Rừng Răng-Tay - Chương 23
23
Những ngôi nhà trú ẩn tồn tại như thể những người xây dựng nên ngôi làng đã lường trước nỗi đe dọa luôn xuất hiện phía bên kia hàng rào. Trong khi nơi trú ẩn làng tôi nhỏ nhắn và được xây dựng bằng các vật liệu sơ sài thì khu vực nhà trú ẩn trên cây ở đây cũng giống như một ngôi làng nữa. Nhà nào cũng to như cái nơi mà tôi đang ẩn nấp. Chúng giống những cái tổ khổng lồ trên chạc cây to. Có cả các cầu dây nối liền từ nhà này sang nhà kia. Cho dù vậy, chúng tôi vẫn không thể giao tiếp từ khoảng cách mà tôi đang đứng ngoại trừ vẫy tay ra hiệu. Nhưng rõ một điều rằng các thành viên còn lại trong đoàn vẫn đang vui vẻ, khỏe mạnh trong những ngôi nhà trên cây của họ.
Chúng tôi cũng thế, cho dù nơi bất khả xâm phạm nhỏ bé này có đang bị các sinh vật Vùng vô định cứng đầu bao vây, thì trước mắt bên trong vẫn an toàn. Các cửa chớp rất dày còn được gia cố thêm bằng những thanh gỗ ở tầng một. Trong khi lũ sinh vật ngoài kia vẫn không ngừng xô đẩy tường và cửa vào thì ở bên trong, chúng tôi sẽ không hề hấn gì cho tới khi sự ngoan cố của chúng có thể húc đổ cái công sự kiên cố này.
Có cảm giác như ngôi nhà đã được xây dựng để đề phòng một cuộc tấn công như vậy và điều đó làm tôi tự hỏi vì sao làng tôi lại chuẩn bị mọi thứ kém đến thế. Tại sao ngôi làng này lại khác nơi tôi ở nhiều đến thế. Tại sao những ngôi nhà ở đây lại to và đẹp đến như vậy.
Tầng trệt chỉ có một phòng khổng lồ duy nhất dành cho bếp, khu vực ăn và phòng khách. Ngay giữa phòng có một lò sưởi bằng gỗ lớn. Và choán gần hết bức tường là cái bếp lò to đến nỗi tôi còn có thể chui lọt bằng cách đứng vào trong đó.
Phòng ăn có một bàn dài với những chiếc ghế băng xung quanh đủ để một gia đình đông đúc và vô số khách mời ngồi vừa. Bức tường cuối khu vực phòng khách treo kín vũ khí. Có vài chiếc giáo dài, vài cái rìu cán dài và một số loại vũ khí mà tôi chưa được nhìn thấy bao giờ. Tất cả đều có lưỡi rất sắc. Còn cả những chiếc nỏ và ống đựng tên. Và ở một vị trí trang trọng ngay phía trên lò sưởi treo hai thanh kiếm lưỡi cong với chiếc cán được khảm những hình thù khó hiểu.
Ở phần sau ngôi nhà, ngay dưới gầm cầu thang là một phòng nhỏ ngăn nắp chứa đầy thực phẩm. Sâu bên trong ngồn ngộn ba bốn giá đỡ dài rộng với đầy những vại chứa rau và hoa quả. Thảo quả khô và thịt khô treo lúc líu trên trần nhà. Còn có cả những thùng đựng bột mì và ngô to tướng kê dọc tường.
Cái kho dự trữ này dường như đủ nuôi sống chúng tôi trong vòng vài năm. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một lúc nhiều thực phẩm như thế và đột nhiên tôi chợt băn khoăn rằng không biết nhà thờ của chúng tôi có một cái kho chứa đồ như thế này hay không.
Ngay ngoài cánh cửa bên kia của kho chứa có một khoảnh sân nhỏ khép kín được bao quanh bởi những bức tường gạch rất dày. Một vài chậu đất men sẵn sàng cho việc trồng cây. Một cái bơm đặt ngay chính giữa để bơm nước sạch vào trong nhà và khu vườn. Argos hoàn toàn có thể ra đây ngủ trưa dưới ánh nắng mặt trời.
Hiển nhiên là chủ nhân của ngôi nhà đã dự tính trước điều này, dự tính trước một vụ đột nhập hàng rào vô cùng khó tin và điều đó sẽ khiến họ bị cô lập như trên một hòn đảo giữa Vùng vô định.
