Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng - Chương 02 - Phần 3

Dù thế nào đi nữa. Điều Walton không nhớ là cái cảm thức rằng bố anh chính là căn nguyên của những rắc rối và bất mãn trong gia đình. Không, là Eustace mới đứng. Eustace luôn là rắc rối. Từ khi còn nhỏ xíu anh đã làm cho mọi thứ nặng nề hơn mức cần thiết. Anh sưng sỉa, buồn bã, cứng đầu, và anh “không làm bài tập về nhà”. Bố thất thường và nghiêm khắc, phải, nhưng có thể đấu dịu bố bằng cách vâng lời. Với cả Walton lẫn Martha, những học sinh xuất sắc luôn đứng đầu lớp, thì giải pháp cho những bất hạnh của gia đình thật quá rõ ràng: nếu Eustace nổi bật ở trường, bố sẽ rất vui. Nếu Eustace thôi cứng đầu cứng cổ, bố sẽ không còn quát mắng mẹ và mọi người khác trong nhà.

“Tại sao anh không thể cho bố chút uy quyền?” Walton gặng hỏi Eustace nhiều năm sau đó. “Tại sao anh không thể nhún nhường? Tại sao ngay từ khi còn chập chững anh đã luôn phải làm mọi thứ theo ý mình chỉ để chọc giận bố? Tại sao anh luôn phải đối đầu vói bố và làm cho bố phát điên lên?”

Tuy nhiên khi được yêu cầu đưa ra ví dụ, Walton chẳng thể nhớ nổi một dẫn chứng nào cho thấy Eustace từng đối đầu vói bố. Thế nhưng anh vẫn cảm thấy rõ ràng điều đó hẳn đã xảy ra. Thực sự, hình ảnh Eustace trong đầu Walton như một kẻ hung hăng thách thức bố mình, như một kẻ đối nghịch cứng đầu cứng cổ và xứng tài cân sức (“ngay từ khi còn chập chững”) cũng là hình ảnh mà ông Conway mô tả và là hình ảnh cố định dai dẳng trong cả mấy đứa em. Tuy nhiên, ý niệm về một Eustace Con hiếu chiến không hề nhất quán với lời kể của những người lớn không phải trong gia đình tới thăm nhà Conway trong những năm đó. Ông Stout ở Viện bảo tàng Scheile nhớ đã được mời tới nhà Conway ăn tối, khi ấy ông quan sát cậu bé Eustace ăn trong lặng im như gỗ đá, tuân phục, căng thẳng và cẩn thận cố sao cho “không bao giờ chạm mắt b

Một người cô của Eustace nhớ lại có hôm cô tới chơi, ông Conway đã đánh thức cậu bé lên bốn Eustace vào lúc khuya muộn và dẫn cậu xuống nhà dưới để gặp cô, rồi tung ra những bài toán khó và bắt cậu phải giải. Mỗi lần Eustace Con trả lời sai, cậu sẽ bị Eustace Cha cười nhạo và châm biếm, bởi vì cuộc chiến bằng ngôn từ này được xem là trò mua vui cho khách, xin nhớ cho. Và cứ thế trò đó tiếp diễn, không ngừng không nghỉ, cho đến khi cậu bé òa lên tức tưởi, tới lúc ấy thì người cô bỏ đi, thầm nghĩ cô không thể nhìn cảnh này thêm một chút nào nữa, thầm nghĩ đây là “sự hành hạ tàn độc nhất đối với trẻ em” mà cô từng chứng kiến, và tự hứa cô sẽ không bao giờ quay lại ngôi nhà này nữa.

Và, cũng giống như ông Stout, cô nhớ hình như Eustace Con không có lúc nào trong đêm đó nói vói bố bất kỳ câu gì kiểu như “Thôi đi bố”.

Tuy nhiên, khi nhớ lại lúc nghe bố dọa đánh anh trai bầm máu, Walton tự hỏi, Lúc đó Eustace đã làm gì khiến bố giận dữ đến thế? Khi nhớ lại lúc nghe bố dọa bổ rìu ngập tim mẹ, Walton nghĩ, Chắc chắn bố mẹ lại đang cãi nhau về Eustace. Và nếu Eustace bị nhốt trong phòng nhiều giờ không có đồ ăn nước uống, À lần đó anh ấy hẳn đã cư xử gì đó tệ hại vô cùng.

