Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng - Chương 08 - Phần 3
Quả nhiên, khi Jason về tới Đảo Rùa, động cơ đã hỏng.
“Cậu chẳng hề để thấy chút gì khác lạ khi chiếc xe đang chạy à?” Eustace hỏi Jason, khi anh chàng gọi cho anh để thông báo rằng động cơ của chiếc xe “đột nhiên” gãy rắc.
“Lúc nãy nó kêu to kinh khủng,” Jason thừa nhận, là lạ lắm. “Động cơ gầm rú ầm ĩ. Em đã phải bật nhạc suốt đường để át tiếng ồn.”
Eustace mất hàng nghìn đô la để đưa chiếc xe tải tốt nhất của anh hoạt động trở lại.
Suốt chín tháng tiếp theo thời gian học việc của Jason (rồi đây cậu sẽ từ bỏ rất sớm trước khi đến hạn hai năm theo cam kết của cậu do ngày càng cảm thấy không hài lòng với sự lãnh đạo của Eustace), cậu đạt được sự thành thạo rất ấn tượng trong việc làm nông theo phương thức nguyên thủy và trong nhiều kỹ năng phức tạp khác, nhưng cậu cũng phá hỏng thêm hai chiếc xe khác của Eustace. Và khi Eustace đề nghị Jason nghĩ đến chuyện bồi thường phần nào tổn thất, Jason cảm thấy hết sức khó chịu. Sao kẻ được gọi là người của thiên nhiên này lại dám thể hiện sự tham luyến của cải vật chất kia chứ! Eustace quả là một kẻ đạo đức giả!
“Đừng có mà xử tệ với tôi, Eustace,” Jason viết chẳng bao lâu sau khi rời Đảo Rùa. “Tôi không muốn cảm nhận theo cách này. Tôi muốn những mối quan hệ làm phong phú cuộc đời tôi, không phải những quan hệ hạ nhục tôi đâu. Tôi cảm thấy với anh cái xe tải quan trọng hơn tôi. Xin mượn lời của Lester, nhân vật người cha trong phim Vẻ đẹp Mỹ, 'Nó chỉ là một cái ghế chết tiệt!' “
Hết lần này tới lần khác, sự thay đổi kiểu này diễn ra trong đời Eustace. Anh được tôn thờ, và rồi những người tôn thờ anh khiếp sợ nhận ra rằng anh chẳng phải hình mẫu thần thánh của họ. Thông thường, những người đến với Eustace đều là những người tìm kiếm, và khi họ gặp biểu tượng đầy sức hút này, họ tin chắc công cuộc tìm kiếm của mình đã xong xuôi, rằng tất cả những câu hỏi của họ sẽ được trả lời, đó là lý do tại sao họ ngay lập tức trao trọn cuộc đời mình vào tay anh một cách vô điều kiện. Và chẳng phải chỉ có những nam thanh mới mắc phải câu chuyện rập khuôn này.
“Tôi vui sướng cực độ suốt năm ngày trời,” một cô gái với nỗi kinh ngạc điển hình viết cho Eustace sau chuyến thăm ngắn tới Đảo Rùa. “Những mảnh hơi thở nhỏ xíu của tôi tản mác khắp nơi trong những cây thông trắng và cây de vàng. Cảm ơn Người, Đấng Tạo hóa! Cảm ơn anh, Eustace! Nó để lại ảnh hưởng trong tôi mãi mãi. Tôi biết dây là nơi duy nhất tôi muốn sống. Nếu có khi nào anh cần thêm một tay, tôi sẽ trao anh cả hai tay mình!”
Sau một lời giới thiệu đầy ắp tán dương như thế, có thể sẽ rất xấu hổ khi nhận ra rằng cuộc sống ở Đảo Rùa vắt kiệt sức lao động và Eustace cũng là một con người không toàn mỹ, với những ấp ủ đầy câu hỏi chưa lời đáp của riêng anh. Chẳng mấy người tìm kiếm qua được nỗi choáng váng đó, nỗi choáng váng mà cuối cùng tôi đã phải gọi là Hiệu ứng Roi da Eustace Conway. (Nhân tiện xin nói, từ khi chính Eustace áp dụng cụm từ đó, anh đã đi xa tới mức băn khoăn không biết anh có nên phân phát nẹp cổ cho tất cả người học việc như một biện pháp phòng ngừa giúp họ sống sót qua chấn thương vỡ mộng không thể tránh khỏi hay không. Anh đùa, “Mọi người sẽ hỏi, 'Tại sao tôi phải đeo cái nẹp cổ này hả Eustace?' và tôi sẽ gật đầu đầy thông hiểu mà đáp, 'Ô, rồi bạn sẽ thấy.'”)
