Rừng Răng-Tay - Chương 03
3
Việc đầu tiên mà các xơ làm khi Jed đưa tôi về nhà thờ là cởi bỏ hết quần áo của tôi ra rồi gần như dìm tôi xuống giếng thiêng. Trong khi các xơ cầu nguyện và cọ rửa, tôi chờ đợi nước sẽ đốt cháy da thịt vì tôi đã hết tin vào Chúa rồi, nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Qua làn nước và những cánh tay của các xơ, tôi nhìn thấy Jed bước ra khỏi nhà thờ.
Sau đó họ kéo tôi ra khỏi vùng nước thiêng, mắt tôi tèm nhem và mớ tóc dài vắt ngang dọc như mạng nhện lên mặt đến nỗi tôi nhổ phì phì và ho sặc sụa.
- Con phải ở lại trong nhà thờ. - Các xơ bảo tôi. - Chúng ta không thể để con quay lại khu vực hàng rào được.
Tôi hiểu rằng không điều gì có thể lay chuyển nổi quyết định của họ. Nhưng tôi vẫn cảm thấy tức giận vì họ cho rằng tôi xuẩn ngốc đến nỗi muốn đi theo mẹ tôi.
Bà có còn tồn tại trên đời này nữa đâu.
Người ta choàng một chiếc chăn lên vai tôi và dẫn tôi đi dọc một hành lang mà trước đây tôi chưa bao giờ nhìn thấy, rồi chúng tôi đi xuống những bậc thang dẫn vào một căn phòng có sàn bằng đá, tường bằng đá, với một cái giường và cửa sổ thì trông ra khu nghĩa địa quay mặt ra phía rừng. Tôi muốn cười phá lên. Nếu họ sợ tôi gây ra chuyện sau khi phải đối mặt với cái chết của mẹ thì tại sao lại cho tôi ở trong cái phòng nhìn về nơi mà mẹ tôi đã Tái sinh? Tôi có thể thấy rõ những cánh cổng giống hệt nhau mà một trong số đó là chỗ mẹ tôi bị kéo lê qua. Thậm chí tôi còn có thể nhìn thấy một vài sinh vật đến từ Vùng vô định đang ủn hàng rào. Tiếng kêu rên của chúng vọng vào tận ô cửa sổ đang mở.
- Tại sao con không được về nhà? - Tôi hỏi khi họ đóng sập cánh cửa đằng sau lưng tôi.
Người già nhất, xơ Tabitha, dừng lại nơi bậu cửa.
- Tốt hơn hết là con nên ở lại đây.
- Thế còn anh trai con thì sao? - Tôi khoanh tay trước ngực, hai khuỷu tay nằm gọn trong lòng bàn tay.
Xơ không trả lời. Sau đó cánh cửa đóng lại và tôi có thể nghe thấy tiếng khóa lách cách. Tôi hoàn toàn một mình với những âm thanh đến từ Vùng vô định.
Trong khoảnh khắc, tôi ngắm nhìn mặt trời đang trôi dạt trên bầu trời. Tôi để ý thấy ban ngày nắng nóng, các sinh vật của Vùng vô định sẽ từ bỏ vị trí của chúng ở chỗ hàng rào và quay trở lại rừng rậm. Chúng sẽ nằm lì suốt trong đó cho đến khi nào đánh hơi thấy thịt người.
Tôi nhìn hàng rào hòng tìm kiếm bóng hình thoáng qua của mẹ nhưng bà sẽ chẳng bao giờ xuất hiện nữa.
Đêm đó trời không có trăng và tôi thấy những ánh sao đang chen vào giữa khoảng không sẫm tối. Những đám mây nặng nề sà thấp đến nỗi ngó ra ngoài cũng chẳng nhìn thấy gì nên tôi quay trở lại giường và ngồi xuống, cũng chẳng thèm để ý đến ánh nến đang lập lòe trên chiếc bàn nhỏ sát cửa sổ.
Tôi muốn đi ngủ. Tôi muốn những giấc mơ sẽ kéo tôi ra khỏi thế giới này để có thể quên đi tất cả, để có thể chấm dứt những hình ảnh đang xoắn quện lấy tôi, để đặt dấu chấm hết cho nỗi đau đang gặm nhấm cơ thể.