Khu vực trên gác có tất cả bốn phòng: ba phòng ngủ khép kín và một phòng trẻ. Chúng tôi vẫn để nguyên những cánh cửa đóng kín như thế từ ngày đầu tiên đến đây và cho đến giờ vẫn chưa mở ra. Giống như ngôi nhà cũ của tôi ở làng, cái nhà rộng lớn này cũng có một cầu thang bắt vào tường phía cuối hàng lang. Tôi trèo lên và đẩy chiếc cửa sập dẫn lên một căn phòng rộng lớn chạy suốt chiều dài ngôi nhà.
Ở trên này cũng có thực phẩm dự trữ sắp hàng dọc bức tường và thêm rất nhiều vũ khí chất thành đống gọn gàng. Tôi nhìn thấy mấy chiếc hòm dựng phía cuối phòng nhưng cũng không bận tâm mở nó ra làm gì. Đằng đó có một cánh cửa nhỏ màu trắng. Tôi kéo cái chốt và cố mở nó ra. Cuối cùng cánh cửa cũng lay chuyển rồi mở ra một ban công nhỏ với những chấn song dày bên trái và bên phải, còn phía đối diện trống huếch. Khi bước vào khoảng không gian tràn ngập ánh sáng mặt trời này, tôi chạm tay vào bậu cửa bên phải theo thói quen vẫn thường làm khi miết tay vào những vần thơ trong Kinh thánh khảm trên tường.
Nhưng bức tường ở đây trần trụi và trơn nhẵn. Chẳng có gì được viết trên mặt gỗ, không có sự nhắc nhở đến Chúa Trời và những lời răn dạy của Người. Tôi nhớ lại lúc bước qua các bậu cửa trong làng này và nhận ra rằng chúng đều như thế cả.
Tôi không biết tại sao các xơ trong làng lại không bắt buộc mọi người phải khắc in lời Kinh thánh. Rồi cũng ngay tức thì tôi nhận ra rằng trong ngôi nhà này không hề có ghế băng để cầu nguyện. Cũng không có những tấm thảm ghi lời răn của Người treo trên tường. Trong ngôi nhà này chẳng có gì liên quan đến Chúa. Điều này khiến tôi phải tự hỏi rằng tại sao nơi này lại cho phép một sự báng bổ và tự do đến như vậy?
Chẳng lẽ các xơ ở đây không điều hành mọi thứ một cách nghiêm khắc hay sao. Hoặc có lẽ họ không điều hành tất cả.
Tôi tựa vào những chấn song và nhìn xuống đám sinh vật Vùng vô định qua hai tầng gác. Tôi nhận ra rằng không kẻ nào trong số bọn chúng mặc trang phục của các xơ cả, không kẻ nào mặc áo choàng đen. Tôi quan sát những ngôi nhà xung quanh: không ngôi nhà nào trang trí những hình ảnh liên quan đến Chúa. Và cho đến giờ phút này tôi cũng chưa nhìn thấy cái nhà thờ nào.
Đầu óc tôi quay cuồng khi cố gắng cắt nghĩa được nơi này, cố gắng nghĩ xem liệu có thể tồn tại một nơi không có Chúa Trời và các xơ hay không.
Chóng mặt, tôi ngồi phệt xuống đất, chân tôi gác lên rìa ban công và chìa ra ngoài khoảng không. Hành động này càng khiến tôi cảm thấy mất trọng lượng. Tôi chưa bao giờ quen với một cuộc sống mà lại không có các xơ, không có sự giám sát thường trực mọi nơi mọi lúc của họ. Tôi cũng chưa bao giờ nghĩ xem liệu có phải Chúa được phân tách ra từ chính các xơ hay không, rằng Chúa và các xơ là một mối quan hệ khăng khít và người này khó có thể tồn tại nếu thiếu người kia.
Những ý nghĩ rõ dần, làm hơi thở tôi trở nên gấp gáp.
Rồi chợt có cái gì đó thoáng qua góc mắt khiến tôi phần nào nhãng đi phát hiện vừa rồi. Tôi nhận ra Harry đang đứng ở rìa ngôi nhà trú ẩn trên cái cây cách đó không xa.
Tôi đứng vụt dậy khiến mắt hoa lên, và tôi phải đưa một tay lên che ánh nắng mặt trời thì mới có thể nhìn rõ vạn vật.