Đây cũng là lý do tại sao duy trì được những tình bạn lâu bền là một thử thách với Eustace. Có hàng trăm, có lẽ là hàng nghìn người có quan hệ mật thiết với cuộc sống của anh, nhưng nhiều người trong số họ dường như rơi vào một trong hai nhóm: những môn đệ đầy háo hức hoặc những kẻ dị giáo vỡ mộng. Hầu hết mọi người thấy chẳng thể nào từ bỏ được ý niệm về Eustace như một biểu tượng trong thời gian đủ dài để có thể kết bạn với anh như một con người. Có lẽ anh chỉ đếm được trên một bàn tay số người anh xem là bạn thân, và thậm chí những mối quan hệ ấy cũng thường căng thẳng, vừa bởi nỗi sợ dai dẳng cả đời Eustace, sợ bị phản bội (khiến anh không theo đuổi sự thân thiết tuyệt đối trong tình bạn) vừa bởi anh khăng khăng rằng không ai có thể hiểu đúng về anh cả (điều này cũng chẳng ích hơn gì). Eustace thậm chí không tin người mà anh gọi là bạn thân nhất - một sơn nhân thuần thục, tốt bụng và nhạy cảm tên là Preston Roberts anh gặp ở cao đẳng - hoàn toàn hiểu được anh.
Thời học cao đẳng, Preston và Eustace thường mơ họ sẽ cùng nhau thành lập một khu bảo tồn thiên nhiên, xây dựng gia đình bên nhau, cùng với cậu bạn thân Frank Chambless của họ, người đã đi bộ trên Đường mòn Appalachia với Eustace. Nhưng đến lúc mua Đảo Rùa, Preston và Frank chỉ tham gia qua loa trong hoạt động đó. Frank mua một mảnh đất nhỏ gần khu bảo tồn nhưng rồi mấy năm sau lại bán đi lấy tiền trong nỗi thất vọng ê chề của Eustace. Sau cuộc buôn bán đó, Frank gần như mất hút khỏi cuộc đời Eustace, và Eustace chẳng bao giờ hiểu tại sao.
Preston Roberts mua đất gần Đảo Rùa và giữ mảnh đất ấy. Anh góp phần xây dựng nhiều công trình ở Đảo Rùa và đã giảng dạy tại trại hè trong nhiều năm. Anh và Eustace thỉnh thoảng lại làm một chuyến phi ngựa hoặc một hành trình đi bộ, qua đó họ có thể thả hồn trong tình bầu bạn và trong sự tráng lệ của thiên nhiên. Preston vô cùng ngưỡng mộ Eustace và sẽ rất sẵn lòng lãnh đạn che chở cho anh. Nhưng bất chấp những lời mời mọc triền miên của Eustace, anh vẫn chưa quyết định đưa gia đình vào sống hẳn trong Đảo Rùa. Theo vợ của Preston giải thích thì, “Chồng tôi luôn có hơi lo rằng anh ấy sẽ đánh mất tình bạn với Eustace nếu phải làm việc với Eustace hằng ngày.” Thực ra kiểu gần gũi đó dường như thật sự thách thức hầu hết mọi người. Đặc biệt là trong quá trình học việc. Tất nhiên, chẳng tránh được rằng ngay từ đầu những người học việc hăm hở tới Đảo Rùa đã là những người dễ tổn thương tình cảm.
“Một số người muốn tới sống ở đây là những người khổ sở bất mãn xã hội và khó hòa nhập nhất trong xã hội,” một lần Eustace bảo tôi. “Họ nghĩ Đảo Rùa là nơi rốt cuộc sẽ khiến họ hạnh phúc. Họ viết thư cho tôi nói họ ghét nhân loại tới mức nào... Chúa ơi, cô có tưởng tượng nổi phải nỗ lực sắp xếp một chi tiết công việc cho kiểu người ấy là trần ai khoai củ như thế nào không? Đám thiếu niên bỏ nhà đi bụi muốn tới đây. Có người ở hệ thống nhà tù của bang viết thư cho tôi bảo muốn tới đây. Tôi thu hút những kiểu người bị xã hội ruồng bỏ bất mãn như vậy đó.”