Bất chợt một tia sáng mảnh quét qua khe cửa dưới và tôi có thể trông rõ những bức tường xung quanh. Một con dế rỉ rả đâu đó trong căn phòng. Tôi cuốn chăn quanh người, trùm kín lên cả đầu, gối co lên tận ngực và lặng lẽ cầu nguyện cho mẹ.
Ngày hôm sau, mắt tôi thâm quầng vì thiếu ngủ. Tôi đứng giữa ánh nắng hắt ngang trên sàn, chẳng để ý đến gì khác ngoài những tia sáng đang chậm chạp rời khỏi tôi. Có ai đó đã mang thức ăn và một bình nước vào để ở đó nhưng tôi chẳng thèm bận tâm. Sau đó, xơ Tabitha vào nói rằng xơ đến để xem tôi thế nào nhưng tôi biết chắc xơ chỉ muốn vào xem tình trạng tinh thần của tôi đến đâu, xem tôi có suy sụp trước cái chết của cả bố lẫn mẹ không. Ngày hôm đó bắt đầu như thế này: Đồ ăn mang vào, xơ Tabitha, nước uống mang vào, xơ Tabitha và cứ thế cứ thế.
Một góc nào đó trong con người tôi những muốn nổi loạn, muốn thoát khỏi căn phòng này, muốn chạy đến và bày tỏ nỗi đau với anh trai tôi. Nhưng tôi đã kiệt sức, cơ thể tôi không cho phép tôi động đậy nữa. Ở đây tôi có chỗ ấm, được cho ăn, một mình và không phải trả lời bất cứ câu hỏi nào cũng như chịu đựng những cái nhìn dò xét. Tôi không phải giải thích rằng tại sao lại để mẹ ở lại một mình, tại sao tôi lại không ở bên bà.
Thay vì điều đó, tôi có thể dùng thời gian này mà ngẫm nghĩ. Tôi nhắm mắt nằm dài trên sàn, người lả đi, cố gắng nhớ lại cảm giác lúc mẹ lùa tay vào tóc khi tôi kể lại những câu chuyện mà bà từng kể cho tôi nghe hết lần này đến lần khác. Tôi không muốn quên bất cứ chi tiết nào và tôi sợ rằng biết đâu mình đã quên mất điều gì đó. Tôi rà soát lại từng câu chuyện, những câu chuyện có vẻ như rất phi lý về đại dương, khác nào con người có thể bay lên thiên đường và chạm tay vào mặt trăng. Tôi muốn những câu chuyện này sẽ mãi in sâu trong óc, sẽ trở thành một phần cơ thể mà tôi không thể mất đi dễ dàng như mất cha mẹ được.
Anh trai tôi không vào thăm và các xơ cũng không hề kể cho tôi bất cứ tin tức gì về anh. Tôi tự hỏi liệu anh có còn nhớ đến tôi nữa không. Tôi rất muốn giận anh, muốn vùi mình vào bất kỳ cảm xúc nào ngoài nỗi đau đớn và cú sốc này, nhưng tôi hiểu rằng đấy chính là cách mà anh cũng muốn quên đi.
Và cuối cùng, sau một tuần thì xơ Tabitha vào và đưa cho tôi một cái áo chẽn màu đen để thay. Xơ nói rằng tôi có thể đi được rồi, rằng tôi phải cảm ơn Chúa vì ngài đã ban cho tôi sức mạnh để tiếp tục cuộc đời này.
Tôi gật đầu, suýt nữa thì nói với xơ rằng Chúa chẳng can thiệp gì được vào chuyện này. Sau đó tôi đi bộ về nhà, nơi mà chỉ mới tuần trước thôi, chúng tôi còn sống cùng với nhau, an toàn và hạnh phúc. Ngôi nhà của anh trai là chỗ mẹ tôi đã từng ở và vì là con trai duy nhất nên anh được thừa kế. Tôi không nén được nỗi đau đang dâng lên từ bên trong khi bước vào nhà. Mẹ tôi không còn ở đó nữa. Sẽ chẳng bao giờ ở đó nữa. Tôi nghĩ tới tất cả hồi ức đang đọng lại trên những bức tường gỗ gồ ghề, tất cả sự ấm áp, những tiếng cười và những giấc mơ.
