Không khoan nhượng - Chương 018 - 019 - 020 - 021 - 022
CHƯƠNG 18
NAM CALIFORNIA
Giữa nửa đêm, người quản lý của Philippe Roussard gọi điên. “Mọi việc đã ổn cả chưa?”
Roussard ngồi trên giường, tựa đầu vào chiếc gối dựa vào tường. “Rồi”, hắn vừa trả lời vừa lấy một điếu Gitanes ra khỏi bao và châm lửa.
“Những thứ đó sẽ giết cậu đấy?”, người quản lý của hắn cảnh báo khi nghe tiếng bật lửa Zippo của Roussard đóng đánh cạch một cái và hít một hơi dài. Philippe vuốt những sợi tóc đen vướng trên mặt và trả lời, “Thật cảm động trước mối quan tâm của ông”.
Người gọi không bị cắn câu. Họ rất hay bất đồng với nhau. Nếu muốn thành công, họ phải hợp tác với nhau. Hít một hơi thở sâu, người quản lý nói, “Khi anh xong việc, sẽ có thuyền chờ. Phải nhớ không được để ai nhìn thấy anh lên chiếc thuyền đó”.
Roussard khịt mũi trả lời. Sẽ không ai nhìn thấy hắn. Chưa từng có ai nhìn thấy. Hắn giống như một con ma, một cái bóng. Thực ra, hắn giỏi đến nỗi chẳng mấy ai tin rằng hắn tồn tại. Tuy nhiên, với chính phủ Mỹ lại khác.
Cho tới lúc bị bắt, không ai nhìn thấy hắn. Không ai biết tên cũng như quốc tịch của anh ta. Những người lính Mỹ ở Iraq gọi anh ta là Juba và luôn sống thấp thỏm trong nỗi sợ hãi rằng mình sẽ là nạn nhân tiếp theo của hắn ta.
Những phát súng của hắn ta thường từ cách xa ít nhất là hai trăm mét và gần như phát nào cũng chính xác tới mức hoàn hảo. Hắn hiểu rõ những phần áo giáp trên cơ thể và biết chính xác nơi nhắm viên đạn vào, chỗ sườn hoặc ngay bên trên ngực.
Thỉnh thoảng, khi có một đội hải quân tứ mạnh, hắn ta thường dành cho mục tiêu những phát súng chính xác vào đầu. Với danh tiếng đã hạ trên một trăm người, Roussard là một anh hùng đối với những người Iraq căm thù sự chiếm đóng của người Mỹ và là một thiên thần đối với những chiến hữu đồng đạo trong phe nổi loạn.
Những người Mỹ đã săn lùng hắn gắt gao và cuối cùng, họ cũng bắt được. Hắn bị đưa tới Guantanamo và chịu đựng hàng tháng trời tra tấn ở đó. Vậy mà cách đây khoảng hơn sáu tháng, thật tuyệt, hắn bỗng nhiên thoát khỏi cảnh giam cầm. Cùng với bốn tù nhân khác, hắn ta được đưa lên một chiếc máy bay về nước. Chỉ có Roussard là biết vì sao lại có chuyện đó và ai là người giúp đỡ.
Lúc này, khi trườn thân thể cường tráng của mình vào bộ áo liền quần, trong hắn vẫn chưa mất đi cảm giác trớ trêu trước tình cảnh của mình. Người Mỹ đã đồng ý thả hắn và bốn tù nhân khác để bảo vệ các công dân của họ không bị lâm vào cảnh bị khủng bố. Ấy vậy mà giờ đây hắn lại đang ở trong lòng nước Mỹ, chuẩn bị cho một cuộc tấn công nữa.
CHƯƠNG 19
Mặc dù có những thói quen xấu Roussard cố tạo ra để hòa nhập vào xã hội phương Tây nhưng trong sâu thẳm tâm hồn, hắn vẫn là một mujahdeen1. Bản chất của hắn ngược hẳn với người quản lý. Ngoài việc dạy cho hắn hòa nhập dễ dàng vào những kẻ thù phương Tây, Trường nội trú Pháp, nơi Roussard được nuôi dạy có rất ít ảnh hưởng tới hắn ta. Sự giáo dục thật sự sâu sắc chính là từ những năm sống gần các nhà thờ hồi giáo và sau này là một số trại kín ở khắp Pakistan và Afghanistan.
