Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng - Chương 03 - Phần 3

Khi anh bảo anh phải đi lấy nước, Donna nói, “Em cũng thế!” rồi họ cùng đi một dặm tới con suối gần đó trong khi anh kể về những câu chuyện phiêu lưu anh đã trải qua trong chuyến bộ hành kể từ Maine. Quá say mê, Donna Henry mời anh lưu lại đêm đó dùng bữa tối cùng cô và hai mẹ con nhà dì. Một lần nữa, anh ăn sạch sành sanh đồ họ mời, vừa ăn vừa kể thêm về những hành động phiêu lưu táo bạo, về chiếc lều vải và lối sống nguyên sơ của anh.

Donna bảo họ cũng sẽ rất vui nếu Eustace cắm trại cùng họ đêm đó. Eustace nhận lời, rồi khi bầu trời êm ả tối thẫm lại và đống lửa êm ả cháy liu riu, Eustace luồn vào lều Donna và áp tấm thân dài mảnh dẻ lên người cô. Và thế là cô được Eustace săn sóc.

Ngày hôm sau, giờ đã chính thức yêu nhau, Donna tiễn dì và em họ rời đường mòn cùng với tất cả đồ đạc của họ, rồi cô đi bộ hai mươi lăm dặm tiếp theo cùng với Eustace. Cô rất sung sức - mùa hè năm trước cô đã hành quân cùng một số bạn cùng đại học - thế nên cô bắt kịp anh chẳng khó khăn gì. Họ vừa đi vừa nói chuyện, cùng ăn quả mọng hái ngay trong bụi cây, và Eustace dạy cô về mọi loài cây và đá và cành nhánh mà họ đi ngang qua dọc đường.

Đến cuối đoạn đường, Donna phải trở về với cuộc sống thực ở Pittsburgh, nhưng cô không muốn rời xa. Eustace nói với cô họ rất hợp cạ, và cô tán thành - phải, chính thế! Mà thời điểm cũng tuyệt vời luôn. Bởi vì hóa ra Eustace sắp mất người bạn đồng hành. Frank Chambless đang chào từ biệt chuyến đi vì anh chàng nhớ cô bạn gái Lori da diết, và Frank cảm thấy ngay lúc này anh có cơ hội để đưa tình yêu giữa họ tiến triển, chỉ cần anh dừng cuộc đi bộ lại và dành hết tâm huyết làm hòa với cô. Eustace hiểu và chấp nhận lời xin lỗi cáo từ tha thiết của bạn. Tuy nhiên anh thấy vô cùng tiếc nuối khi mất đi người bạn đồng hành vào lúc họ vẫn còn 1.000 dặm phải hoàn thành. Thế nên - tất nhiên rồi - thấy Donna là một người đi bộ tuyệt vời (chưa kể còn là cô bạn-cùng-lều quyến rũ), anh nghĩ ra một ý hay. Anh hỏi Donna xem liệu cô có muốn gặp anh ở Virginia trong vài tuần nữa và nhập cuộc bộ hành chăng. Cô hết sức sẵn lòng. Donna Henry, vào thời điểm ấy, hẳn sẽ vui sướng nhận lời đi bộ tới tận Islamabad để được gặp lại Eustace Conway.

Mấy tuần sau, mang theo ba lô và túi ngủ, nửa đêm cô đón xe buýt đi về phía Nam để gặp anh. Mẹ cô giận dữ vì cô tự nhiên nổi hứng bỏ nhà đi với một gã gầy còm quấn trên mình hai cái khăn tay đến nỗi bà còn không thèm chào tạm biệt.

Ô, thật khắc nghiệt. Người ta bước sang tuổi mười chín để đón nhận những điều như thế.