Có lẽ phần khó hiểu nhất trong câu chuyện này là người mẹ đã ở đâu trong suốt tất cả nỗi đau đó. Làm sao mà Karen Conway - một thời là Karen Johnson, cô gái ngổ ngáo kiên cường, vô địch cưỡi ngựa, có sức khỏe dẻo dai của người đi rừng, đã từng bán cây sáo bạc để lấy lộ phí đi Alaska khi mới hai mươi hai tuổi - có thể thành ra một phụ nữ không bảo vệ nổi con mình? Tại sao bà không bao giờ che chở được Eustace Con trước Eustace Cha?

Bây giờ chính bà cũng không thể giải thích nổi. Đó chính là những bí ẩn của hôn nhân, tôi nghĩ thế, và chính là những bi kịch gia đình. Giờ đây bà Conway nói bà đã sợ chồng. Bà đã phải hứng chịu nhiều hành hạ cùng một kiểu không khác gì cậu con trai. (Chồng bà dường như không thích thú gì hơn là xúi mấy đứa con cười nhạo mẹ chúng bằng cách gọi bà là “con hà mã béo bự”.) Bạn bè và gia đình khuyến khích bà rời bỏ cuộc hôn nhân, nhưng bà không bao giờ có can đảm đi đâu lâu. Một phần là bởi lòng trung thành của bà Conway với giáo lý Cơ đốc, nó khiến bà tin chắc rằng ly hôn là trọng tội. Và một phần trong chuyện này là bởi... ai mà biết được? Ai mà hiểu được tại sao phụ nữ ở lại? Bà còn nhớ rõ cứ khi nào bà cố bảo vệ con thì chỉ khiến chồng bà thêm nổi khùng mà phạt nặng Eustace Con hơn nữa. Vì thế bà sớm quyết định tốt hơn hết là không can ngăn hay cản trở.

Thay vào đó, bà nghĩ cách kín đáo giúp cậu con trai. Tuồng như Eustace là một nhà bất đồng chính kiến đang chịu án biệt giam trong một nhà tù của chế độ toàn trị, bà sẽ “luồn” những lời cổ vũ động viên tới cậu, từ dưới khe cửa hoặc qua những vết nứt trên tường. Đôi khi bà còn nhét cả những mẩu giấy vào cho cậu (“với tình yêu từ người tin tưởng con và thương con nhiều nhất…”), và bà cũng kín đáo thể hiện niềm yêu thương với cậu khi không có ai nhìn nhỏ. Bà trao cho cậu các kỹ năng cùng sự tự do để khám phá rừng xanh, nơi cậu không chỉ có thể thể hiện khả năng vượt trội, mà còn được hít thở trong cảm giác an toàn được xa khỏi con ngõ bão táp là chính ngôi nhà mình. Và điều mà bà cũng đã trao cho cậu con trai, quan trọng hơn bất kỳ gì khác, là ý niệm ẩn mật nhưng dai dẳng rằng bất kể người cha có làm gì hay nói gì, Eustace Robinson Conway IV lớn lên sẽ trở thành Người Mang Sứ Mệnh.

Thuyết Người Mang Sứ Mệnh không phải là phát kiến của Karen Conway. Bà hấp thu ý tưởng đó từ cha mình, một nhà lý tưởng chủ nghĩa phi thường tên là C. Walton Johnson. Nhân vật này, ông ngoại của Eustace, là một cựu binh Thế chiến Thứ nhất, tính tình cương trực, được mọi người gọi là Tư lệnh. Ngay sau khi từ cuộc chiến trở về nhà, Tư lệnh Johnson thành lập chi nhánh Bắc Carolina của hội Nam Hướng đạo Mỹ. Ông muốn làm việc với các cậu bé bởi trong ông dấy lên mạnh mẽ một ý niệm – không, từ giờ chúng ta hãy gọi đó là một niềm tin bất di bất dịch, mang tính giáo điều - về tiến trình mà theo đó những cậu trai bé nhỏ ốm yếu có thể được chuyển hóa thành những Người Mang Sứ Mệnh đầy uy lực. Ông tin sự tiến triển này được hoàn thành tốt nhất trong những thử thách của môi trường kiểu vùng biên, và giống như nhiều người Mỹ trước và sau ông, ông lo sợ sự biến mất của rừng núi hoang dã sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của tư chất đàn ông Mỹ. Và Tư lệnh Johnson không có ý định khoanh tay làm ngơ để những thiếu niên Mỹ lớn lên trở nên kiệt quệ, suy đồi và hư hỏng bởi “ảnh hưởng của thành thị làm hạn chế tầm nhìn và nhu nhược hóa con người”.