Khi tôi tới thăm Eustace vào tháng Tám năm 1999, anh có một cậu thanh niên học việc có biệt danh là Nhánh Cây. Nhánh Cây tới đây là do một thảm họa của một gia đình bất thường nào đó ở Ohio, cậu liên tục bị ném ra khỏi nhà và gặp rắc rối với pháp luật. Eustace chấp nhận Nhánh Cây vì triết lý căn bản nhất của anh là ai cũng có thể xoay xở sống cuộc sống nguyên thủy này nếu anh ta hoàn toàn sẵn lòng và được chỉ dạy đúng cách. Tuy nhiên, Nhánh Cây là một kẻ chuyên gây rối. Cậu ta là một tay du côn hung hăng và không thể tin cậy được, và nhiều người học việc khác (lúc bấy giờ còn có ba chàng trai cô gái khác, con số thông thường mỗi năm) đề nghị Eustace đuổi cổ cậu ta bởi vì cậu ta làm hỏng tinh thần sự nghiệp của họ. Và chẳng cần phải nói, Nhánh Cây chẳng có lấy một kỹ năng làm việc nặng. Nhưng Eustace muốn cho Nhánh Cây một cơ hội, và anh đầu tư nhiều thì giờ làm việc với cậu ta, giúp cậu ta dịu xuống, dạy cậu ta cách sử dụng công cụ và cố gắng chỉ cho cậu ta cách sống chung với mọi người.
Có một số tiến bộ rõ rệt. Khi tới Đảo Rùa, Nhánh Cây yếu ớt, xanh xao và biếng nhác. Cuối cùng, ta có thể thấy từng múi cơ trên ngực và lưng cậu mỗi khi cậu làm việc nặng. (Sự chuyển biến từ bạc nhược sang sung sức này diễn ra thường xuyên ở Đảo Rùa, và có lẽ đây là điều Eustace thích chứng kiến nhất.) Và cậu bé kém cỏi này giờ đây biết buộc cày vào ngựa, biết chăm sóc lợn, biết nấu ăn trên lửa trại. Một tối cậu thậm chí còn nấu cho tôi một bát xúp nhộng, món ăn của người Cherokee cổ đại. Nhưng quả là hết sức kinh khủng khi nghĩ đến số lượng những điều Nhánh Cây còn chưa học được.
Một buổi hoàng hôn, tôi đi tới một cánh đồng xa với Eustace để quan sát anh chỉ dạy Nhánh Cây cách sử dụng cày đĩa. Họ phải kéo cái cày ra cánh đồng này qua nửa dặm đường rừng với một con la và một con ngựa thồ, sử dụng một chiếc xe trượt tuyết cứng cáp kiểu cũ của người Appalachia để chở cái máy đó. Mọi khía cạnh của công việc này đều cho thấy nguy hiểm thương vong tiềm tàng - những con vật vụng về ngang bướng, chiếc xe trượt tuyết tròng trành, những sợi xích và dây đai da và dây thừng giật liên hồi, mấy cái lưỡi sắc như dao lam của cái máy cày cũ kỹ nặng nề. Thế mà, dù đã biết hết mọi điều này, và đã sống ở Đảo Rùa được sáu tháng, Nhánh Cây lại quyết định đi dép tông để ra làm công việc này.
“Cá nhân tôi mà nói thì tôi sẽ không điều khiển cày đĩa trên một đồng cỏ lởm chỏm đá với con la tính khí thất thường như Thỏ Peter mà lại đi dép tông đâu,” Eustace nói với tôi trong khi chúng tôi quan sát Nhánh Cây làm việc, “nhưng nếu cậu ta muốn mất chân thì tôi sẽ giao việc này cho cậu ta.”
“Anh sẽ không nói gì với cậu ấy sao?” tôi hỏi.
Eustace tỏ vẻ mệt mỏi. “Mười năm trước thì hẳn tôi sẽ nói. Tôi hẳn sẽ lên lớp cậu ta một trận về việc đi giày dép hợp lý khi làm đồng và về việc tự bảo vệ mình khi ở cạnh loài vật và máy móc nặng, nhưng giờ thì tôi oải lắm rồi, tôi mệt mỏi khi cứ phải gặp những người không có mảy may kiến thức phổ thông nào. Tôi có thể sửa cho Nhánh Cây trong chuyện này, và tôi có thể sửa cho cậu ta bảy trăm lần mỗi ngày về những thứ kiểu này, nhưng giờ đây tôi phải dồn tất cả sinh lực để ngăn không cho mọi người tự giết mình hoặc giết tôi hoặc giết nhau. Cô biết không, khi Nhánh Cây lần đầu đến đây, cậu ta nài nỉ tôi quẳng thẳng cậu ta vào rừng thẳm, bởi vì cậu ta muốn sống gần thiên nhiên. Sự thật là cậu ta quá dốt nát. Cậu ta sẽ chẳng sống nổi năm phút trong vùng hoang dã thực. Cậu ta thậm chí không biết bản thân cậu ta hiểu biết được bao nhiêu. Và tôi phải liên miên đối phó với kiểu chuyện này, chẳng phải chỉ từ Nhánh Cây mà còn từ hàng trăm người như cậu ta.”