Đây là điều Donna tưởng tượng về cuộc bộ hành trên Đường mòn Appalachia với Eustace Conway - lại trò chuyện và đi bộ và hái quả mọng và quan sát tự nhiên và chuyện tình lãng mạn, cứ thế suốt quãng thời gian còn lại. Thế rồi quả nhiên, ngày thứ nhất của cuộc bộ hành, Eustace thực sự ở bên cô, anh dạy cô rất nhiều điều về cây cỏ lá hoa. Nhưng đến sáng ngày thứ hai của hành trình, anh dậy sớm mà nói, “Hôm nay anh sẽ đi trước em. Anh muốn hoàn thành ba mươi dặm. Anh sẽ gặp em ở điểm cắm trại để ăn tối.” Thế là họ không bao giờ đi cùng nhau nữa. Ngày nối ngày, cô không nhìn thấy anh trên con đường. Anh lên đường từ lúc bình minh và cô sẽ đi theo sau. Mối liên lạc duy nhất của họ là những lời nhắn hướng dẫn ngắn gọn anh để lại cho cô dọc con đường: “Donna - rẽ trái đi xuống 6 mét sẽ có nước. Chỗ này nghỉ ngơi tốt đấy.” Hay, “Anh biết đoạn này leo trèo rất vất vả - em giỏi lắm!”

Hằng đêm, khi khuya muộn, cô bắt kịp anh tại gian trại anh đã cắm sẵn cho họ. Họ ăn bất cứ thứ gì săn được hoặc bới móc được hoặc thức ăn thối rữa xung quanh rồi đi ngủ. Thỉnh thoảng Eustace thức khuya mà kể say sưa suốt đêm về hoài bão thay đổi thế giới của anh, điều mà Donna rất thích nghe. Cô chẳng khi nào thấy hạnh phúc hơn những khoảnh khắc ấy, có lẽ trừ lúc Eustace tự hào nói với cô rằng cô là “cô gái Ý nhỏ nhắn dẻo dai” của anh.

Tất cả mọi điều thuộc về thiên nhiên này đều mới mẻ đối với Donna (có lần cô hỏi Eustace, khi họ đi ngang qua một bầy gia súc giữa đồng cỏ trên núi, “Này, bò hay ngựa kia vậy anh?”), nhưng cô sẵn sàng tiếp nhận và chơi hết mình. Một hôm, sau khi đi hai mươi lăm dặm, họ ăn tối cùng nhau vào lúc vầng dương đang lặn và bầu trời trông tuyệt đẹp. Donna nói, “Này, Eustace, ta chạy lên ngọn núi kia ngắm mặt trời lặn đi!” Sau hai mươi lăm dặm đường! Đúng như anh thường bảo, cô là “một bức tượng cơ bắp rắn rỏi” đồng thời cũng là một người bạn đồng hành không bao giờ gây cản trở. Không có việc gì cô không làm để có thể theo kịp chàng trai của cô. Hơn nữa, Donna tin vào mọi giấc mơ Eustace Conway ấp ủ và muốn giúp anh đạt được. Cô được anh truyền cảm hứng và tiếp sinh lực. Khi ban mai hé rạng, anh sẽ vút đi trước cô trên con đường mòn, và cô lại sẽ đi theo mà không do dự hay hoài nghi - và đó, Donna giờ đây vẫn nói, “chính là biểu tượng của mối quan hệ ấy.”

“Tôi cứ bám lấy mối quan hệ đó,” cô nhớ lại. “Tôi bị cuốn theo sau anh như một từ lực, đi bộ hai lăm, ba mươi dặm mỗi ngày. Tôi gầy còm tong teo nhưng vẫn háo hức cho anh thấy mình có thể theo kịp. Tôi yêu người con trai ấy vô cùng. Tôi muốn theo anh tới cùng trời cuối đất.”

Khi hồi tưởng lại về chuyến đi xuôi Đường mòn Appalachia ấy, Eustace Conway không mường tượng đến Donna Henry hay Frank Chambless. Tuy anh hào phóng trao cho các bạn đồng hành phần thưởng xứng đáng cho việc họ cần mẫn đi mà chẳng bao giờ than phiền, song những gì anh nhớ nhất về những tháng tuyệt vời trong rừng đó lại là hình ảnh chính anh, một mình. Rốt cuộc - một mình. Xa khỏi mái nhà, xa khỏi tầm kiểm soát của người cha và cuối cùng đã được sống theo cách của mình.