1. Mujahdeen: Người tử vì đạo.
Chính tại đó hắn đã học được rằng, “Al Quaeda” không dịch tệp “cơ sở” như hầu hết báo chí phương Tây đưa tin một cách mù quáng, mà là “cơ sở dữ liệu”. Nó dùng để chỉ một tệp tin máy tính gốc về hàng nghìn mujahdeen đã được truyền mộ và đào tạo với sự hỗ trợ của CIA nhằm đánh bại người Nga ở Afghanistan. Từ những năm 1990, dánh sách này đã tăng thêm hàng nghìn người và đây là một trong những tệp tin được những người đứng đầu Al Quaeda cho bảo mật cẩn thận nhất. Những mujahdeen này thuộc mọi tầng lớp xã hội và thuộc nhiều xuất xứ dân tộc và nền tảng kinh tế xã hội khác nhau hơn bất kỳ chính phủ phương Tây nào từng tuyển dụng. Chúng được tuyển mộ, truyền giáo, đào tạo và phát tán đi khắp nơi trên thế giới và chờ đợi cho tới khi được yêu cầu chiến đấu.
Khi lái chiếc xe tải đi qua cây cầu nối San Diego và Coronado, Roussard đã mường tượng ra những gì có thể xảy ra với anh ta nếu bị bắt.
Suy cho cùng đó là nước Mỹ và họ đã đối xử với hắn ở Guantanamo tệ bạc nhất rồi còn gì. Bặt được hắn ở đây trên đất của họ, chắc họ sẽ đỡ hơn. Họ sẽ khai thác được một cách dễ dàng. Họ đã thông qua những đạo luật cho phép bảo vệ kẻ thù tốt hơn là người dân của nước họ.
Khi Mỹ bắt được cái gọi là những kẻ thù khủng bố, lại thiếu dũng khí để bắt chúng chết. Zacarias Moussaoui, Sheik Omar Abdel-Rahman và thậm chí Ramzi Yousef đều bị tù chung thân. Chúng là bằng chứng rõ ràng về sự kém cỏi và yếu đuối của Mỹ và là bằng chứng thực tế là Mỹ sẽ sụp đổ trước những tín đồ đạo Hồi.
Tới con phố Thứ ba, Roussard đã quay vài lần và lùi xe để chắc chắn mình không bị bám đuôi. Khi tới địa chỉ trên làn đường Enclo, hắn đỗ chiếc xe tải bên lề đường và chèn bánh trước và sau bằng một vật hình nón màu cam. Đỗ xe ở đây vào giờ này có thể khiến người ta chú ý, một chiếc xe tải dạng cứu hộ có thể khiến hàng xóm quanh đây tò mò, nhưng chắc chưa đến mức phải gọi cảnh sát.
Tiến gần đến cửa trước, Roussard lôi là một khẩu súng và giấu nó bên dưới quyển sổ kim loại có kiểu sáng như cái hộp. Đến sát cửa, hắn giả vờ bấm chuông. Hắn lặng lẽ mở khóa, thừa biết người phụ nữ trong nhà không hề có hệ thống báo động.
Khóa mở ra, anh ta bước vào trong và đóng cánh cửa lại phía sau lưng. Roussard dừng lại chỗ lối vào cho tới khi mắt anh ta quen với bóng tối. Ngôi nhà có mùi như thể có đồ gỗ được đánh bóng hòa trộn với mùi ngai ngái của không khí gần biển.
Ngay khi xác định được tầm nhìn, hắn nhẹ nhàng đi xuống hành lang dẫn tới phòng ngủ của chủ nhà. Dọc khắp hành lang là rất nhiều những bức ảnh của gia đình treo thẳng hàng, hầu hết trong số chúng là ảnh chụp từ nhiều năm.