Rồi, với Nhánh Cây, kẻ lúc này đã bắt đầu cày cánh đồng rộng lớn với những vòng tròn bé tí kỳ quái, Eustace nói: “Có một ý tưởng đây, Nhánh Cây. Mỗi lần quay đầu gia súc, cậu đang dồn sức ép lên miệng chúng và sức ép lên chính cậu cũng như cái máy. Hãy cố nghĩ ra một cách cày hợp lý hơn thay vì cứ cua gắt nhiều như vậy. Cày những chặng thật dài thì sao, đi hết một đường từ đầu này tới đầu kia cánh đồng, giữ nguyên một hướng chừng nào cậu còn có thể duy trì sức đẩy? Cậu hiểu tôi đang nói gì chứ? Có thể cậu muốn cày con dốc ở đây, nhưng tôi khuyên cậu đi từ dưới lên, vì cậu còn thiếu kinh nghiệm và cậu sẽ không muốn phải lo lắng chuyện cán máy cày lên gia súc đâu.”
Khi Nhánh Cây đi xuống phía dưới, kiểu như làm theo lờ của Eustace, anh bảo tôi, “Cậu ta sẽ tốn vô tận thời gian với việc này mất thôi. Ngay lúc này tôi chỉ muốn ở trong văn phòng của mình để lo bảy trăm lá thư tôi cần phải viết và bảy trăm hóa đơn thuế tôi phải thanh toán. Nhưng tôi phải ở đây quan sát cậu ta, bởi vì tôi chưa thể giao phó gia súc hay cái máy của tôi cho cậu ta. Thế tại sao tôi phải bận lòng? Bởi vì hy vọng của tôi là một ngày nào đó cậu ấy sẽ học được cách xử lý công việc này, rồi tôi có thể để cậu ấy ra ngoài mà bảo, 'Đi cày cánh đồng đó đi,' và cậu ấy sẽ biết chính xác phải làm gì và tôi có thể tin tưởng công việc đó sẽ được làm đúng. Nhưng còn lâu chúng ta mới tới được điều đó. Ý tôi là, cậu ta đang đi dép tông! Nhìn cậu ta kìa.”
Quả thực, cậu đang đi dép tông, mặc quần soóc, cởi trần, và gài một điếu thuốc sau tai.
“Tôi thích nghĩ rằng mình đang dạy những người này các kỹ năng mà một ngày nào đó họ sẽ sử dụng trong đời họ, nhưng khi nghĩ về hàng trăm người đã tới đây trong những năm qua, tôi không thể hình dung ra có người nào hoàn toàn một mình mà lo liệu được một cuộc sống nguyên thủy ngay lúc này. Có khi một ngày nào đó Christian Kaltrider sẽ làm được. Cậu ấy xuất sắc. Hiện nay cậu ấy đang xây một căn nhà gỗ trên đất của chính mình, trông đẹp lắm. Cậu ấy học được tất cả điều đó ở đây. Có một cậu bé tên là Avi Aski, một người học việc cừ khôi. Cậu ấy đang tìm mua đất ở Tennessee, và có thể cậu ấy sẽ xoay xở được. Có thể.”
Nhánh Cây đi lại chỗ chúng tôi với cái cày, xới được một rãnh đất xiêu vẹo.
“Cậu đang làm tốt đấy,” Eustace nói với cậu. “Tốt hơn tôi mong đợi nhiều.”
Eustace đưa ra lời nhận xét ấy với khuôn mặt không biểu lộ gì và giọng nói bằng lặng. Nhưng ẩn dưới câu tán dương đó tôi có thể nghe thấy những dấu vết đáng sợ của cơn giận, sự mất kiên nhẫn và nỗi thất vọng được kìm nén mà tôi thường nghe thấy trong giọng Eustace vào giờ này của buổi chiều muộn, khi mặt trời đang lặn mà bao nhiêu công việc còn dang dở và một người nào đó lại đang làm hỏng việc cả. Vào khoảng thời gian này của buổi ngày tàn, thật rất rõ ràng: điều Eustace thực sự muốn làm là bắt cả lũ chúng ta đứng sát lại thành hàng rồi thì cốc vào những cái đầu ngu dốt của chúng ta cho tỉnh ngộ.