Anh nhớ đôi chân mình đau tới mức nước mắt chảy đầm đìa trên mặt trong khi đi, nhưng anh không bao giờ dừng bước, bởi vì từ khi còn nhỏ anh đã tự dạy mình chịu đựng nỗi đau thể xác như một chiến binh da đỏ. Anh nhớ bao nhiêu lần anh bị mất nhiều nước đến hoa cả mắt. Anh nhớ mình đã đi bộ vào thị trấn Pearisburg, Virginia nằm ngay dọc con đường mòn, có một nhà trọ và một cửa hàng tạp hóa. Đã đói khát quá lâu rồi thế nên anh quyết định - kinh đây - đãi mình một bữa ra trò. Một bữa ăn thực sự, được trả bằng Mỹ kim, chứ không một bữa ăn cứu đói chết tiệt với một con thỏ con chưa tiêu hóa hết mượn ở dạ dày của một con rắn chuông. Những thứ anh mua gồm có:

“Quả dưa đỏ chín nhất, to đẹp nhất trần đời. Tôi mua một rổ trứng hai mươi lăm quả. Không phải trứng nhỏ đâu nhé. Trứng vừa vừa cũng không. Trứng to cũng chả phải. Mà là cực to. Tôi mua ổ bánh mì lớn nhất có thể kiếm được. Tôi mua một bình sữa tướng và một thùng sữa chua. Tôi mua một khoanh bơ thực vật, một tảng pho mát và một củ hành to tướng. Rồi tôi vào gian bếp của nhà trọ, tôi phi hành với bơ và trộn chỗ trứng đó làm một đĩa ốp lết khổng lồ rồi phết nửa tảng pho mát lên. Tôi ăn món ấy. Rồi tôi nướng từng lát bánh mì lên và phết chỗ pho mát còn lại lên lát bánh mì nướng. Tôi uống cạn bình sữa. Rồi tôi ăn sữa chua. Sau đó tôi ăn quả dưa chín mọng đẹp tuyệt trần. Khi tôi ăn xong, tất cả thức ăn đã trôi vào bụng, thế mà tôi vẫn chưa hẳn no nê. Tôi chỉ cảm thấy thỏa mãn lần đầu tiên trong suốt nhiều tháng qua. Tôi cảm thấy, Thế đấy, giờ thì cuối cùng mình đã có đủ đồ ăn.”

Anh nhớ một ngày dài nữa ở Virginia, đêm muộn hôm đó anh vẫn còn đi bộ vì phải hoàn thành cho xong số dặm đường phân chia cho mỗi ngày, anh đang đi dọc con đường tối mù tối mịt ở một miền quê vô cùng thôn dã. Ấy là đêm thứ Sáu, thế nên tất cả dân quê trong vùng đánh xe tải chạy lòng vòng, nghe nhạc, uống rượu và hướng đến chỗ tụ tập tiệc tùng. Họ cứ dừng xe lại để xem Eustace đi đâu.

“Lên xe không chàng trai?” đám trai quê miền Nam cất tiếng hỏi.

“Không, cảm ơn,” Eustace trả lời.

“Anh đi từ đâu tới vậy?”

“Maine.”

Câu trả lời đó chẳng gây ấn tượng là bao với các cậu trai quê miền Nam.

“Ờ, thế anh đi tới đâu?”

“Georgia,” Eustace trả lời họ, và tới đây thì đám thanh niên tỏ ra kinh ngạc cực độ, hét toáng lên không tin nổi.

“Chàng điên này đang cuốc bộ thẳng cánh tới Georgia!”

Rõ ràng là họ ừng nghe tới địa danh Maine.

