Căn hộ nên nom ra sao? Cô nghĩ đến căn hộ của Blomkvist - sáu mươi lăm mét vuông ở một không gian mở trong căn gác xép đã được cải tạo trên đường Bellmansgatan, với cảnh quan Tòa Thị chính và các cửa cống ở Slussen. Từng ở đấy cô đã thích căn hộ. Cô muốn có một căn hộ vui mắt, đồ đạc nội thất thưa thớt để dễ bề trông coi. Đây là điểm thứ ba trong danh sách yêu cầu của cô.

Trong nhiều năm cô đều phải sống chật chội. Bếp chỉ mười mét vuông, với chỗ đủ cho một cái bàn bếp tí teo và hai chiếc ghế tựa. Phòng khách thì hai mươi mét vuông. Phòng ngủ mười hai. Yêu cầu thứ tư của cô là căn hộ mới nên có nhiều không gian và cả tủ quần áo. Cô muốn có một bàn giấy đúng nghĩa là bàn giấy và một phòng ngủ to, ở đó cô có thể duỗi thẳng hết chân hết tay ra.

Buồng tắm của cô là một cái hộp không cửa sổ, sàn láng xi măng, một chỗ tắm bất tiện và giấy dán tường bằng chất dẻo thì bất kể cô làm gì, nó cũng không chịu sạch thật sự cho. Cô muốn sàn đá hoa và một bồn tắm to đùng. Cô muốn một máy giặt ở trong căn hộ chứ không phải là dưới gian tầng hầm nào đó. Cô muốn phòng tắm sạch sẽ thơm tho và cô muốn có cửa sổ để mở ra.

Rồi cô nghiên cứu quảng cáo của các công ty bất động sản trên mạng. Sáng sau, cô dậy sớm đến tham quan hãng Bất động sản Nobel, cái công ty mà theo một số người thì đang nổi tiếng nhất Stockholm. Cô mặc jean cũ màu đen, giày bốt và chiếc jacket da đen. Cô đứng ở quầy ngắm một phụ nữ tóc vàng khoảng ba mươi lăm tuổi đang vào mạng tìm địa chỉ Bất động sản Nobel và tải ảnh các căn hộ xuống. Một lúc lâu, một người đàn ông trung niên thấp, béo, tóc đỏ đi đến. Salander hỏi ông hiện đang có loại căn hộ nào. Ông ngạc nhiên ngước nhìn cô rồi lên giọng cha chú:

- Tốt, thưa quý cô, chuyện quý cô đang tính rời nhà đi thì bố mẹ quý cô có biết không đấy?

Salander quắc mắt nhìn ông ta cho tới khi ông ta thôi cười hi hí.

- Tôi muốn một căn hộ.

Ông ta đằng hắng liếc cầu cứu người đồng nghiệp ở quầy.

- Tôi hiểu. Cô đã nghĩ đến loại nào chưa?

- Tôi thích một căn hộ ở Soder, có ban công và trông ra mặt nước, ít nhất bốn phòng, một buồng tắm có cửa sổ và một phòng phụ. Và có một chỗ có thể khóa được để cất xe máy.

Người phụ nữ ở quầy ngước mắt chăm chú nhìn Salander.

- Xe máy? - Người đàn ông tóc thưa nói.

Salander gật.

- Tôi có thể biết... ơ... tên quý cô không nhỉ?

Salander nói. Cô hỏi tên ông, ông tự giới thiệu là Joakim Persson.

- Phải cái là tậu một căn hộ chung cư ở Stockholm đây thì khá đắt...

Salander chỉ hỏi ông ta có thể cung cấp loại căn hộ nào.

- Quý cô làm ở ngành nào chứ?

Salander nghĩ một lát. Xét cho cùng cô là người làm tự do; trong thực tế cô chỉ làm việc cho Armansky và An ninh Milton. Nhưng trong năm qua công việc có phần không đều đặn. Ba tháng vừa rồi cô không làm gì cho ông.

- Lúc này tôi không làm gì cả.