Tất nhiên, anh sẽ không bao giờ..
Thay vì vậy anh nói, “Làm tốt lắm Nhánh Cây. Cảm ơn cậu đã tập trung.”
Eustace thường nhận được những người học việc chưa bao giờ xách một cái xô. Anh sẽ giao cho nhiệm vụ dễ nhất trên đời - đi múc cho đầy xô nước - và rồi anh sẽ kinh hãi quan sát khi họ cố gắng xách xô nước đầy. Họ không biết phải làm sao. Họ giơ cái xô nặng ra xa người mình hết cỡ, giữ cánh tay thẳng đơ về phía trước, song song với mặt đất, lãng phí năng lượng và sức lực chỉ để nâng gánh nặng của họ. Quan sát điều đó khiến anh phải nhăn mặt vì đau đớn. Với búa cũng vậy. Anh có những thanh niên lên Đảo Rùa mà chưa từng nhìn thấy cái búa. Họ chẳng hiểu cái búa hoạt động ra sao. Họ tới chỗ anh bởi vì họ quả quyết muốn sống “tự cấp tự túc”, nhưng khi anh bảo họ đóng một cái đinh, họ nắm chặt cái búa, đến tận đằng đầu, rồi đấm vào mục tiêu.
“Khi thấy cảnh tượng ấy,” Eustace nói long trọng, “tôi chỉ muốn nằm xuống chết quách cho rồi.”
Khi dạy bọn trẻ ở trường công, thỉnh thoảng anh thử chơi một trò chơi của thổ dân ngày xưa với chúng, lăn một cái vòng rồi cố ném gậy qua cái vòng đó trong khi nó đang lăn lông lốc. Nhưng hết lần này tới lần khác anh nhận ra rằng các cô cậu học sinh Mỹ trong tất cả các lớp đều không biết cách lăn cái vòng.
“Thật là điên rồ, trẻ con mà lại không biết lăn một cái vòng!” anh quát mắng. “Tôi chỉ cho bọn chúng cách làm việc đó rồi đưa cái vòng cho bọn chúng và chúng thả nó. Tất nhiên là chúng chỉ kiểu như ngẫu nhiên thả cái vòng ra, nó nằm bẹp xuống mặt sàn cách chân bọn chúng nửa mét. Thế là chúng nhìn nó chằm chằm. Sao nó không lăn gì cả nhỉ? Chúng chẳng hiểu. Thậm chí sau khi tôi chỉ cho chúng cách làm một lần, chúng vẫn không hiểu. Sau hồi lâu, có thể có một đứa nhận ra rằng cần lực đẩy mới lăn được cái vòng, và nếu tôi gặp may, có thể có một thiên tài sẽ nghĩ, A! Thử lăn chiếc vòng xem sao!
“Tôi chứng kiến chuyện này lặp đi lặp lại. Tôi quan sát những đứa trẻ ấy mà nghĩ, 'Lẽ nào cơn khủng hoảng không tin nổi này là thực?' Chúng ta đang nuôi dạy kiểu trẻ con gì ở Bắc Mỹ vậy? Này, tôi cá với cô rằng mọi đứa trẻ ở châu Phi đều biết cách lăn một cái vòng chết giẫm. Đó là vấn đề hiểu biết quy luật tự nhiên. Thế giới được điều khiển bởi một số ít định luật vật lý căn bản - lực đòn bẩy, quán tính, mô men, nhiệt động lực - và nếu xa rời những nguyên lý nền tảng đó thì ta không thể đóng đinh, xách nước hay lăn vòng. Điều đó đồng nghĩa với việc ta xa rời thế giới tự nhiên. Xa rời thế giới tự nhiên có nghĩa là ta đã đánh mất nhân tính của mình và ta sống trong một môi trường mà ta hoàn toàn không hiểu. Cô có thể tưởng tượng được nỗi kinh hoàng của tôi trước chuyện này không? Cô có thể thấu hiểu những gì đã bị quên lãng chỉ trong vài thế hệ không? Nhân loại mất một triệu năm để học cách lăn vòng, nhưng chỉ mất năm mươi năm để chúng ta quên.”