Rồi, thương cảm Eustace, họ cho anh một chai bia rồi vút đi. Eustace đi bộ một mình trong bóng tối, uống bia, ngâm nga một mình và lắng nghe tiếng râm ran của côn trùng đêm vùng Virginia. Khi anh uống hết chai bia, lại một chiếc xe tải nữa chở đám dân quê đi qua.

“Lên xe không chàng trai?”

Và cuộc hội thoại ấy lặp lại, đúng từng từ một, dẫn đến câu kết của đoạn hài kịch. “Chàng điên này đang cuốc bộ thẳng cánh tới Georgia!”

Eustace hoàn tất chuyến đi bộ trên đường mòn vào tháng Chín năm 1981, ngay sát ngày sinh nhật thứ hai mươi của anh. Anh mất bốn tháng rưỡi để hoàn thành cả hành trình. Anh viết cho chính mình một lá thư chúc mừng - một lá thư đầy xúc động mà người ta chỉ có thể viết vào sinh nhật thứ hai mươi của mình, thiết tha, tự hào và đầy kinh ngạc trước tầm vóc lớn lao của việc mình vừa hoàn thành.

Mặt trời vừa lặn sau đỉnh núi và những chiếc bóng bắt đầu chơi ú tim trong rừng. Đây là đêm cuối trên Đường mòn Appalachia, “Một hành trình dài mãi mãi bất tử.” Tôi đã khởi hành từ khá lâu, tất cả dường như chỉ là mộng ảo. Cuộc đời của tôi đã thay đổi. Tôi đã trở thành một người đàn ông. Theo cách của thổ dân, tôi lấy một cái tên mới - đó là Người Săn Đại Bàng. Tôi đang hướng tới mục tiêu và phẩm hạnh cao nhất của Chúa tể các vị Thần Sáng Tạo[6]. Bao nhiêu câu chuyện tôi có thể kể. Tôi đã thấy bao miền đất, bao con người, tất cả thật khác nhau nhưng đều rất tuyệt vời. Tôi đã học cách cầu nguyện thường xuyên và đã đón nhận vô số tặng phẩm trời ban. Tôi tin Thượng đế đã giúp trù tính chuyến đi này trước cả khi tôi nghĩ đến nó... Lý do tôi chinh phục con đường mòn ban đầu rất đơn giản rồi dần trở nên sâu sắc hơn theo thời gian và trải nghiệm. Đầu tiên tôi muốn đến gần hơn với thiên nhiên theo một cách thức tuyệt đối lành mạnh, và thứ hai là để nhận chân chính mình rõ hơn. Tôi tin rằng tôi đã làm tốt cả hai điều này. Tôi vô cùng mãn nguyện. Tôi mong ánh sáng ban ngày sẽ cho tôi thêm sức mạnh để viết kỳ hết những suy tưởng này ra giấy nhưng màn khuya đang kéo đến và những chiếc bóng không còn rõ hình thù nữa. Lũ thú ăn đêm đã mò ra và tôi phải bước vào chu trình tôi đã chọn

Eustace R. Conway.

[6] Nguyên văn “Winged Beings”: những hình ảnh được khắc họa trên các hang động cổ xưa, thường mang thân người, đầu thú, và có cánh. Truyền thuyết xem đây là những vị Thần Sáng Tạo.

Và quả thực anh đã bước vào chu trình anh đã chọn. Mọi chuyến đi và thành tựu khác trong đời anh đều phát triển lên từ chuyến đi thành công này. Ví như, mấy tháng sau đó, khi Eustace đang ngồi trên chiếc bàn dã ngoại ở Bắc Carolina, lột da một con gấu mèo thì một chàng trai bước lại chỗ anh mà nói, “Cậu là Eustace Conway phải không? Lần cuối tớ thấy cậu là trên Đường mòn Appalachia, khi ấy cậu đang lột da một con rắn. Tớ nhớ đã trò chuyện với cậu về cuộc phiêu lưu vào vùng hoang dã.” Cậu thanh niên tự giới thiệu là Alan York, hai người nói chuyện một hồi, rồi Alan bảo, “Này, ta cùng đi bộ vượt Alaska nhé.” Eustace đáp, “Đi bộ vượt Alaska thì chắc không được đâu, nhưng chèo xuồng qua vùng đó thì tớ nghĩ chắc là được,” và họ làm đúng như thế. Eustace và Alan lướt từ đầu này tới đầu kia bang Alaska, vật lộn với con sóng giá băng hung dữ, trên đầu lũ cá trích, cá hồi, tảo bẹ và cá voi chưa đầy nửa gang tay.