- Được, vậy thì... tôi cho là cô còn đi học.

- Không, tôi không đi học.

Persson đi vòng quanh quầy đến quàng tay khá hiền lành vào vai Salander, đi kèm cô ra cửa.

- Tốt, cô Salander, cô xem, vài năm nữa chúng tôi sẽ vui mừng đón cô đến nhưng cô nhớ mang theo một món tiền lớn hơn món hiện đang gửi trong cái ngân hàng hạng bét của cô. Sự thật là tiền trợ cấp hàng tuần không kham nổi chuyện này đâu. - Ông hồn nhiên bẹo má cô. - Vậy chờ lần sau cô quay lại, chúng tôi sẽ tìm cho cô một chỗ be bé mà đặt chân ha!

Salander đứng bên ngoài Bất động sản Nobel vài phút. Cô lơ đãng nghĩ cái ông sếp Persson thấp con kia sẽ nghĩ gì nếu như một chai bom xăng Molotov bay vèo qua cửa sổ nhà trưng bày của ông. Rồi cô về nhà mở máy tính.

Mất mười phút cô lẻn vào được mạng máy tính nội bộ của Bất động sản Nobel, sử dụng cái mật mã cô đã tình cờ nhìn thấy người phụ nữ ở quầy gõ vào phím để tải các bức ảnh xuống. Mất ba phút cô phát hiện ra cái máy tính mà người phụ nữ dùng thật ra cũng là máy chủ của công ty - sao đằng ấy kém thông minh thế hả? - rồi lại ba phút nữa để cô vào tất cả mười bốn máy tính trong mạng máy chủ của nó. Chừng hai giờ sau, cô đã đọc hết các ghi chép của Persson, phát hiện thấy trong vòng hai năm qua, ông ta có khoảng 750.000 curon ở khoản thu nhập gian lận không báo cáo cơ quan thuế.

Cô tải xuống tất cả các tệp tin cần thiết rồi gửi chúng cho cơ quan thuế qua một địa chỉ thư điện tử ẩn danh đặt máy chủ tại Mỹ. Rồi cô gạt Persson ra khỏi đầu mình.

Ngày hôm ấy cô bỏ thì giờ còn lại ra xem hết tài sản đã lên danh sách của Bất động sản Nobel. Món đắt nhất là một cung điện nhỏ ở bên ngoài Mariefred, nhưng cô không hám sống ở chỗ đó. Gần như nổi cơn hăng máu, cô chọn món đắt nhất tiếp theo, một tòa nhà đồ sộ cách Mosebacke Torg không xa.

Xem kỹ các bức ảnh và mặt bằng các tầng, cuối cùng cô cả quyết là nó đã thực hiện vượt mức các yêu cầu của cô. Trước đây nó thuộc sở hữu của giám đốc ASEA, công ty điện lực Brown Boveri, người đã lủi vào tối tăm sau khi hớt một món bổng bị lắm tranh cãi và phê phán gồm vài tỉ curon.

Tối hôm ấy cô điện thoại cho Jeremy MacMillan, đối tác trong công ty luật MacMillan & Marks ở Gibraltar. Trước đây cô đã làm ăn với MacMillan. Với một khoản phí thậm chí ông cho là hào hiệp, ông đã dựng nên các công ty ma để làm chủ sở hữu các tài khoản quản lý cho phần tài sản mà cô đã đánh cắp của nhà tài chính tham nhũng Hans - Erik Wennerstrom một năm trước đây.

Cô lại thuê dịch vụ của MacMillan, chỉ thị ông thương lượng với Bất động sản MacMillan dưới tên Công ty Vò vẽ để mua căn nhà trên đường Fiskargatan gần Mosebacke Torg. Mất bốn ngày cho chuyện này và cuối cùng con số ngã giá đã làm cô phải nhướng lông mày lên. Cộng 5 phần trăm hoa hồng cho MacMillan. Chưa hết tuần cô đã dọn đến với hai thùng quần áo, khăn lụa trải giường, một tấm đệm và vài dụng cụ nhà bếp. Cô ngủ trên tấm đệm trong tòa nhà liền ba tuần trong khi tìm hiểu các bệnh viện phẫu thuật thẩm mỹ, làm nốt một số việc cụ tỉ còn chưa xong (gồm có cuộc nói chuyện nửa đêm với một luật sư nào đó, Nils Bjurman) và trả trước tiền thuê chỗ ở cũ của cô cũng như hóa đơn điện và các chi tiêu khác trong tháng.