Tôi gần như cảm thấy những điều này thoát ra ngoài và nhẹ nhàng hòa cùng ánh mặt trời, như thể ngôi nhà đã quét trôi sạch toàn bộ hồi ức của nó. Tôi cố gắng quên mẹ, quên những câu chuyện và những hình ảnh thời thơ ấu. Không muốn nghĩ gì nữa, tôi đặt một tay lên bức tường phía bên phải cửa ra vào. Như mọi ngôi nhà khác trong làng, ở đó có một dòng chữ khảm vào gỗ do các xơ viết. Chúng tôi có thói quen và phong tục là bất cứ khi nào bước qua ngưỡng cửa đều phải ấn tay lên những dòng Kinh thánh này, điều đó nhắc nhở chúng tôi nhớ đến Chúa và những lời răn của Người.
Tôi chờ đợi chúng làm cho tôi bình tĩnh trở lại, chờ đợi chúng mang đến cho tôi ánh sáng và ơn huệ. Nhưng chẳng có gì cả, chẳng gì có thể xóa tan được nỗi đau trong lòng tôi. Tôi tự hỏi không biết tôi còn có thể tin tưởng vào Chúa trời được nữa hay không.
Lớp gỗ dưới tay tôi trơn láng vì qua nhiều thế hệ, những người trong làng đã ấn tay vào đấy. Chỉ có điều mẹ tôi sẽ không bao giờ còn được chạm tay vào đó nữa.
Như thể biết rõ hôm nay tôi sẽ về, anh trai tôi mở cửa bước vào, khiến tay tôi bị giật khỏi những vần thơ chạm khắc. Nhìn thấy anh, toàn bộ hồi ức và nỗi đau tươi nguyên lại quay trở lại. Anh không cho tôi vào nhà và tôi tự hỏi không biết chị Beth có nghe thấy chúng tôi nói chuyện không.
Tôi ngạc nhiên vì sự lạnh nhạt của anh. Chúng tôi đã từng như những người bạn và đã chia sẻ với nhau mọi thứ. Nhưng anh luôn là đứa con trai của cha còn tôi là đứa con gái của mẹ. Nỗi đau mất cha là quá lớn đối với anh và trong suốt những tháng vừa qua, tôi cảm thấy anh trở nên chai lì. Anh tự hiến mình cho nhiệm vụ bảo vệ và trong một thời gian ngắn đã thăng hạng rất nhanh. Tôi lồng những ngón tay vào nhau để trước ngực và cố tìm kiếm trên khuôn mặt anh nét dịu dàng mà tôi từng biết, nhưng tất cả những gì tôi nhìn thấy chỉ là sự gai góc lạnh lẽo.
- Tại sao em lại để mẹ đi? - Anh hỏi tôi. Anh đưa một bàn tay lên che ánh nắng đang rọi qua vai tôi và hành động này của anh làm cho tôi nhớ đến tư thế quen thuộc của mẹ khi đứng ở cửa rừng và đưa mắt tìm kiếm cha.
Tôi đã chờ đợi câu hỏi này và không biết liệu anh muốn nghe điều gì.
- Đó là sự lựa chọn của mẹ. - Tôi bảo anh thế.
Anh nhổ nước bọt lên nền đất sát bàn chân tôi và vài giọt nước bọt bắn lên đám râu ngắn sẫm màu trên cằm anh.
- Đấy không phải là sự lựa chọn của mẹ. - Giọng anh dằn xuống và tôi biết rằng anh muốn la hét chửi thề lắm rồi nhưng không muốn gây ra sự chú ý trong làng. - Bà ấy đã lú lẫn, bệnh hoạn.
Tôi cảm thấy cơn giận và nỗi đau của anh tràn cả sang tôi và tôi muốn tự mình gánh chịu lấy những cảm giác ấy, muốn chia sớt với anh gánh nặng này. Nhưng những nỗi đau của tôi cũng lớn quá, chúng giày vò và lấn át đến nỗi tôi không thể an ủi anh được.