Cái cây khổng lồ đó nằm ngay phía bên kia con đường đất ở mặt trước ngôi nhà. Nghĩa là con đường chắn ngang giữa nơi trú ẩn của Harry và chỗ ban công tôi đang đứng. Tôi nhận ra rằng cái ban công này cũng đã từng là một phần của hệ thống nhà trên cây được thiết kế vô cùng công phu và ngay dưới chân tôi cũng vẫn còn những sợi dây thừng treo vắt vẻo. Chúng đu đưa trên rìa ban công ở phần không có chấn song và thõng xuống tận mặt đất tới chỗ mà các sinh vật kia vẫn đang đi lại.
Trông có vẻ như những sợi dây này đã từng là một phần của cây cầu bắc ngang qua khoảng không trước mặt. Và tôi ngẫm ra rằng ngôi nhà này, ngôi nhà của chúng tôi, có thể là cái neo của toàn bộ hệ thống trú ẩn. Và giờ thì, vì một vài lý do tự nhiên hoặc phi tự nhiên, chúng tôi bị cô lập một mình.
Tôi ngẫm nghĩ xem tôi và Travis có cách nào đi được sang bên kia hoặc tìm cách cho họ sang được bên này hay không. Liệu có cách nào đó để sửa chữa được cây cầu bị đứt. Tim tôi đập rộn lên vì ý nghĩ này, bởi vì tôi vẫn chưa sẵn sàng rời bỏ không gian tự do bên Travis sớm như thế.
Harry vẫy tôi và tôi vẫy lại. Chúng tôi đứng đó và nhìn nhau trong giây lát, trước khi tôi nhận ra rằng mình đang miết lên chỗ cổ tay mà lúc trước sợi dây Gắn ước đã chà xát khiến giờ vẫn để lại một lớp vẩy.
Anh cố gắng nói với tôi điều gì đó nhưng khoảng cách quá xa và những tiếng rên rỉ ầm ĩ không ngớt của lũ sinh vật Vùng vô định làm tôi không luận ra được. Tôi nhún vai và đưa tay lên tai. Anh lại hét lên, bàn tay khum lên miệng. Tôi lại tiếp tục lắc đầu. Anh phẩy tay, hàm ý rằng những gì anh nói cũng không quan trọng lắm đâu.
Một lúc sau, anh quay trở lại ngôi nhà trú ẩn mà Cass, Jed và Jacob đang đợi sẵn ở đó. Tôi có thể nhìn thấy những chùm khói bay lên từ ống khói và tôi phân vân không biết họ đã ổn định được mọi thứ hay chưa.
Nếu họ cảm thấy hạnh phúc với cái nơi ở mới này thì tôi và Travis cũng vậy.
Tôi quay trở lại tầng áp mái, lòng bàn tay tôi lại miết lên bức tường nhẵn thín ở bậu cửa. Thói quen khó bỏ và sự trống rỗng nơi bức tường vẫn không khiến ngón tay tôi ngừng tìm kiếm.
Vài ngày đã trôi qua, tôi và Travis bắt đầu thuộc về một thế giới khác. Phần lớn thời gian, chúng tôi ở trên ở gác, những ô cửa sổ trên này có thể rộng mở để ánh sáng và không khí tràn vào. Những tiếng rên rỉ triền miên của Vùng vô định lại hòa nhập với đời sống thường ngày. Âm thanh không bao giờ ngớt ấy giờ chỉ còn là tiếng vo ve trong óc chúng tôi. Chỉ thảng hoặc, lúc tôi trèo lên ban công để ngắm nhìn anh trai, ngắm nhìn người mà tôi đã hứa hôn và cô bạn thân nhất thì tôi mới tự hỏi lòng rằng liệu họ có đang trải qua một cuộc sống giống như tôi hay không, trong một sự yên tĩnh nội tại đối lập với mối đe dọa thường trực bên ngoài cánh cửa.
Một lần tôi đã suýt hỏi Travis rằng tại sao anh không đến với tôi lúc chúng tôi còn ở trong làng. Lúc ấy tôi đang ngồi bên bàn ăn đối diện với Travis và có một khoảng lặng giữa cuộc nói chuyện. Tôi đã vô cùng muốn biết câu trả lời, muốn biết rằng nếu không có thảm họa kia thì cuộc sống tiếp theo của tôi sẽ như thế nào. Tôi vun những ý nghĩ lại, nỗi đau khi mòn mỏi chờ đợi vẫn còn tươi nguyên trong cổ họng. Nhưng rồi anh mỉm cười cầm lấy tay tôi, lòng bàn tay anh cọ ráp lên da thịt tôi và tôi chợt nhận ra rằng điều đó đã chẳng thành vấn đề nữa. Bởi vì giờ phút này chúng tôi đang ở bên nhau. Và tôi không muốn làm hỏng giây phút mà chúng tôi vừa tìm thấy.