Sau chuyến đó thì đi vào vùng nông thôn Mexico để nghiên cứu nghề gốm và đan dệt liệu có gì là khó khăn nữa? Và cuộc hành trình thành công tới Mexico ấy cho chàng trai trẻ quả cảm này sự vững tin để bay tới Guatemala, bước xuống máy bay là hỏi, “Người nguyên thủy sống tập trung ở đâu?” Tuy nhiên, tất cả đều khởi nguồn từ Đường mòn Appalachia. Và hình ảnh Eustace hay mường tượng đến nhất khi anh nghĩ về thời mười chín tuổi trên Đường mòn Appalachia chính là khoảnh khắc ấy, một khoảnh khắc anh sẽ luôn luôn xem như niềm hạnh phúc lớn lao nhất đời mình.

Lúc đó anh đang ở New Hampshire. Anh đã rời Maine để tới được đó mà không chết đói hay chết rét. Anh leo lên một đỉnh núi. Ngút tầm mắt anh thấy ánh ban mai hồng rực đẹp tuyệt vời bao phủ tuyết, băng và đá. Bao la nhất sắc. Khung cảnh điển hình của dãy White Mountain vào cuối đông. Theo năm tháng, Eustace sẽ đi tới bao nhiêu miền đất thú vị hơn nơi đây, và anh sẽ được chiêm ngưỡng nhiều quang kỳ vĩ trên thế giới, từ Alaska tới Úc tới Arizona, thế nên có lẽ đây không phải là cảnh đẹp nhất anh thấy. Mà khoảnh khắc này cũng không mãnh liệt và rạo rực bằng khoảnh khắc anh sẽ trải nghiệm mấy tháng sau đó khi anh kết thúc chặng đường mòn, xuống tới Georgia, nơi anh liên tục được hùng hồn trình bày “bao nhiêu câu chuyện tôi có thể kể”. Nhưng quang cảnh này vẫn tuyệt hơn. Bởi vì đây là phông nền cho khoảnh khắc khi Eustace Conway lần đầu tiên nhận thức được rằng anh đang tự do. Anh là một người đàn ông, và anh đang ở đúng nơi anh muốn ở, đạt tới điều anh luôn biết mình có thể đạt tới nếu bản thân anh tự quyết. Anh trở nên khiêm nhường hơn, phúc lạc hơn, giản dị hơn, thanh khiết hơn và được cứu thoát nhờ khoảnh khắc này bởi vì nó nắm giữ sự thật rằng - xa tận trên dãy núi hùng vĩ này - cha anh hoàn toàn khuất tầm mắt. Cha anh không thể chạm đến anh nữa. Không ai có thể chạm đến anh nữa. Không ai còn có thể điều khiển anh và không ai còn có thể phạt anh nữa.

Eustace đứng đó, ngây ngất hoan hỉ, chìm đắm trong sự kỳ diệu. Anh thấy mình như vừa bước ra khỏi một đám linh toan khai hỏa xử bắn anh nhưng súng đều bị tịt nòng, anh đang kiểm tra thân thể mình tìm vết đạn nhưng chẳng thấy vết nào. Hương vị không khí thật ngọt lành, anh có thể nghe được tiếng tim mình đập và anh cười vang, cười mãi vì nhận ra mình còn nguyên vẹn.

Đó là khoảnh khắc viên mãn nhất trong đời Eustace Conway, bởi vì đó là khoảnh khắc khi lần đầu tiên anh thấu hiểu cảm giác mình vừa được sống sót.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3