Không, thưa quý vị. Dưới sự coi sóc của ông thì không thể như vậy.

Ban đầu hội Nam Hướng đạo ở Bắc Carolina là một khởi sự tốt đẹp, nhưng Tư lệnh chẳng mấy chốc đã vỡ mộng với chương trình đó, cảm thấy nó chỉ làm cho các cậu bé hư thân thêm. Bởi vậy, vào năm 1924, ông thành lập một trại hè tư nhân hết sức nghiêm khắc trên mảnh đất vùng núi 125 mẫu gần thành phố Asheville. Ông đặt tên là [5] Cho Thiếu Niên: Nơi Người Yếu Trở Nên Mạnh và Người Mạnh Trở Thành Vĩ Đại. (Thật không may, chẳng có ghi chép nào cho biết đã từng có Người Yếu trở thành Người Vĩ Đại hay chưa, nhưng tôi sẵn sàng đánh cược rằng họ đã cố gắng để được vậy.) Ông đòi hỏi các trại viên và nhân viên duy nhất một điều: họ sẽ không ngừng nỗ lực để đạt được sự hoàn thiện về thể chất, tinh thần và trí tuệ trong mọi mặt cuộc sống của họ. Bấy giờ, và chỉ bấy giờ, họ mới có thể trở thành Người Mang Sứ Mệnh.

[5] Sequoyah (khoảng 1767-1843): một thợ bạc người Cherokee (một nhánh của tộc người Iroquois bản địa sống ở phía Đông miền Nam nước Mỹ). Ông đã sáng tạo ra hệ chữ cái Cherokee, giúp mọi người có thể đọc và viết ngôn ngữ này. Sequoyah được xem là người bản địa duy nhất đưa được ngôn ngữ mẹ đẻ đến với cộng đồng bằng cách này.

“Thời nào cũng cần có Người Mang Sứ Mệnh,” Tư lệnh viết, trong một trong nhiều cuốn tiểu luận đã được xuất bản của ông về đề tài này, “và mỗi thời đại đều có một số người sẽ đáp ứng được nhu cầu ấy, ví như Aristotle, Galileo, và Wilson… Những người này tin họ là Người Mang Sứ Mệnh, và tự chuẩn bị cho nhiệm vụ đặt ra trước mắt. Họ bị ghìm chặt bởi một sự cưỡng bách mà họ không thể chối từ. Không ai có thể trở thành Người Mang Sứ Mệnh trừ phi anh ta tin, với niềm tin không thể lay chuyển, rằng anh ta là nhân tố không ai thay thế được kiến tạo nên xã hội trong thời mình. Quá ngạo mạn? Không! Chỉ là một cảm thức sứ mệnh và sự can trường để theo đuổi đến cùng. Kẻ nào bị thôi thúc bởi một niềm xác tín nội tại rằng anh ta có một sứ mệnh phải hoàn thành, rằng anh ta được sinh ra vì mục đích này, anh ta phải và sẽ theo đuổi đến cùng; kẻ đó sẽ là Người Mang Sứ Mệnh.”