Hàng ngày chúng tôi lặp đi lặp lại lịch trình thế này. Argos ngủ gà ngủ gật hết chỗ nọ đến chỗ kia. Travis kiểm tra lại xem có điểm nào không chắc chắn không, còn tôi thì nấu ăn. Thế giới bên ngoài dừng lại ở bậu cửa ra vào và điều này đồng nghĩa với việc cách li chúng tôi khỏi những người khác. Ở đấy, trong ngôi nhà này, chỉ có chúng tôi, cuộc sống của chúng tôi và nhiều lúc tôi cũng cho đó là niềm hạnh phúc.
Cho đến một ngày, khi tôi từ ban công đi vào gian áp mái và nhìn thấy những hòm gỗ xếp dọc tường. Lần đầu tiên tôi bị chúng gây sự chú ý. Tôi miết tay lên mặt gỗ trơn láng, mùi gỗ tuyết tùng choán hết đầu óc tôi.
Cho dù biết chắc rằng chẳng có ai đứng đằng sau vì Travis không thể leo lên thang được, nhưng tôi vẫn nhìn quanh để chắc chắn không bị người theo dõi. Sau đó tôi thận trọng nâng cái chốt của hòm gỗ đầu tiên.
Bên trong đầy quần áo và tôi không nén được nụ cười, vui sướng vì đã có thứ để giải trí trong suốt buổi trưa. Tôi lấy ra từng thứ đồ được thêu móc phức tạp và tinh xảo. Thứ nào cũng gấp gọn ghẽ. Chúng có nhiều màu khác nhau, vài cái sáng màu, vài cái sẫm màu và có những màu tôi chưa nhìn thấy bao giờ. Chất vải mềm và mỏng như tơ. Các mắt lưới móc tinh xảo trên bề mặt khiến những chiếc váy thêm phần dày dặn và chắc chắn.
Tôi ướm thử một chiếc vào người và băn khoăn không biết mình mặc thứ đồ đẹp đẽ này vào thì sẽ ra sao. Cuối cùng tôi cũng không thể cưỡng lại ham muốn được khoác chúng lên người. Đầu tiên tôi cảm thấy choáng váng và phấn khích khi chất vải lạ lùng kia phủ lên da thịt. Nhưng rồi sau đó tôi lại tự hỏi người đàn bà nào đã từng mặc những thứ này. Nhiều ngày sống trong ngôi nhà, tôi vẫn thường tự cấm mình hình dung ra những người chủ cũ. Kể từ lúc thả đứa bé qua cửa sổ, tôi đã tránh nghĩ đến những đứa trẻ đã từng ngồi ăn bên chiếc bàn ở tầng trệt, không nghĩ đến những người đàn ông cầm vũ khí, những người đàn bà tích trữ rau quả một cách kỹ lưỡng để phòng ngừa một vụ tấn công mà cuộc sống của họ đã không thể kéo dài để mà chứng kiến nó.
Và giờ thì tôi đang mặc những chiếc áo của người đàn bà ấy. Tôi bị những hình ảnh về người đàn bà chủ nhà hành hạ. Tôi biết chắc rằng cô ta cao hơn tôi bởi chiếc váy ngủ rủ xuống quá chân và quét lê lên trên sàn nhà đầy bụi bặm. Tôi cũng biết rằng ngực cô ta lớn hơn ngực tôi, có lẽ là vì cô ta đã sinh con rồi. Cánh tay cô ta cũng to hơn vì ống tay áo đã trùm kín cả cổ tay tôi.
Nhưng tôi không biết cô mơ thấy gì khi hàng đêm vùi mình trong chiếc váy này. Và người đàn ông nào đã choàng cánh tay ấm áp lên eo lưng, khiến da thịt cô run rẩy và bờ mi cô bối rối.
