Vụ Án Trường Oxford - Chương 25 - Phần 2 (Hết)

“Tôi nghĩ ngay lập tức đến buồng của Frank. Tôi đã thấy xác người được đẩy ra khỏi đó hàng ngày. Tôi chỉ cần vớ lấy một chiếc ống tiêm, rồi, đúng như Petersen đã đoán, kiên nhẫn đợi tới lúc thi hài đầu tiên được đặt vào căn phòng nhỏ ngoài hành lang chính. Hôm ấy là Chủ nhật, Beth thì đã đi lưu diễn xa. Thật là điều kiện tuyệt hảo đối với nó. Tôi kiểm lại thời điểm tử vong ghi trên nhãn, để yên tâm mình cũng có bằng cớ ngoại phạm, rồi chọc mũi kim vào tay tử thi, để lưu lại một dấu đâm vào. Tôi chỉ sẵn lòng đi xa đến mức đó thôi. Trong khi đang tìm hiểu về những án mạng không phá được, tôi có thấy nói là có tồn tại một thứ hóa chất phát tán ngay trong vài giờ mà không để lại dấu vết. Chỉ sự nghi ngờ đó là đủ đối với tôi rồi. Thêm nữa, tên hung thủ của tôi theo đúng lý là đã tính toán mọi chuyện thật cẩn thận để qua mặt cảnh sát. Tôi đã quyết định sẵn cho ký hiệu thứ hai là con cá, và liên chuỗi sẽ là mấy con số đầu tiên của Pythagoras.”

“Từ bệnh viện tôi đi thẳng tới Viện và dán một mảnh giấy giống như tôi đã miêu tả cho Petersen trên cửa trước. Viên thanh tra kết nối sự việc ở phần này lại với nhau và tôi nghĩ có một thời gian mình đã là một nghi can. Từ sau cái chết thứ hai thì Sacks bắt đầu theo dõi tôi.”

“Nhưng mà ông đâu có thể nào làm gì được tại buổi hòa nhạc - ông ngồi ngay cạnh tôi kia mà!” Tôi nói.

“Buổi hòa nhạc... Buổi hòa nhạc là dấu hiệu đầu tiên của cái mà tôi sợ nhất, cơn ác mộng vẫn ám ảnh tôi từ hồi còn nhỏ. Cứ đúng như kế hoạch, lúc ấy tôi đang đợi một tai nạn xe cộ xảy ra, đúng cái nơi mà Johnson chọn để lao xuống vực. Đấy chính là nơi tôi bị tai nạn, và là thứ độc nhất tôi nghĩ ra liên quan đến ký hiệu thứ ba, hình tam giác. Tôi tính là mình sẽ gửi đi một lời nhắn sau khi xảy ra biến cố, nhận một tai nạn bình thường là một vụ án mạng, một vụ án mạng hoàn hảo không để lại dấu vết. Đấy là lựa chọn của tôi và nó sẽ là cái chết cuối cùng. Ngay sau đó, tôi định sẽ công bố giải đáp của liên chuỗi mà chính tôi đã khởi đầu. Đối thủ trí thức tưởng tượng của tôi sẽ thừa nhận thua cuộc, và hoặc là biến mất trong yên lặng, hoặc là sẽ để lại vài dấu vết giả để cho cảnh sát tiếp tục đuổi theo một bóng ma lâu thêm chút nữa. Nhưng rồi người đàn ông kia lại chết trong buổi hòa nhạc.”

“Đó chính là thứ tôi đang tìm kiếm - một cái chết. Từ chỗ chúng ta ngồi, đúng thật là nhìn giống y như ông ta đang bị siết cổ. Thật dễ dàng mà tin rằng chúng ta đang chứng kiến một án mạng. Nhưng có lẽ phi thường nhất chính là ở chỗ người đã chết đang chơi kẻng tam giác. Tôi coi đó như một điềm báo tốt đẹp, như thể kế hoạch của tôi đã được một cõi trên nào đó chấp thuận, và cuộc đời đang làm cho mọi sự dễ dàng với tôi. Như đã nói, tôi chưa bao giờ học được cách đọc được những dấu hiệu của thế giới thật bên ngoài. Tôi nghĩ mình đã có thể trưng dụng cái chết của người nhạc công vào cho kế hoạch của mình. Trong khi anh và những người khác xông lên sân khấu, tôi coi lại xem có ai đang nhìn mình không, rồi xé ra từ trong tờ chương trình hai từ tôi cần dùng trong lời nhắn. Rồi tôi chỉ việc đặt nó trên ghế ngồi và đi theo anh. Lúc sau, khi viên thanh tra ra hiệu cho chúng ta và mở đường đi tới hàng ghế của mình, tôi dừng lại theo chủ ý, như thể bị kinh ngạc lắm, ngay trước khi về đến ghế mình, để cho ông ta mới là người nhặt những từ ấy lên. Đấy chính là ảo giác tôi đã tạo ra. Dĩ nhiên, số phận đã giúp cho tôi một tay - hay là tôi cứ tưởng như thế - theo một cách lạ thường khi để cho Petersen cũng ở ngay đó để chứng kiến sự việc. Vị bác sĩ đi lên sân khấu đã xác định chuyện mà tôi nhìn thấy đã rõ ràng: đó là một sự tắc nghẽn hô hấp tự nhiên, mặc dù bề ngoài nhìn có vẻ đầy kịch tính. Tôi sẽ kinh ngạc vô cùng nếu xét nghiệm ra thấy có gì khác hơn thế.”