- Em không thể giết mẹ, Jed. Em không thể để cho họ làm điều đó. - Tôi cúi gằm xuống nhìn đôi tay mình.
- Vậy em nghĩ gì khi ném mẹ vào rừng, hả Mary? - Anh sấn tới chộp lấy vai tôi mạnh đến nỗi những ngón tay anh như bấu ngập vào tận xương. - Em không nghĩ rằng giờ thì chính anh sẽ phải giết mẹ hay sao? Em nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra khi anh đi tuần? Em nghĩ anh có thể thả mẹ đi được hay không?
Anh khoát tay qua những cánh đồng về phía khu vực hàng rào.
- Thế nào? Đó không phải là cuộc sống. Đó là trái lẽ tự nhiên. Thật ác độc và kinh khủng đến phát ốm. Anh không thể tin là em lại làm điều này đối với anh. Em muốn anh là người sẽ giết mẹ của chúng ta trong khi em không đủ mạnh mẽ để làm việc đó.
Giờ thì tôi hiểu ra rằng anh muốn tôi là người phải giết mẹ để anh không phải đưa ra quyết định lựa chọn của chính mình.
- Em xin lỗi, Jed.
Tôi nói thế vì không biết làm thế nào cho phải. Anh là Người bảo vệ, một trong số rất ít người mà nhiệm vụ duy nhất của họ là bảo vệ ngôi làng này, sửa chữa hàng rào và giết những Người bị nhiễm. Tôi không biết làm thế nào để bắt anh nhận ra rằng đó là sự lựa chọn của mẹ chứ không phải của tôi, rằng ngay khi đưa ra quyết định đó, bà đã phải biết rằng rồi sẽ xảy ra tình huống chính đứa con trai của bà sẽ phải ra tay giết bà. Tôi không biết làm thế nào để anh hiểu rằng đôi khi tình yêu và sự hy sinh có thể khiến một người lựa chọn con đường dẫn đến với người bạn đời của mình ở trong rừng rậm kia. Thậm chí ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc phải vứt bỏ tất cả những thứ khác trong cuộc đời.
Tôi định tiến về phía anh để ôm lấy anh nhưng cánh tay anh chắc nịch, bàn tay anh vẫn đặt trên vai tôi khiến tôi không thể nhích lên chút nào được.
- Giờ anh là chủ ngôi nhà này, Mary. - Anh bảo tôi.
Tôi cố gắng mỉm cười để nhắc anh nhớ rằng anh sẽ luôn là anh trai của tôi.
- Điều đó không có nghĩa là anh không thể ôm em gái của mình. - Tôi nói.
Anh không cười như tôi nghĩ.
- Anh nghe nói em muốn trở thành tu sĩ. - Anh nói. Những lời nói của anh khiến tôi choáng váng như bị một cái tát. Tôi không biết mình đang cảm thấy thế nào nữa: giận dữ, đau đớn, hối tiếc, nhưng không phải vì anh muốn đuổi tôi đi, không phải vì anh muốn quẳng tôi ra khỏi cửa và để tôi lại với các xơ thậm chí trước khi tôi có cơ hội để trò chuyện với anh, để bào chữa cho những hành động của tôi. Đó là lý do tại sao anh không đến nhà thờ với tôi. Trong ý nghĩ của anh, tôi đã thuộc về họ rồi, tôi đã sẵn sàng trở thành một nữ tu sĩ.
Tôi vẫn loáng thoáng hình dung ra rằng thế nào rồi điều này cũng sẽ đến, rằng sớm muộn gì đó cũng là cảnh không tránh khỏi trong cuộc đời chúng tôi. Hôm nay lúc đi bộ về nhà, tôi đã lờ mờ nhận ra rằng thậm chí tôi còn không được phép vào nhà để sắp xếp những đồ đạc xoàng xĩnh của mẹ tôi nữa. Jed sẽ lấy hết tất cả.
- Chẳng có ai trò chuyện với em cả. Chẳng ai cầu hôn em. Cũng sẽ chẳng có ai đính ước với em trong mùa đông này. - Những đầu ngón tay của anh vẫn bấu mạnh vào cánh tay tôi.