Tư lệnh tin rằng cách tốt nhất để trang bị cho những nhân vật anh hùng như thế là khởi đầu từ người trẻ, và trong rừng hoang. Rốt cuộc, ông viết, “những cậu bé Mỹ đích thực đã thừa hưởng quá nhiều tinh thần của người khai khẩn tiên phong nên không thể cảm thấy thoải mái khi ru rú trong thành phố”. Thế nên ông đề nghị các bậc cha mẹ giải phóng con trai mình khỏi “sự căng thẳng cảm xúc trong đời sống” và đưa chúng đến “một Khu trại có Mục đích”, nơi “sự hùng vĩ của núi rừng” kết hợp với sự chỉ bảo của những người hướng dẫn được giám đốc lựa chọn dựa trên “ đầy tinh thần trách nhiệm, thông minh, lành mạnh, chín chắn” sẽ giúp các thiếu niên khôn trưởng, “như tự nhiên và Chúa trù định, có được tầm vóc viên mãn của người đàn ông.”

Trại Sequoyah không phải một kiểu Trại Thanh Thiếu Niên Hitler. Tư lệnh tin rằng, thông qua việc tham dự Trại Sequoyah, không một cậu bé nào trên đất Mỹ, bất kể ốm yếu hay kém hoàn thiện ra sao (hay bất kể chủng tộc hay tôn giáo nào, dù điều này thật kỳ cục, thời đại này mà vẫn thế), bị tước bỏ cơ hội trở thành Người Mang Sứ Mệnh. Con trai bạn là một “cậu bé thường xuyên khỏe mạnh” vốn đã may mắn có được “thể chất tuyệt vời” ư? Thế thì, cậu ấy sẽ từ Sequoyah trở về “với những khả năng xuất chúng nhân lên gấp bội.” Con trai bạn “quá khôn, sưng sỉa và đôi khi trái khoáy?” Đừng chần chừ cho cậu bé vào Sequoyah; không khí trong lành sẽ dạy cậu bé “sự cần thiết phải phát triển thể chất và giữ cho nó ngang tầm với trí tuệ”. Con trai bạn “nhút nhát, rụt rè và khó kết bạn?” Sequoyah sẽ dạy cho cậu bé hòa nhập cộng đồng. Con trai bạn là một đứa đầu bò đầu bướu? Các hướng dẫn viên của Sequoyah sẽ dạy cho cậu bé rằng bắt nạt người khác là “hèn hạ và đáng khinh”. À, ngay cả khi con trai bạn “béo bệu và chuyên bị trêu chọc”, Trại Sequoyah là nơi thằng bé nên đến, nếu không phải để có một vóc dáng tuyệt vời thì chí ít cũng để học cách “biết đùa và suy nghĩ tích cực khi bị trêu chọc.”

Mẹ Eustace Conway là con gái duy nhất của Tư lệnh Johnson. (Có một bức ảnh tuyệt đẹp chụp Sequoyah vào thập niên 1940, với toàn trại tập hợp lại thành từng hàng theo tuổi. Tất cả là những người đàn ông đứng thẳng tắp và những cậu con trai để tóc húi cua nghiêm chỉnh cười tươi rói với máy ảnh; chỉ có một ngoại lệ - bé gái tóc vàng óng, mặc váy trắng, ngồi giữa cả nhóm, con gái của Tư lệnh, mẹ của Eustace, lúc đó lên năm.) Karen lớn lên ở Trại Sequoyah, bao bọc không chỉ bởi núi rừng và các cậu trai, mà còn bởi những lý tưởng. Bà yêu cha mình, và hơn các anh trai mình, bà ngoan ngoãn tiếp nhận đức tin của cha. Khi đến tuổi kết hôn, bà thậm chí đã chọn một hướng dẫn viên được cha mình yêu mến làm chồng. Bà phải lòng chàng Eustace Conway III sáng láng, người mà, với kỷ luật cá nhân nghiêm khắc, phong thái uyển chuyển tự nhiên, tấm bằng Học viện Công nghệ Massachusetts, và tình yêu tha thiết với thiên nhiên, chắc hẳn đúng là hiện thân của những nguyên tắc mà Tư lệnh nâng niu nhất.