“Vấn đề còn lại của tôi - mà tôi đã giải một lần rồi - chính là làm sao cho một cái chết tự nhiên nhìn giống một án mạng, và cung cấp một giả thuyết thật thuyết phục để Petersen phải gộp cái chết vào trong liên chuỗi. Lần này thì khó khăn hơn thật, vì tôi không thể lại gần thi thể để đưa tay túm lấy cổ được. Sau đó tôi nhớ lại vụ án của nhà ngoại cảm, và chỉ nghĩ ra được mỗi một gợi ý, đó có thể là một vụ thôi miên từ xa. Nhưng tôi cũng biết gần như là vô phương thuyết phục được Petersen, kể cả nếu ông ta đã có nuôi mối nghi ngờ về cái chết của bà Crafford. Nó không nằm trong, ta tạm nói thế, cái thẩm mỹ của lập luận của ông ta, trong phạm trù những gì có xác suất xảy ra. Ông ta sẽ không bao giờ coi nó là một giả thuyết khả thể, như chúng ta nói trong toán học. Nhưng hóa ra đến cuối cùng thì tất cả những cái đó đều không cần thiết. Petersen dễ dàng chấp nhận cái lý thuyết là người này đã bị tấn công từ phía sau, mà đối với tôi thì nghe còn chênh vênh hơn nữa. Ông ta chấp nhận nó, dù rằng ông ta ở ngay đó và đã thấy cùng một thứ y như chúng ta: dù cho cái chết đã xảy ra li kì đến thế nào, thì cũng vẫn là không có ai khác ở trên đó cả. Ông ta chấp nhận nó vì lý do người ta thường hay tin vào chuyện này chuyện kia: vì ông ta muốn tin.”

“Có lẽ chỗ kỳ lạ nhất chính là Petersen thậm chí không hề xem xét khả năng đó có thể là một cái chết tự nhiên hay không. Tôi hiểu ra là cho dù trước kia ông ta đã có nghi ngờ đi nữa, đến giờ này ông ta đã khá bị thuyết phục là mình đang theo đuổi một tên giết người hàng loạt, nên có vẻ như tìm thấy án mạng ở mỗi góc đường là chuyện hoàn toàn hợp lý, kể cả giữa buổi tối đi nghe hòa nhạc với con gái ông ta.”

“Ông không cho là Johnson có thể đã tấn công người nhạc công, như Petersen tin hay sao?” Tôi hỏi.

“Không, tôi không nghĩ thế đâu. Cái đó chỉ có khả năng nếu anh nghĩ theo hướng của Petersen, nghĩa là nếu Johnson đã tìm cách giết cả bà Eagleton và Ernest Clarck. Nhưng cho đến buổi chiều hòa nhạc, Johnson khó lòng mà nhìn ra cho đúng được liên hệ giữa hai cái chết đầu tiên. Tôi nghĩ, buổi chiều hôm ấy, Johnson cũng như tôi, đã đọc lầm các dấu hiệu. Anh ta không chừng còn không chứng kiến cả cái chết của người kia nữa, vì phải ở lại đợi bọn trẻ trong xe bus mà. Nhưng anh ta nhất định đã đọc thấy câu chuyện trên mặt báo ngày hôm sau. Anh ta nhìn ngay ra được cái liên chuỗi ký hiệu, một liên chuỗi mà anh ta biết rõ phần kế tiếp. Đã đọc một cách cuồng tín những sách vở về các đồ đệ Pythagoras, anh ta cảm thấy, cũng như tôi, là kế hoạch của mình đã được chấp thuận từ một cõi cao hơn. Số trẻ con trong đội bóng rổ cũng chính là số điểm trong hình tứ linh. Con gái anh ta chỉ còn được có bốn mươi tám giờ để sống. Mọi việc đều có vẻ như đang nói: đây là cơ hội của ngươi, cơ hội cuối cùng. Đấy chính là cái mà tôi cố giải thích cho anh hôm ấy ở công viên, cơn ác mộng đã ám ảnh tôi từ khi còn nhỏ - những hậu quả, những điều phát sinh bất tận, những con quái vật được trí óc triệu về. Tôi chỉ muốn làm sao cho nó khỏi phải đi tù, vậy mà giờ đây tôi phải chịu trách nhiệm về cái chết của mười một con người.”