- Có Harry. - Tôi nói, làm một cử chỉ vô nghĩa về phía ngọn đồi mà phía sau là dòng suối nơi chỉ mới tuần trước Harry đã mời tôi đến dự Lễ hội Ngày mùa. Tôi cố nhớ lại xem liệu mình đã trả lời cậu hay chưa.
Jed lắc đầu trước cả khi tôi có thể định thần lại trước những tiếng la hét hỗn loạn chực buột ra khỏi đầu óc. Tôi định mở miệng nhưng anh đã cắt ngang.
- Nó không cầu hôn em, Mary.
Tôi nhìn anh, cảm thấy toàn bộ sức lực vốn có như đang rút dần khỏi cơ thể. Trong ngôi làng này, một cô gái chưa kết hôn chỉ có ba sự lựa chọn. Một là cô ta vẫn sống cùng gia đình, hai là một chàng trai sẽ ngỏ lời với cô, tán tỉnh cô trong suốt mùa đông rồi cả hai sẽ làm đám cưới vào mùa xuân, hoặc là phương án còn lại, cô ta sẽ phải trở thành nữ tu sĩ. Làng tôi đã nhanh chóng bị tách biệt kể từ sau thời kỳ Tái sinh và để dân cư đông đúc, lớn mạnh, có một điều luật bắt buộc là những người con trai con gái khỏe mạnh phải kết hôn và sinh con đẻ cái.
Căn bệnh dịch xuất hiện ở thế hệ chúng tôi chỉ càng khiến cho những đứa con sắp sinh trở nên quan trọng hơn, và chỉ với số ít những người đang ở độ tuổi kết hôn, vài mùa trước đây, cái điều tôi mong đợi là đến một mùa thu, sẽ có một người nào đó giống như Harry cầu hôn tôi. Hoặc chí ít thì cũng có cậu trai nào đó quan tâm đến tôi. Tôi đã hy vọng sẽ có một ngày tôi cũng tìm được tình yêu với một người đàn ông giống như mẹ, người đã sẵn sàng đi vào rừng Răng-Tay theo chồng.
Dĩ nhiên là Jed có thể chọn phương án nuôi tôi để chờ đến năm sau xem có ai cầu hôn tôi không, chờ đợi những người dân trong làng đến một lúc nào đó sẽ quên đi cái việc cả cha lẫn mẹ chúng tôi đều đã trở thành sinh vật của Vùng vô định. Nhưng rõ ràng là anh không muốn có sự lựa chọn này.
- Vẫn còn thời gian. - Tôi nói. Tôi có thể nghe thấy lời gợi ý tuyệt vọng trong giọng nói của mình, nghe thấy tiếng cầu xin của tôi mong sao anh để cho tôi về nhà vì giờ chỉ còn lại mỗi hai chúng tôi.
- Em thuộc về các xơ. - Giọng nói của anh vô cảm. - Chúc may mắn!
Những ngón tay mạnh mẽ của anh đẩy tôi ngược hướng với lối vào ngôi nhà. Nhìn sâu vào mắt anh, tôi nghĩ không biết anh có thực sự mong cho tôi may mắn.
- Chị Beth thế nào? - Tôi hỏi, hy vọng bất kỳ sự cảm thông nào đó còn sót lại trong anh cho tới lúc này, hy vọng nhóm lại tình cảm mà chúng tôi đã từng sẻ chia vài tháng trước đây.
Tôi nhìn thấy cơ hàm anh nghiến lại và bàn tay anh nắm chặt trên khung cửa.
- Cô ấy sảy thai rồi. - Anh bước vào nhà. Bóng tối bao trùm bên trong che khuất nét mặt của anh. - Nó là con trai.