Rồi cô đặt vé cho chuyến đi đến bệnh viện ở Ý. Khi điều trị xong và đã ra viện, cô ngồi trong một phòng khách sạn ở Rome, nghĩ đến chuyện sẽ làm. Cô nên trở về Thụy Điển sống tiếp cuộc đời nhưng vì nhiều lý do cô không chịu nổi ý nghĩ trở về Stockholm.

Cô không có nghề gì thực sự. Cô có thể nhìn thấy cô không có tương lai ở An ninh Milton. Đó không phải lỗi của Armansky. Nhiều phần chắc chắn là ông muốn cô làm việc trong biên chế, trở thành một nhân viên đắc lực trong công ty, nhưng vào tuổi hai mươi lăm cô thiếu được học hành bài bản mà cô thì không mong thấy mình trong nhiều năm vẫn tiếp tục cần mẫn làm công việc điều tra các bọn lừa đảo trong thế giới tập đoàn. Là một thú chơi riêng thú vị thì được - còn công việc cả đời thì không.

Một lý do khác làm cô ngập ngừng quay về Stockholm là Blomkvist. Ở Stockholm cô có cơ vồ phải Kalle Nhắng Blomkvist, mà lúc này điều cuối cùng cô muốn làm chính là gặp lại anh. Anh đã làm tổn thương cô. Cô biết anh không có ý như thế. Anh đã xử sự khá đứng đắn. Để cho mình “phải lòng” anh là lỗi của cô. Cụm từ “phải lòng” hoàn toàn tương phản với Lisbeth Salander Đĩ điếm Trời đánh.

Blomkvist đã nổi tiếng đào hoa. Quá lắm cô chỉ là một trò giải trí hay hay, một người mà anh thương hại giữa lúc anh cần đến cô và chẳng còn ai tốt hơn nữa. Nhưng anh mau chóng trở thành một bạn đồng hành thú vị hơn. Cô tự rủa mình đã hạ thấp cảnh giác để cho anh bước vào đời mình.

Khi tỉnh ra cô đã cắt hết mọi liên hệ với anh. Chuyện này không dễ nhưng cô đã làm cho mình cứng rắn lên. Lần cuối cùng thấy anh, cô đang đứng trên sân ke xe điện ngầm ở Gamla Stan còn anh thì ngồi trên xe điện trên đường vào trung tâm thành phố. Cô đã nhìn anh đến cả một phút rồi quyết định là nó chẳng hề lưu lại một mảy may cảm giác nào ở cô vì nó sẽ lại làm cô chảy máu cho đến chết mà thôi. Xin cho dẹp nhà anh đi. Khi cửa xe đóng lại và đoàn xe chuyển bánh, anh đã trông thấy cô, đã nhìn cô với con mắt kiếm tìm.

Cô không hiểu tại sao anh lại bướng bỉnh cố giữ liên hệ với cô, tựa hồ cô là một dự án chăm sóc chết giẫm nào mà anh đã nhận gánh lấy. Việc anh quá yếu mềm như thế đã làm cho cô thấy phiền. Mỗi lần anh gửi email cho cô, cô lại buộc mình không đọc mà hủy luôn.

Stockholm xem vẻ không hấp dẫn chút nào. Ngoài việc làm tự do cho An ninh Milton, vài bạn giường chiếu đã thải và các cô gái trong nhóm rock cũ Những Ngón tay Ma quỷ ra, Salander ít biết ai ở thành phố quê hương mình.