Ông im lặng một lúc, nhìn ra ngoài cửa sổ.

“Suốt thời gian ấy anh đã làm thước đo cho tôi. Tôi biết là nếu mình có thể thuyết phục anh về chuyện liên chuỗi, tôi mới thuyết phục được Petersen. Tôi cũng biết là nếu tôi thiếu sót chỗ nào, anh có thể sẽ chỉ ra cho tôi thấy. Nhưng tôi cũng muốn sao cho được công bằng, nếu có thể dùng từ ấy ở đây - muốn cho anh mọi cơ hội phát hiện sự thật. Cuối cùng bằng cách nào anh đã nhận ra?” ông hỏi đột ngột.

“Tôi nhớ lại lời thanh tra Petersen sáng nay, rằng ta không bao giờ biết một người cha sẽ đi xa đến mức nào vì con mình. Ngày tôi thấy ông gặp Beth tại chợ, tôi nghĩ mình đã cảm thấy một quan hệ lạ kỳ giữa hai người. Tôi đặc biệt để ý một chuyện là cô ấy có vẻ như muốn được ông chấp thuận cuộc hôn nhân của mình. Tôi tự hỏi có khi nào ông lại phải đi chế tạo ra cả một chuỗi án mạng để che chở cho một người ông cũng không thường gặp lắm hay không.”

“Phải, trong cơn tuyệt vọng, nó đã biết chính xác cần phải trông vào đâu. Tôi không biết nó tin như vậy thì có đúng không, và tôi đoán có lẽ sẽ không bao giờ mình biết được. Không biết mẹ nó đã nói gì với nó về chúng tôi. Nó chưa bao giờ nhắc đến chuyện này với tôi trước đây cả. Nhưng để đảm bảo là tôi phải giúp nó, nó đã dùng đến con chủ bài.” Từ túi trong của áo vest, ông lấy ra một tờ giấy gập làm tư rồi đưa cho tôi. “Con đã làm một chuyện kinh khủng,” câu đầu tiên viết, bằng nét chữ trẻ con một cách kỳ lạ. Dòng thứ hai, có vẻ như đã được thêm vào trong nỗi hoảng loạn, viết, với những chữ cái đầy nét thống thiết: “Làm ơn với, thế nào cũng phải cứu con, Ba ơi.”

Đoạn kết

Khi tôi bước xuống những bậc thềm viện bảo tàng, trời vẫn còn nắng, cái tương sáng hiền hòa kéo dài của buổi chiều muộn mùa hè. Tôi đi bộ trở lại ngõ Cunliffe, bỏ lại sau lưng mái vòm hoàng kim của đài thiên văn. Trong khi chậm rãi đi trên đường Banbury, tôi tự hỏi mình nên làm gì với lời thú tội vừa nghe. Đèn đang bật lên trong vài ngôi nhà và qua cửa sổ, tôi thoáng thấy túi đi chợ, tivi đang mở - những mảnh của cuộc đời thường diễn ra không xáo trộn sau các hàng giậu. Trên đường Rawlinson, một chiếc xe đằng sau tôi bấm còi hai lần ngắn và rộn rã. Tôi quay lại, tưởng sẽ thấy Lorna; thay vào đó, tôi thấy Beth đang vẫy tay từ một chiếc xe nhỏ mui trần mới toanh, xanh ánh thép. Tôi tạt vào lề đường. Cô vuốt lại mái tóc bị rối và nhoài qua ghế hành khách, miệng cười thật rộng.

“Anh có muốn quá giang không?”

Cô vươn tay ra để mở cửa, nhưng rõ ràng cô đã thấy điều gì khác lạ trong dáng vẻ của tôi vì bàn tay cô ngưng lại nửa chừng. Tôi khen ngợi chiếc xe của cô một cách máy móc rồi nhìn vào đôi mắt cô. Tôi nhìn như thể mình vừa gặp cô lần đầu và đáng lẽ phải thấy ở cô điều gì mới mẻ. Nhưng trông bề ngoài cô chỉ có vẻ hạnh phúc hơn, vô tư hơn, đẹp hơn, ngoài ra không còn gì khác.