Đến chỗ phòng ngủ, Roussard thấy cửa phòng mở toang. Nhanh như cắt, nạn nhân đã như nằm ngủ trên giường. Chồm ngang qua người nạn nhân, hắn luồn tay vào cặp tài liệu kim loại dưới tay trái và mở khóa bộ quần áo liền.
Một thoáng suy nghĩ, hẳn tưởng mình có thể làm nó bị rơi, nhưng rồi hắn nhanh chóng nắm lấy vật mình đang tìm kiếm.
Quay lại, nhìn xuống nạn nhân, hắn giật nảy mình. Mắt bà ta mở thao láo và đang nhìn hắn chằm chằm. Cửa sổ phòng ngủ mở toang và nhỡ bà ta hét toáng lên thì hỏng bét.
Bản năng của Roussard trỗi dậy. Hai tay hắn tóm chặt cuốn sổ và vung mạnh lên, đánh vào đầu bên trái của người phụ nữ.
Miệng bà ta há ra như thể định kêu và Roussard lại đánh một nhát nữa. Mắt nhắm nghiền, bà ta nằm vô hồn trên giường. Máu từ tai và mũi trào ra. Máu bết lại trên mái tóc dài màu xám và thấm đỏ chiếc áo ngủ của nạn nhân. Bà ta không còn biết gì, nhưng vẫn sống, hắn muốn bà ta phải chịu như vậy.
Vứt cuốn sổ trên giường, Roussard dùng tay lật người bà lên và kéo vào nhà tắm. Quăng bà ta vào bồn tắm, hắn cởi chiếc áo ngủ của bà ra và phủ lên một hỗn hợp ẩm ướt, sau đó hắn lấy dải băng dán kín lỗ thông hơi nhà tắm lại.
Hắn quay trở lại chiếc xe tải đang dỗ bên ngoài và lấy ra hai thùng nhựa đóng kín và một ít đồ nghề.
Quay vào nhà tắm, Roussard đặt hai cái thùng xuống cạnh bồn tắm và lấy bên trong bộ quần áo liền ra một cái máy phun. Hắn mở từng mắt một của người phụ nữ ra và phun một chất gì đó vào sao cho mắt nào cũng bị gắn kín lại. Hắn đã xong việc.
Roussard lấy ra một cái tua-vít và mở nắp từng thùng nhựa một. Hắn ta với lấy một cái khăn tắm bên trên toa-lét và vứt nó ra bên ngoài cửa nhà tắm. Đúng thời điểm. Mở nắp hai cái thùng ra, hắn đổ hết phần bên trong lên người nạn nhân vẫn đang nằm bất tỉnh trong nhà tắm, hắn chạy vội ra khỏi đó và đóng chặt cửa lại. Roussard ném cái khăn tắm vào bên dưới cánh cửa và cố định nó bằng băng dính. Sau đó, hắn lấy một cái khoan ra vài cái tua-vít ra rồi vít chặt cái cửa vào khung cửa.
Hắn bước ra ngoài, bỏ cái chặn xe ra rồi chậm rãi lái xe trở về trên con đường cũ.
Tại khách sạn, Roussard thay bộ quần áo rồi rửa chiếc xe tải và ra bến tàu. Đúng như lời người quản lý, đã có một chiếc tàu sẵn sàng chờ hắn.
Ngay khi chiếc tàu nổ máy lao vào làn nước mênh mông và đen sẫm như mực hắn lấy ra một chiếc điện thoại, bấm số 911, cho địa chỉ một người phụ nữ đang cần cứu giúp ở đường Encino của Coronado. Khi bên kia hỏi đến tên, Roussard mỉm cười và ném chiếc điện thoại đi. Rồi chẳng bao lâu, họ sẽ xâu chuỗi lại mọi thứ và tìm ra ai là người có trách nhiệm cho việc này.
CHƯƠNG 20
Tom Gosse, giám đốc nhà tang lễ đã nói với Sheppard rằng thà anh không ghi âm cuộc nói chuyện của họ thì hơn. Điều đó có nghĩa là phóng viên này buộc phải ghi chép và anh ta là kẻ ghi chép khốn mạt nhất thế giới này.