Chúng ta đã quên, tất nhiên, bởi vì quy luật tự nhiên cũ xưa nhất trong sách có nói là: không dùng thì sẽ quên. Bọn trẻ không thể điều khiển những công cụ đơn giản nhất bởi vì chúng đâu có cần học. Nó chẳng phục vụ được cho mục đích gì trong đời sống thoải mái, đầy đủ của chúng. Bố mẹ chúng không thể dạy chúng kiểu khéo léo tay chân này, bởi vì chủ yếu họ cũng không có kỹ năng đó. Không cần tới nó, không bao giờ học nó, không nhờ tới nó nữa. Nhưng chúng ta biết đâu phải xưa tới nay mọi thứ luôn thế này. Ví như, ngay cả là một thế kỷ trước, không có người đàn ông nào trên nước Mỹ mà không luôn giắt theo mình một con dao. Dù nó là để lột da gấu hay gọt điếu xì gà, người đàn ông cần con dao như một công cụ sống căn bản, và anh ta biết cách giữ gìn, mài giũa và cầm nó. Giờ thì ai cần dao nữa?
Lại nói thêm, giờ đây còn ai cần ngựa? Thậm chí có ai cần biết ngựa là gì? Trên những hành trình cùng ngựa, Eustace nhận ra rằng những người ở độ tuổi bảy mươi tám mươi có thể thoải mái khi ở bên lũ ngựa, vì họ đã trưởng thành nhờ làm việc với gia súc từ khi còn nhỏ hoặc được bố mẹ kể cho nghe về điều đó. Nhưng cứ mỗi thế hệ sau thì ý niệm về loài ngựa ngày càng trở nên xa xôi, kỳ lạ, chẳng tài nào hình dung được. Những người trẻ tuổi không hề biết cách ứng xử khi ở bên lũ ngựa, cách để bảo vệ bản thân, cách nắm bắt được khái niệm về một sinh vật khác.
“Và con cái của họ sẽ nghĩ gì?” Eustace băn khoăn. “Hai mươi năm sau, người ta sẽ thấy con ngựa sao mà giống lạc đà, giống một con vật dở hơi nào đó trong sở thú.”
Thế nên kết quả là sự kém cỏi cứ lan rộng dần theo mỗi thế hệ. Tuy nhiên, Eustace cảm thấy anh có thể xử lý được sự kém cỏi này nếu không có cái sai lầm khủng khiếp mà anh thấy ở người Mỹ hiện đại ở mọi lứa tuổi: người ta không lắng nghe. Họ không biết chú ý. Họ không biết cách tập trung. Thậm chí nếu có tuyên bố muốn học hỏi, họ cũng chẳng có kỷ luật
“Điều khó khăn nhất là làm cho lớp thanh niên tin theo tôi và làm như tôi bảo,” Eustace nói. “Nếu có bốn người làm việc với tôi ở trên này và tôi bảo, 'OK, mọi người nghe đây. Ba người hợp lực lăn khúc gỗ này đi nhé,' thì một người sẽ bắt đầu lăn khúc gỗ ngay lập tức, hai người sẽ kéo khúc gỗ để đếm cho đủ ba người, còn người thứ tư sẽ thong dong lang thang đâu đó mà ngoáy mũi. Và họ thường xuyên nghi vấn về thẩm quyền của tôi. Họ luôn muốn biết Tại sao chúng tôi phải làm thế này, tại sao chúng tôi phải làm thế kia? Nghe này, tôi biết tại sao, thế là đủ, tôi chẳng có thời gian đâu mà giải thích mọi quyết định. Họ không bao giờ tin khi tôi nói tôi đúng. Nếu tôi nói tôi đúng thì anh có thể yên tâm là tôi thực sự đúng, bởi vì tôi không mắc lỗi. Nếu tôi không chắc điều gì thì tôi sẽ nói tôi không chắc về điều đó, nhưng hầu hết mọi lúc thì tôi luôn biết chắc. Mọi người phát rồ lên mà bảo, 'Eustace nghĩ cách của anh ta là cách duy nhất trên đời,' Ô, đương nhiên rồi. Cách của tôi là cách duy nhất. Và tôi tin công việc được thực hiện tốt nhất khi mọi người chịu phục tùng quyền lực của một người, giống như trong quân đội ấy. Đó là cách hiệu quả và hợp lý nhất để tạo ra sức lao động. Ví dụ, nếu tôi là tướng trong quân đội, kỷ luật sẽ đâu ra đó hơn và tôi có thể yêu cầu mọi người làm răm rắp như tôi nói, và rồi mọi thứ sẽ diễn ra đúng.”