“Có chuyện gì không hay à?” Cô hỏi. “Anh vừa ở đâu về vậy?”

“Tôi vừa nói chuyện với Arthur Seldom,” tôi ngần ngại trả lời.

Một ánh hoảng hốt vụt qua đôi mắt cô.

“Về chuyện toán học à?”

“Không,” tôi đáp. “Chúng tôi nói chuyện về những vụ án mạng. Ông ấy đã cho tôi biết tất cả.”

Mặt cô tối sầm và hai tay cô đặt lên tay lái, thân hình bỗng nhiên cứng lại.

“Tất cả? Không, tôi không nghĩ là ông có thể cho anh biết tất cả đâu.” Cô mỉm cười một cách bồn chồn với chính mình, và vẻ cay đắng ngày trước lại xuất hiện trong mắt cô một thoáng. “Ông ta không bao giờ có thể có đủ tinh thần mà kể cho anh nghe mọi chuyện. Nhưng tôi thấy,” cô nói, thận trọng nhìn tôi, “là anh đã tin lời ông rồi. Bây giờ anh sẽ làm gì?”

“Không làm gì hết. Tôi làm gì được nào? Nói ra không chừng họ cũng bắt cả ông ấy nữa.” Tôi đáp, nhìn thẳng vào cô. Trong mọi câu hỏi, thực sự chỉ có một câu tôi muốn hỏi mà thôi. Tôi nghiêng mình về phía cô và nhìn vào đôi mắt cứng rắn màu xanh lam. “Điều gì đã khiến cô làm vậy?”

“Điều gì đã khiến anh đến đây?” Cô hỏi. “Anh đâu có phải chỉ đến để học toán, đúng thế chứ? Tại sao anh lại chọn Oxford?” Một giọt lệ chậm chạp ló ra từ mí mắt cô. “Cũng chính vì một câu anh đã nói. Cái ngày tôi thấy anh chui ra khỏi xe với cây vợt, trông thật là sung sướng. Khi chúng ta nói đến chuyện học bổng. ‘Cô nên thử đi,’ anh đã nói. Tôi không thể ngừng lặp lại câu ấy một mình: mình nên thử đi. Tôi tưởng bà sắp chết sớm thôi và tôi sẽ có cơ hội làm lại cuộc đời mới. Nhưng vài ngày sau, bà nhận được kết quả khám nghiệm. Bệnh ung thư đã suy giảm, bác sĩ nói bà có thể sống thêm cả mười năm nữa. Mười năm nữa bị xiềng vào với mụ phù thủy già ấy... tôi đã không còn chịu nổi.”

Giọt lệ trên mí mắt cô giờ đã lăn xuống má. Cô lau nó đi một cách đột ngột, ngại ngùng, rồi lục tìm một tờ khăn giấy trong ngăn kéo xe. Khi cô đã đặt tay lên tay lái lại, tôi một lần nữa nhận thấy ngón tay cái nhỏ nhắn của cô.

“Giờ anh có lên xe không?”

“Lần sau vậy,” tôi nói. “Hôm nay buổi chiều thật dễ chịu, tôi muốn đi bộ thêm một chút.”

Cô lái đi khỏi và tôi nhìn theo bóng chiếc xe nhỏ dần đến khi nó mất dạng vào trong ngõ Cunliffe. Tôi thắc mắc không biết chuyện mà Beth nghĩ Seldom sẽ không bao giờ dám nói với tôi có phải chính là chuyện ông vừa kể với tôi không, hay còn có điều gì khác mà tôi không dám tưởng tượng ra. Tôi tự hỏi mình đã biết được bao nhiêu phần sự thật và khi nào thì phải bắt đầu viết bản báo cáo kỳ hai. Đến đầu ngõ Cunliffe, tôi nhìn xuống dưới chân, nhưng không còn dấu vết gì của con lửng cả. Mảnh da thịt cuối cùng đã biến mất, và dưới con mắt đời thường, con đường chạy dài trước mặt tôi đã trở lại sạch sẽ, trống trải, và vô tội y như trước.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

Ghi chú của người dịch: ba hình vẽ của Seldom ở chương 4 chính là hai số 1, rồi hai số 2, và hai số 3 vẽ quay ngược và nối liền. Như vậy, ký hiệu thứ tư sẽ là hai số 4 cũng sắp đặt theo cách đó (dành cho những bạn đọc không đủ kiên nhẫn để nghĩ ra lời giải).

Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác Sách:
Mai – vuthungoc – trangchic
(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)