Anh nói thêm trước khi đóng cánh cửa lại. Tôi bước thêm một bước, định đẩy cửa bước vào. Nhưng rồi tôi nghe thấy tiếng khóa lách cách và tôi dừng lại, cánh tay lơ lửng trong không khí. Tôi muốn túm lấy anh mà ôm và than khóc tiếc thương. Lẽ ra tôi đã có cháu, tôi đã nghĩ thế khi đặt tay lên cánh cửa gỗ. Tôi muốn hét lên với Jed rằng tôi cũng đau đớn, rằng tôi rất tiếc, và rằng tôi cần anh. Nhưng sau đó tôi nhận ra rằng anh đã có gia đình mới của mình để chia sẻ nỗi tiếc thương, rằng tôi không biết an ủi anh thế nào. Tôi là người duy nhất gợi nhớ tới cái chết của cha mẹ tôi. Những ngón tay tôi gập lại trên cánh cửa, móng tay tôi bấu vào gỗ. Tôi nhận ra rằng giờ phút này tôi cô đơn đến thế nào.
Cố gắng giữ cho cổ họng khỏi nghẹn lại, tôi để thõng cánh tay và quay lưng lại với ngôi nhà duy nhất mà tôi từng biết. Tôi nhìn về phía những ngôi nhà quen thuộc trên đường đi. Khu vườn mùa hè sống động là thế giờ tan hoang thành những miếng đất bẩn để cho ba cô bé nắm tay nhau xoay vòng tròn, miệng ngân nga những nhịp điệu quen thuộc. Tôi biết mình nên quay lại nhà thờ nhưng cũng biết rằng một khi trở thành nữ tu sĩ, suốt cuộc đời này tôi sẽ chỉ quanh quẩn với việc học Kinh thánh và sẽ có rất ít thời gian cho những ý thích chợt nảy sinh và những khát khao của chính mình. Và thay vì điều đó, tôi bước ra khỏi xóm và đi dọc theo rìa những cánh đồng giờ đã gặt hết và chuẩn bị cho mùa đông. Tôi bắt đầu trèo lên quả đồi lúc này đang lơ lửng trong ánh bình minh.
Khi còn là một đứa trẻ, tôi đã được các xơ dạy rằng ngay trước Thời tái sinh, người ta đã biết điều gì sắp xảy đến. Họ biết rằng sắp xảy ra một sự kiện kinh khủng và việc Vùng vô định di chuyển đi khắp mọi nơi chỉ còn là vấn đề thời gian.
Lúc ấy người ta vẫn nghĩ rằng họ có thể kiềm chế nó. Và vì thế, ngay khi Vùng vô định tấn công sự sống và Thời tái sinh bắt đầu, thì họ đã vội vã xây hàng rào. Những dãy hàng rào rất dài. Liệu những chiếc hàng rào có cản được Vùng vô định ở bên ngoài và sự sống ở bên trong hay không chúng tôi cũng không biết nữa. Nhưng cuối cùng thì ngôi làng của chúng tôi vẫn còn đó, một vùng đất lọt thỏm ở giữa khu rừng Vùng vô định rộng mênh mông với vài trăm người sống sót.
Có nhiều giả thuyết khác nhau về việc làm thế nào mà ngôi làng của chúng tôi lại tồn tại ở giữa khu rừng này được. Nhà thờ và một số công trình khác rõ ràng là có từ trước Thời tái sinh và một số người cho rằng chính những người ngày xưa đã xây dựng nên nơi này như một nơi chốn thiêng liêng. Những người khác lại khẳng định rằng chúng tôi là những người được lựa chọn và tổ tiên của chúng tôi khi ấy chính là những giống nòi tốt nhất và họ được gửi đến đây để sinh sống. Việc những người này là ai và tại sao chúng tôi lại ở đấy đã không giải thích được vì lịch sử đã bị mất hoàn toàn, mất vì khi ấy tổ tiên chúng tôi quan tâm đến việc sinh tồn hơn nên không ghi lại hết những gì mà họ nhớ được. Những dấu vết ít ỏi còn sót lại mà chúng tôi đã từng có như bức tranh cụ cố của chúng tôi đứng trước biển thì lại bị mất trong đám hỏa hoạn hồi tôi còn nhỏ mất rồi.