Đột nhiên tôi thấy chóng mặt. Mọi ý nghĩ xung đột bên trong và tôi thấy rằng mình cần phải biết hết những điều này. Tôi chạy ra ban công, trên mình vẫn mặc chiếc váy của người đàn bà chủ nhà. Tôi quỳ gối quan sát những sinh vật bên dưới, chăm chú xem xét những cánh tay, khuôn ngực, mái tóc và cổ tay của từng người phụ nữ.
Người nào trong số họ đã từng chui đầu qua chiếc váy này? Người nào trong số họ đã suông tay lên lớp vải? Người nào đã từng có con, đã nuôi lớn lũ trẻ và ngủ trong chiếc giường mà tôi đang ngủ?
Rất khó phân biệt lũ sinh vật Vùng vô định qua lớp da chùng dãn, những đôi mắt vô cảm và cơn đói triền miên không dứt.
Chẳng có người đàn bà nào bên dưới đúng như trong hình dung của tôi cả. Tôi bèn chạy về chỗ cầu thang, trèo xuống phòng ngủ và thò đầu qua từng ô cửa sổ. Nhưng vô cùng khó khăn. Bọn chúng đông đúc và đứng ken kín nhau. Chúng còn bò lổm ngổm lên người nhau, chân đá tung đám bụi trong khi cố tìm cách lọt được vào bên trong ngôi nhà để tấn công tôi và Travis.
Không màng vén cao chiếc váy lòe xòe, tôi bổ nhào xuống dưới nhà và vớ lấy một chiếc mác cán dài khiến Travis giật nảy mình. Tôi không nghe thấy anh nói gì vì còn vội leo trở lại thang gác, chiếc mác đập nẩy vào tường hành lang. Tôi lao ra cửa sổ. Đầu mác gỉ sắc kéo lê đằng sau, cào xước mặt sàn gỗ sần sùi. Tôi nhoài người ra bên ngoài, cố vươn cái mác ra xa hết cỡ khiến chiếc váy căng ra. Từ cửa sổ tầng hai, tôi thúc cái mác vào đám sinh vật bên dưới, cố lùa chúng dãn ra để có thể nhìn cho rõ từng khuôn mặt đàn bà.
Giống như một cơn đói ngấu chưa được thỏa mãn hay cơn khát không thể dập tắt, tôi khát khao muốn biết xem ai đã từng sống trong ngôi nhà này, và tôi đang thay thế cuộc sống của ai đây. Người nào đã là người vợ, người mẹ? Tôi gần như tin chắc rằng mình có thể xác định được điều đó khi nhìn vào đôi mắt của kẻ đang cố xô đẩy cánh cửa để tìm kiếm lối vào nơi ở cũ. Nơi ở mà tôi đã đánh cắp của cô ta.
Tôi gần như điên cuồng, cứ thế ủi chiếc mác vào đám sinh vật hỗn loạn trong khi đôi mắt mờ lệ. Cuối cùng thì Travis cũng khập khiễng đi vào phòng, hơi thở nặng nhọc vì đã phải nỗ lực leo lên thang.
Anh đặt tay lên vai nhưng tôi nguẩy người ra. Tôi cứ chọc bừa vào từng thân hình, miệng hét lên.
- Người nào? Người nào trong số bọn mi?
Cuối cùng thì anh cũng giằng cây mác khỏi tay tôi và kéo tôi tránh xa ô cửa sổ. Nhưng lúc này trí óc tôi chỉ luẩn quẩn với những khả năng và giả thuyết.
- Có khi cô ấy đi chỗ khác rồi. - Tôi bảo anh. - Có khi cô ấy không trở về nhà được nên đã đi ra ngoài cánh cổng. Biết đâu cô ấy cũng giống như Gabrielle.
Tôi đưa tay lên ôm mặt. Trong khoảnh khắc, mọi thứ lại dồn tụ trong đầu tôi. Biết đâu cô ta đã trốn thoát, biết đâu những chủ nhân ngôi nhà này đều ở cả ngoài đó và đang tìm kiếm. Biết đâu tôi chính là người sẽ tìm ra họ, nhận ra họ và đưa họ đi. Tôi bắt đầu đi đi lại lại, trí óc tôi rộn lên vì điều đó.
- Em phải ra ngoài cổng! - Tôi nói, giọng hổn hển đầy phấn khích. - Em phải tìm được cô ấy.
- Ai cơ? - Travis hỏi tôi. Anh lớn giọng gay gắt trong khi bàn tay túm chặt lấy vai tôi. - Em định tìm ai?