Và mặc dù chồng bà dẹp qua bên những mơ ước giảng dạy về thế giới tự nhiên khi ông bước vào đời đi làm, bà không bao giờ đánh mất đức tin của mình vào rừng. Thế nên khi cậu con trai đầu lòng chào đời, không có gì băn khoăn về chuyện bà sẽ nuôi dạy cậu ra sao. Tự do, đầy thách thức, đầy nghị lực thực hiện được những kỳ công phi thường, và luôn sống giữa thiên nhiên. Chính nhờ bàn tay của mẹ mà năm lên bảy Eustace có thể ném dao đủ chính xác để găm phập một con sóc chuột vào thân cây. Và hạ một con sóc đang chạy cách xa mười lăm mét bằng bộ cung tên, năm anh lên mười. Và đi vào rừng, một mình với hai bàn tay không, khi anh lên mười hai, sống được ở đó và xây cho mình một cái chòi.

Trong khi ông Conway cứ kiên trì nói cho cậu bé Eustace rằng cậu là một đứa ngớ ngẩn nhu nhược tới cỡ nào, bà Conway lại ngày ngày tới thư viện mang về từng chồng từng chồng ngày càng cao những cuốn tiểu sử về những người Mỹ trứ danh cho Eustace đọc. George Washington, Davy Crockett, Daniel Boone, Abraham Lincoln, Kit Carson, John Frémont, Andrew Jackson, Geronimo, Red Cloud, Bò Ngồi - những câu chuyện chân thực, quả cảm về chủ nghĩa anh hùng và núi rừng hoang dã và sự ngoan cường. Đây là những cuộc đời ta phải cố gắng noi theo, bà nói vói con trai như vậy, khi Eustace Cha không nghe thấy. Đây là kiểu đàn ông mà con có thể trở thành: Người Mang Sứ Mệnh.

Eustace Conway là một người có tư duy đơn giản, ít tưởng tượng ngay từ khi còn nhỏ (đặc biệt là lúc nhỏ), và cậu hấp thụ bài học từ những câu chuyện đó một cách nguyên thuần như thể mẹ cậu đang kê một chiếc phễu vào tai cậu và rót chúng thẳng vào trong não cậu. Khi cậu đọc thấy những dũng sĩ da đỏ thử thách khả năng chịu đựng của tinh thần và thể chất bằng cách chạy hàng dặm trường băng qua sa mạc, ngậm nước trong miệng mà không nuốt, cậu đã thử chạy hàng dặm trong rừng với cách tương tự. Khi cậu đọc thấy những tráng sĩ vùng biên thường mặc độc một chiếc quần da hoẵng trong suốt nhiều năm liền, cậu quyết định làm cho mình một chiếc và không bao giờ mặc gì khác. Khi cậu đọc thấy Lewis và Clark[6] mang theo nhiều giấy mực cũng nhiều như thức ăn và đạn dược trong chuyến thám hiểm, cậu bắt đầu ghi nhật ký. Khi cậu đọc về một dũng sĩ da đỏ - bị thương và bị bỏ rơi với một viên đạn xuyên gối - rớt lại phía sau chiến tuyến quân thù trong một trận đánh với những người định cư, anh ta đã sống sót qua cả mùa đông bằng cách trốn trong chiến hào, phủ lá kín người, ăn thịt những con vật gặm nhấm bò qua người... tất nhiên, không thể diễn tả lại chính xác cảnh tượng đó, nhưng Eustace đã bắt chước tinh thần của câu chuyện bằng cách đề nghị nha sĩ của gia đình làm ơn không sử dụng thuốc tê Novocain khi trám răng cho cậu. Cậu muốn học cách chịu đựng nỗi đau thể xác.

[6] Cuộc thám hiểm của Lewis và Clark (1804-1806) là cuộc thám hiểm bằng đường bộ đầu tiên tới vùng duyên hải Thái Bình Dương chính phủ Hoa Kỳ tổ chức, đứng đầu là hai nhà thám hiểm Meriwether Lewis và William Clark.