Chúng tôi chẳng biết gì về phía hàng rào bên kia. Nhưng chí ít thì những người ngày xưa cũng đủ khôn ngoan để để lại một kho dự trữ chất liệu hàng rào sau khi họ kiến tạo nên thế giới nhỏ bé của chúng tôi. Và vì thế, sau khi ngôi làng được thiết lập, bắt đầu những cú đánh trả lại rừng rậm và mở mang bờ cõi. Tổ tiên của tôi đã lấn từng tí từng tí một vào rừng rậm và khẳng định chủ quyền của họ. Họ cứ đẩy mãi hàng rào cho đến khi chẳng còn gì để dựng nữa.
Quả đồi này là một phần của cuộc lấn rừng vĩ đại cuối cùng. Tổ tiên chúng tôi thấy rất cần thiết phải có một nền đất cao để quan sát khu rừng. Trước đây đã từng có một đài quan sát trên đỉnh đồi nhưng giờ thì nó đã rơi vào tình trạng ọp ẹp và chẳng bao giờ được sử dụng. Nhưng điều này không ngăn trở tôi trèo lên để ngắm nhìn một lần cuối cùng trước khi tôi đến sống ở chỗ các xơ. Giờ thì tôi đã đứng trên điểm cao nhất ở khu vực khoanh vùng trong cánh cổng.
Tôi ngắm nhìn toàn cảnh bên dưới. Phía tay phải tôi, những cánh đồng trải dài xa tít, đây đó lấm chấm những con bò sữa và cừu được dong ra từ chuồng và chúng đi thành bầy đến nơi xa nhất tận dãy hàng rào. Sẽ chẳng có chuyện gì xảy ra nếu chúng đi lạc vào rừng. Giống như tất cả các loài động vật khác, trừ con người, chúng không thể bị lây nhiễm bởi các sinh vật của Vùng vô định.
Bên trái tôi là ngôi làng. Từ trên này nhìn xuống, những ngôi nhà có vẻ nhỏ hơn, trong khi đó nhà thờ với một hình dáng thô kệch sẽ nổi bật lên khi bóng hoàng hôn xuống. Nghĩa địa của nó đứng giữa công trình bằng đá to lớn và đường biên hàng rào ngăn cách với khu rừng. Từ đây tôi có thể nhìn thấy hàng rào nhô lên một cách kỳ dị, phía bên trái khu vực trung tâm thiêng liêng mọc lên những góc lạ lùng.
Dưới chân đồi, về phía đối diện với ngôi làng, là cánh cổng chắn ngang con đường mòn dẫn vào sâu trong rừng. Một vách núi lởm chởm chạy vắt qua những thân cây. Đối diện với lối mòn ấy cũng có một lối mòn ngược lại nối liền từ nhà thờ chạy ra tận hàng rào, và cả các xơ lẫn những Người bảo vệ đều cấm người làng lai vãng ở lối mòn này.
Các đường mòn chỉ là những vệt đất vô dụng bao quanh bởi các bụi cây gai và cỏ dại. Những cánh cổng khóa kín chúng cũng sẽ đóng kín luôn cả quãng đời còn lại của tôi.
Chẳng ai nhớ được những lối mòn ấy dẫn đi đâu. Một số người nói rằng đấy được coi như những đường thoát. Những người khác lại nói chúng có mặt ở đó để chúng tôi có thể vào rừng lấy gỗ. Chúng tôi chỉ biết rằng một con đường dẫn về phía mặt trời mọc và một con đường dẫn về phía mặt trời lặn. Tôi chắc rằng tổ tiên của chúng tôi biết những con đường này dẫn đi đâu, nhưng cũng như hầu hết những điều xảy ra trước Thời tái sinh, chúng tôi chẳng có chút thông tin nào.
Chúng tôi chính là những người lưu giữ ký ức và cũng chính chúng tôi đã đánh mất nó. Điều này giống hệt một trò chơi mà chúng tôi từng chơi ở trường khi còn bé. Ngồi trong một vòng tròn, một học sinh sẽ thì thầm một câu vào tai học sinh khác, và rồi câu đó cứ được truyền đi một vòng cho tới khi học sinh cuối cùng trong vòng tròn sẽ nhắc lại câu vừa được nghe, cuối cùng mới thấy rằng nó chẳng giống gì so với câu ban đầu cả.
Giờ cuộc sống của chúng tôi là như thế.