Hiện nay người duy nhất cô kính trọng là Armansky. Định nghĩa tình cảm của cô với ông không dễ. Cô luôn cảm thấy êm đềm mà ngạc nhiên về việc cô đã bị ông cuốn hút. Giá ông không có vợ như thế, hay không già như thế, hay không bảo thủ như thế, có thể cô đã nghĩ tới việc lân la ngỏ lời.

Cô bèn lấy nhật ký ra, mở phần bản đồ thế giới. Cô chưa từng ở châu Phi, châu Úc. Cô đã nghe nói đến nhưng chưa nhìn thấy Kim tự tháp hay đền Angkor. Cô chưa đi phà qua giữa Kowloon và Victoria ở Hồng Kông. Cô chưa lặn với bình dưỡng khí ở vùng biển Caribbean hay ngồi trên bãi biển ở Thái Lan. Ngoài vài chuyến đi làm ăn vội vàng có ghé thăm vùng Baltic và các nước Bắc Âu lân cận, cũng như dĩ nhiên cả Zurich và London, cô ít rời Thụy Điển. Thực tế là cô hiếm khi ra khỏi Stockholm.

Thời trước cô không thể cho phép mình làm chuyện ấy. Cô đứng ở cửa sổ phòng khách sạn nhìn sang Via Garibaldi ở Rome. Thành phố nom như một đống hoang phế. Rồi cô quyết định. Cô mặc jacket đi xuống gian sảnh hỏi liệu có công ty du lịch nào gần đó. Cô đặt một vé đi Tel Aviv rồi mấy ngày sau đi bộ khắp Thành cổ ở Jerusalem và tham quan nhà thờ Hồi giáo al - Aqsa cùng bức tường Than thở. Cô chán nản nhìn lính tráng lăm lăm súng ống ở các ngã tư rồi cô bay đến Bangkok, sau đó du lịch tiếp cho hết năm.

Có một việc cô phải làm thật sự. Cô đến Gibraltar hai lần. Lần thứ nhất để tìm hiểu sâu về con người cô đã chọn trông nom tiền bạc cho cô. Lần thứ hai để xem xét thấy ông ta đang làm tử tế việc này.

Sau một thời gian dài như thế, cô cảm thấy khá lạ lẫm khi quay chìa khóa vào ngôi nhà của chính mình trên đường Fiskargatan.

Cô để bịch hàng họ và túi quàng vai xuống rồi gõ mã bốn con số để tắt báo động chống trộm. Cô cởi quần áo ướt ném xuống sàn gian sảnh. Cô trần truồng đi vào bếp, cắm điện tủ lạnh, lấy thực phẩm ra rồi vào buồng tắm, đứng mười phút dưới vòi hoa sen. Cô ăn bữa đó với một bánh pan pizza hiệu Billy mà cô đã hâm trong lò vi sóng và một quả táo cắt mỏng. Cô mở một trong mấy thùng đem theo tìm một chiếc gối, vài tấm khăn trải giường và một chiếc chăn có mùi đáng ngờ sau cả năm bị đóng thùng cất đi. Cô rải đệm làm giường trong gian phòng cạnh bếp.

Đầu vừa chạm gối được mười tích tắc là cô ngủ ngay lập tức và ngủ suốt mười hai giờ liền. Rồi cô dậy, mở máy pha cà phê, quấn một cái chăn quanh người, ngồi lên một chiếc ghế bên cửa sổ trong bóng tối, hút một điếu thuốc lá, nhìn ra phía Djurgarden và Saltson, mê mẩn với ánh đèn.

Ngày sau hôm Salander về nhà là một ngày trọn vẹn. 7 giờ sáng cô khóa cửa ngôi nhà. Trước khi rời đi, cô mở cửa sổ thông gió trong giếng cầu thang, cột chiếc chìa dự trữ vào một sợi dây đồng nhỏ mà cô đem buộc vào phía tường của đai kẹp giữ ống dẫn nước. Kinh nghiệm dạy cô là phải khôn ngoan luôn có một chiếc chìa dự phòng.