Dạo còn học tiểu học, mỗi ngày Eustace thường mang tới lớp khoảng sáu cuốn tiểu sử của những người anh hùng và truyện phiêu lưu như thế. Cậu mải mê đọc một cuốn cho đến khi giáo viên tịch thu nó, và rồi cậu bắt đầu qua cuốn khác. Khi cô giáo lấy đi cuốn sách, cậu lại bắt đầu qua cuốn khác rồi lại cuốn khác nữa. Khi tất cả sách bị tịch thu sạch, cậu nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ mà lên những kế hoạch có cảm hứng từ những cuốn sách đã đọc. Ví như, Eustace mới học lớp hai khi cậu khởi công xây cho mình một ngôi nhà năm tầng trên cây (đủ bộ với một tầng hầm và những lối đi kéo dài sang các cành nhánh của cây kế bên), làm theo các hình mẫu trong cuốn tiểu thuyết The Swiss Family Robinson.

Cố nhiên, thầy cô chẳng biết phải làm gì với cậu bé kỳ quái này, người không bao giờ tập trung trong giờ học. Khi cậu học lớp năm, cô giáo phải mời bà Conway đến thảo luận.

Cô giáo nói, “Tôi nghĩ là Eustace không có khả năng học hỏi.”

Nhưng quá muộn rồi; cậu bé đã học hỏi được, tất nhiên là từ trong những kỹ năng và những bài học mà mẹ đã dạy cậu. Và nếu những ý tưởng nuôi dạy con của bà đối nghịch với những ý tưởng của chồng, bí quyết ở đây không phải là kết hợp hai triết lý sống của họ lại thành một lý thuyết nuôi dạy con cái, mà là áp dụng riêng rẽ từng triết lý đó - một bên đao to búa lớn và công khai, bên kia bí mật nhưng kiên định. Những trò xúc phạm cay nghiệt của người cha chỉ áp dụng vào ban đêm và cuối tuần; những thách thức đầy phấn khích của người mẹ được dành cho những ngày dài tự do trong rừng. Hai bậc cha mẹ này chia sẻ duy một điểm là sự chú tâm tuyệt đối. Cả hai đều đặt Eustace ở trung tâm chú ý, nơi cậu nhận được hoặc khen ngợi đánh giá cao hoặc nỗi tủi hổ bẽ bàng. Mẹ Eustace bảo cậu là Người Mang Sứ Mệnh và chẳng có thành tựu nào trên hành tinh này là vượt quá tầm tay cậu; bố cậu lại bảo cậu là đồ vô dụng.

Bởi là người ít tưởng tượng, cậu bé Eustace tội nghiệp tin cả hai. Thật khó nói làm sao mà đầu cậu lại không nổ tung vì những tư tưởng đối lập đó. Nhưng có điều ít phải nghi ngờ là suốt thời niên thiếu Eustace đã từng suy ngẫm hàng giờ liền về cái khả năng mình hẳn có thể là đối tượng của một cuộc nghiệm khoa học vĩ đại và tàn bạo. Có thể cả cuộc đời cậu đang diễn ra trong một buồng thí nghiệm rộng lớn nào đó, nơi cậu bị đem ra xét nghiệm, các phản ứng của cậu được nghiên cứu kỹ lưỡng bởi những nhà khoa học mà cậu không thể trông thấy hay hiểu nổi. Còn cách giải thích nào khác để hiểu được chuyện này? Một chiều Eustace nhận được một lá thư bí mật từ người mẹ bảo cậu là “một cậu con trai đẹp đẽ, đầy yêu thương, hấp dẫn, dũng cảm, can trường của người luôn tự hào và hàm ơn vì có con trên đời,” thế rồi có thể ngay đêm hôm đó, cậu ghi lại trong nhật ký rằng người cha vừa nói cậu “không sáng dạ gì ‘hơn thằng mọi đen trong khu ổ chuột.’ Tôi thấy muốn giết ông ta. Tôi tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra với mình.”

Eustace chỉ ngủ vài tiếng mỗi đêm. Sau khi mọi người trong nhà đi ngủ hết, Eustace thường thức đến hai, ba, bốn giờ sáng. Cậu làm xong bài vở, một công việc luôn vô cùng nặng nhọc đối với cậu trừ vài trường hợp hiếm hoi khi cậu có cơ hội viết những bài luận cuối học kỳ về các chủ đề kiểu như “Lều vải Xưa và Nay.” Khi bài tập về nhà xong xuôi, cậu sẽ viết nhật ký, phủ đầy các trang giấy những gì cậu đã làm và quan sát được.