- Cô ấy! - Tôi bảo anh, chỉ vào người mình, chỉ chiếc váy mà tôi đang mặc.
- Em định nói gì, Mary? Anh chẳng hiểu gì cả.
Anh giữ chặt khiến tôi không thể đi đi lại lại được nhưng chân vẫn giậm lên mặt sàn, những ngón chấn ấn sâu vào mặt gỗ nhấp nhổm muốn chạy đi làm cái điều mà tôi đang khao khát.
- Anh không thấy gì hay sao? Rất có thể một người nào đó giờ cũng đang ở trong làng chúng ta, ở ngôi nhà của chúng ta. Họ cũng tìm thấy quần áo của em và nghĩ rằng em đã thuộc về Vùng vô định, nhưng có phải thế đâu. Em vẫn đang ở đây và họ không bao giờ biết được điều đó.
Tôi giằng ra và tiếp tục đi lại. Tôi lùa tay vào tóc và cuộn chúng lại với nhau trong lúc suy nghĩ, cố gắng tập trung vào những suy luận đang quay cuồng trong óc.
Chúng tôi là ai nếu như không có tất cả những câu chuyện này? Điều gì sẽ xảy ra nếu không còn ai sống sót để lưu giữ và lắng nghe mọi ký ức? Sẽ còn ai biết sự tồn tại của tôi nào? Biết đâu chúng tôi là những người duy nhất còn sót lại trên thế gian này thì sao, vậy thì còn ai biết những chuyện này nữa? Và nếu như còn những câu chuyện khác, của những người khác thì sao? Và ai sẽ nhớ đến chúng đây?
- Chẳng còn ai trong làng mình đâu, Mary! - Anh bảo tôi. - Và người đàn bà đã từng sống trong ngôi nhà này, tại sao lại phải quan tâm đến cô ta? Cô ta không còn ở đây nữa. Nếu như cô ta trốn thoát và còn sống, thì cô ta cũng không đi vào con đường mòn mà chúng ta đã đi.
Tôi giơ tay lên chặn ngang.
- Anh nói đúng! - Mọi ý nghĩ trong đầu tôi đã trở nên rõ ràng. - Hẳn là cô ấy đã đi rồi. Hẳn là cô ấy đã đi theo một con đường mòn khác và giờ vẫn đang tiếp tục đi tiếp.
Travis lắc đầu.
- Mary! - Anh níu tay tôi lại. - Nói cho anh biết tại sao điều đó lại quan trọng với em đến thế. Giờ thì em nói đi, tại sao đột nhiên mọi thứ lại trở nên quan trọng nào?
Tôi dừng bước và nhìn sâu vào mắt anh, đôi mắt điềm tĩnh, đẹp đến không thể tin được.
- Bởi vì sẽ không ai biết về cô ấy cả, và điều đó cũng có nghĩa là sẽ không ai biết về em nữa. - Tôi thì thầm. - Khi người ta đi vào làng mình, có ai biết gì về em đâu cơ chứ.
- Có anh biết, Mary. - Anh đặt tay lên má tôi, rồi lần những ngón tay xuống cằm, và tôi buộc phải nhắm mắt lại để anh không thể đọc được những ý nghĩ đang neo chắc trong đầu mà tôi không thể nói ra thành lời, rằng như thế này là vẫn chưa đủ.
Rằng tôi sợ rằng ngay cả chính anh cũng là chưa đủ đối với tôi.
Cổ họng tôi nghẹn lại khi anh kéo tôi ấp vào ngực.
- Anh biết em là đủ, Mary. - Anh nhắc lại. Giọng nói của anh làm tôi run rẩy. Môi anh ở trên tai tôi như thể anh đã đọc được những suy nghĩ trong đầu tôi rồi. - Ngay cả cuộc sống với anh cũng chưa đủ hay sao, Mary?
Tôi đành gật đầu với sự trống rỗng trong lòng vì tôi không dám nói cho anh nghe sự thật, cho dù có đọc được ý nghĩ trong đầu tôi, cho dù có chứng minh với tôi rằng anh hiểu tôi đến như thế nào, cho dù anh biết rõ câu trả lời của tôi. Và bởi vì tôi vẫn còn hy vọng anh sẽ lấp đầy sự trống rỗng và những khao khát trong lòng tôi, rằng sáng ngày mai, tôi vẫn có thể thức giấc trong vòng tay của anh và như thế cũng đã là đủ.