Không khí bên ngoài lạnh buốt. Salander mặc quần jean mỏng cũ, túi quần sau đã bị toạc để lộ ra chiếc quần lót chẽn ở đầu gối màu lam của cô. Cô mặc áo phông và một áo cổ chui ấm áp, diềm cổ đã bắt đầu sờn. Cô cũng lại thấy lại chiếc jacket da có tán đinh trên vai và đã bị mài bợt rồi quyết định cần nhờ thợ may sửa vì lớp lót trong túi gần như đã không còn tồn tại. Cô đi bốt nặng và bít tất dày. Tóm lại cô thấy ấm và dễ chịu.

Cô đi bộ xuôi St. Paulsgatan xuống Zinkensdamm rồi đến căn hộ cũ của cô ở đường Lundagatan. Trước hết cô kiểm tra xem chiếc Kawasaki có còn ở dưới tầng hầm không. Cô vỗ vỗ yên xe rồi đi lên căn hộ. Cô đã phải đẩy cánh cửa ra vào, nó bị một núi thư rác chẹn mất.

Năm ngoái khi rời Thụy Điển, chưa chắc chắn sẽ làm gì với căn hộ nên giải pháp đơn giản nhất cho cô là sắp đặt các lệnh chi tiền trả cho các biên lai đều kỳ của cô. Đồ đạc nội thất vẫn còn ở căn hộ, chúng đã được thu gom cần cù qua năm tháng từ các kho, các thùng đựng của đồng nát cùng với mấy cái cốc mẻ, hai máy tính cũ hơn và một lô giấy. Chả có cái gì giá trị.

Cô lấy ở trong bếp một túi lót thùng rác màu đen rồi bỏ năm phút lựa trong đống thư rác ra các thư thật. Phần lớn đống thư đi thẳng vào túi rác. Có một ít thư cho cô, chủ yếu là các bản sao kê từ ngân hàng, đơn khai thuế của An ninh Milton. Một cái lợi của việc sống trong chế độ bảo hộ là cô không phải xử lý các vấn đề thuế má - hoàn toàn không thấy thư từ gì về thuế. Ngoài ra chỉ có ba thư cá nhân của cô.

Thư đầu tiên là của một bà luật sư, Greta Molander, người chấp hành di chúc của mẹ cô. Bức thư nói gia sản của mẹ cô đã được giải quyết, Lisbeth Salander và em gái cô, Camilla, mỗi người được thừa kế 9.312 curon. Khoản tiền nói trên đã được chuyển đến tài khoản ngân hàng của cô Salander. Cô có vui lòng xác nhận biên lai giúp cho không? Salander nhét bức thư vào túi trong jacket.

Bức thứ hai của Mikaelsson, Giám đốc nhà dưỡng lão Appelviken, bức thư thân mật gợi nhớ lại việc cô và ông đóng cất đồ dùng cá nhân của mẹ cô vào một cái thùng. Cô có vui lòng liên hệ với Appelviken để bảo cho biết cô định làm gì với các món này không? Bức thư kết thúc với lời nhắc nếu đến cuối năm họ không có tin gì của Salander hay em gái cô (mà họ không biết địa chỉ), họ sẽ không có cách nào khác - do tính trước hết đến khoảng cách - là phải bỏ chúng. Thấy bức thư đề tháng Sáu, cô bèn lấy điện thoại di động. Cái thùng vẫn còn ở đấy. Cô xin lỗi đã không trả lời sớm hơn, hứa ngày mai sẽ đến lấy nó.

Bức thư cuối cùng của Blomkvist. Nghĩ một lát rồi quyết định không mở xem, cô ném nó vào túi rác.

Cô chất đầy các món khác nhau cùng các đồ linh tinh lang tang mà cô muốn giữ vào một thùng khác rồi gọi taxi quay về Mosebacke. Cô làm chút cải trang, đeo kính và đội một bộ tóc giả màu vàng dài ngang vai, cho vào túi xách một hộ chiếu có tên Irene Nesser. Cô nhìn mình trong gương, thấy Irene Nesser có tí ti giống Lisbeth Salander nhưng vẫn cứ là một con người khác.