“Hôm nay, tôi tới hồ Robinwood lần đầu tiên trong năm và bắt được một con rùa sọc cái lớn mà mùa đông năm ngoái tôi đã không tóm vì nó đang ngủ đông.”

“Hôm nay, cuối cùng thì tôi đã thấy cả ba con nhái bén trong nhà kính cùng một lúc.”

“Hôm nay, Randy Cable bắt được một con kỳ nhông bạch tạng và tôi cho nó vào ngâm rượu.”

“Con rắn chuột đen đang rất vui vẻ trong cái lồng mới.”

Cậu thường đọc lại nhật ký, cố gắng ghi chép tỉ mỉ quá trình cậu trở thành một người đi rừng thành thạo. Mỗi ngày cậu lại đặt ra những thử thách cao hơn cho bản thân trong rừng hoang, như sau này Eustace kể lại, “Tôi sinh trưởng trong một nền văn hóa và một gia đình không có cách nào cung cấp cho tôi những nghi thức trở thành người đàn ông, vì thế tôi phải sáng tạo những nghi thức ấy cho chính mình.”

Sau khi viết xong nhật ký, Eustace còn thức đến khuya muộn, cần mẫn hoàn thiện các kỹ năng dệt và xâu cườm. Đôi khi cậu dành hàng tháng trời làm một đôi giày bằng da hoẵng, khuây lãng đầu óc bằng cách ngồi trong ánh sáng lờ mờ với một cuốn sách cũ mở ra trên giường viết về những vật chế tác của thổ dân da đỏ vùng đồng bằng, để làm theo những hoa văn xâu cườm phức tạp trong tranh vẽ trang phục của thổ dân thời xa xưa.

Thế giới bất hạnh đầy khắc nghiệt của Eustace đã nuôi dưỡng trong cậu tính cầu toàn mãnh liệt. Sống từng giây phút trong đời sao cho hoàn toàn không phạm lỗi là điều hết sức quan trọng với Eustace, vừa để giảm thiểu cơ hội để người cha cười nhạo cậu, vừa để chứng minh với người mẹ rằng lời tán dương hùng hồn của bà là xứng đáng. Tiêu chuẩn cậu đặt ra cho mình cao đến khó tin. (Nhiều năm sau cậu than van trong nhật ký là cậu không bao giờ cảm thấy “niềm tự do bất tận của tuổi thơ” mà thay vào đó là bị ám ảnh bởi “nỗi đe dọa treo lơ lửng là chưa hoàn thiện.”) Ngay trong những khoảnh khắc riêng tư, ngay cả lúc nửa đêm, khi cậu đang âm thầm làm công việc ưa thích là xâu cườm kiểu thổ dân, những nỗ lực của cậu vẫn phải được thực hiện một cách hoàn hảo, nếu không công trình sẽ chẳng thể khiến cậu khuây khỏa. Bứt hết những đường khâu chưa toàn mỹ và cố làm lại, Eustace trau chuốt từng đường cườm chạy ngang đôi giày da đanh cho tới khi các hoa văn giống hệt như trên đôi giày của các bậc thầy thổ dân Cheyenne thời xưa. Ở đó, trong phòng ngủ của mình trên đường Deerwood, cậu đang sáng tạo nghệ thuật, một việc mà một đứa bé chẳng có nhiệm vụ phải làm hay thậm chí thử làm.

Khi cuối cùng cũng kiệt sức, cậu tắt đèn và tính chuyện ngủ. Thỉnh thoảng, nằm trong bóng tối, cậu nghe thấy tiếng bố mẹ cãi nhau. Thường thường, cậu khóc. Thường thì khi đó cậu cầm một con dao săn ấn vào cổ họng trong khi trôi vào giấc ngủ. Cảm giác lưỡi dao ngang cổ mới khuây khỏa kỳ lạ làm sao. Nhận thức rằng mình có thể tự sát tức thì nếu như mọi chuyện trở nên quá tồi tệ khiến Eustace thấy khuây khỏa. Không hiểu sao, nhờ có thể chọn giải pháp đó, cậu có sự bình yên cậu cần để cuối cùng cũng ngủ thiếp đi.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3