Sau một bữa trưa ăn nhanh với bánh mì đũa và pho mát brie Pháp cùng một cà phê latte ở quán Café Eden trên đường Gotsgatan, cô đi xuống hãng xe thuê ở Ringvagen, ở đây với tên Irene Nesser cô thuê một chiếc Micra Nissan. Lisbeth lái đến cửa hàng Ikea ở Kungens Kurva, bỏ ba giờ ra tỉ mỉ duyệt xem mặt hàng, viết ra số lượng các món cô cần. Cô nhanh chóng cho ra mấy quyết định.

Cô mua hai sofa Karlanda màu cát, năm chiếc ghế có tay Poang, hai bàn tròn bằng gỗ bạch dương sơn mài, một bàn cà phê Svansbo và mấy chiếc bàn nhỏ Lack dự phòng. Ở gian hàng hòm tủ và đồ chứa đựng, cô đặt mua hai giá liên hoàn Ivar, hai giá sách Bonde, một tivi đứng và một giá Magiker có cửa. Cô trả tiền một tủ quần áo ba cánh Pax Nexus và hai bàn giấy nhỏ Malm.

Cô bỏ nhiều thời gian ra chọn giường rồi quyết định mua một chiếc có khung cùng với đệm và các bàn cạnh giường. Cho yên tâm cô cũng mua một chiếc giường Lillehammer để kê ở buồng dự phòng cho khách. Cô không có ý mời ai đến ở nhưng do có buồng trống thì cô cũng có thể kê giường vào đó. Buồng tắm trong ngôi nhà mới đã được trang bị một tủ thuốc, tủ khăn tắm và một máy giặt mà các chủ trước để lại. Cô chỉ phải mua mỗi một cái giỏ đựng quần áo cần giặt.

Nhưng thứ cô cần là đồ bày trong bếp. Suy nghĩ một ít, cô quyết định mua một bàn bếp Rosfors bằng gỗ sồi rắn đanh với một tấm kính đã tôi phủ lên trên và bốn ghế bếp nhiều màu.

Cũng cần đồ nội thất cho văn phòng, cô đã ngó đến nhưng chưa ưng một vài “trạm làm việc” với các tủ thông minh để cất giữ máy tính, bàn phím. Cuối cùng lắc đầu, cô đặt mua một bàn giấy thông thường, một bàn Galant lát gỗ sồi với một đầu có góc cạnh còn bốn mép thì tròn cùng một tủ lớn đựng hồ sơ. Cô dành nhiều thời gian chọn một ghế văn phòng - mà chắc chắn cô sẽ bỏ nhiều thì giờ ra ngồi ở đó - rồi lựa một thứ trong những thứ đắt nhất, chiếc ghế kiểu Verksam.

Cô la cà hết nhà kho mua một khoản tú ụ những khăn giường, áo gối, khăn mặt, chăn lông chim, chăn len, gối, một hộp dao kéo bằng thép không gỉ mới ra mắt lần đầu, ít bát đĩa, xoong chảo, mấy cái thớt, ba thảm to, vài đèn làm việc cùng một số lượng lớn văn phòng phẩm - cặp ba dây, hộp hồ sơ, sọt rác, hộp lưu trữ, v.v...

Cô trả tiền bằng một thẻ mang tên Công ty Vò vẽ rồi đưa cho xem thẻ căn cước của Irene Nesser. Cô cũng trả tiền công đóng gói và giao hàng tại nhà. Biên lai lên hơn 90.000 curon.

Năm giờ chiều cô về lại Soder và có thời gian tham quan chốc lát cửa hàng Điện gia dụng Axelsson, ở đây cô mua một tivi 48 inch và một radio. Ngay trước giờ đóng cửa, cô đã lẻn vào một cửa hàng ở Hornsgatan mua một máy hút bụi. Ở chợ Mariahallen, cô mua chổi lau sàn, nước rửa bát đĩa, một cái xô, ít chất tẩy, xà phòng rửa tay, bàn chải đánh răng và một bịch giấy vệ sinh to tướng.