Anh không thể trách Gosse vì không muốn xuất hiện trên băng ghi âm. Nếu như câu chuyện ông ta kẻ là đúng, sẽ có người bị chết để bịt đầu mối.
Sheppard ngồi ở quầy chỗ nhà bếp, vừa búng búng vào trang giấy anh ghi chép được, vừa nhâm nhi một lon Fosters. Giám đốc nhà xác là một người đàn ông cứng rắn. Thỉnh thoảng trong cuộc phỏng vấn Sheppard lật lại những gì đã nói và giả vờ nhầm lẫn những sự việc có thật nhằm làm ông ta rối lên nhưng Gosse không hề nao núng. Sheppard không hề tin rằng người đàn ông này đang nói sự thật.
Theo câu chuyện của ông ta, cách đây khoảng sáu tháng ông ta đã có mặt ở văn phòng Trưởng khoa Giám định Pháp y để thu nhận xác. Trong khi chờ đợi, ông ta đi dạo với một nhân viên của ông ấy một trợ lý tên là Frank Aposhian. Theo lời Gosse họ tưởng đối thân nhau. Con họ cùng học một trường và hàng tháng hai người đàn ông này có chơi bài với nhau vài lần.
Trong thời gian đó, cuộc trò chuyện với Aposhian bị gián đoạn vì có hai người đàn ông tự nhận là điệp vụ FBI và yêu cầu được nói chuyện riêng với người trợ lý này. Vì đêm đó Frank là người trực ở văn phòng nên yêu cầu này không hề là Gosse kinh ngạc. Những nhân viên thực thi luật pháp đến rồi lại đi liên tục trong văn phòng của Khoa Giám định và chắc chắn không phải chuyện chơi.
Một trong số hai điệp vụ theo Aposhian vào văn phòng trong khi người còn lại bắt đầu kiểm tra cái xác. Nhưng không phải cái xác nào cũng như vậy – Anh ta có vẻ chỉ quan tâm tới những thi thể không có người nhận. Hầu hết trong đám ấy là được tìm thấy ở các công viên, dưới gầm cầu hay trong các khu nhà bị bỏ hoang thường thì cho tới khi họ tìm ra đã bị chuột và chó ăn mất một nửa.
Dấu vân tay của họ được kiểm tra qua cơ sở dữ liệu của địa phương và quốc gia và các nhân viên điều tra phải tìm lại danh tính của họ vì thường là không xác định được danh tính. Các sinh viên pháp y tiến hành các biện pháp khoa học kỹ thuật và rồi những thi thể ấy được cho vào quan tài và chôn ở cánh đồng gần nhất.
Điều làm Gosse ngạc nhiên chính là có vẻ như điệp vụ đó không biết mình đang tìm gì. Anh ta không mang theo bất kỳ tấm ảnh nào. Anh ta chỉ đơn thuần là di chuyển từ cái xác này sang cái xác khác, kiểm tra chung chung như thể anh ta đang tìm kiếm một loại câu lạc bộ Goft mới.
Lát sau, khi Aposhian xuất hiện cùng với điệp vụ kia, điệp vụ ở ngoài chỉ vào một trong số những cái xác như yêu cầu người trợ lý viết số ra rồi trở lại văn phòng để phân tích.
Cái xác được cho vào túi rồi đưa lên một chiếc xe tải, rồi người đàn ông biến mất.
Khi Gosse hỏi thăm người bạn về sự vụ này, Aposhian nói với ông rằng anh ta được lệnh không được nói ra. Rõ ràng, cái xác đó không phải là xác vô thừa nhận hơn nữa lại là xác của một người đã dính líu vào một vụ trọng án nào đó.
Đáng ra câu chuyện kết thúc ở đó, nhưng không. Những điệp vụ FBI đó lại trình ra giấy tờ để nhận cái xác nhưng Aposhian khẳng định rằng đã trao lại cho họ cả hồ sơ về nạn nhân. Họ giải thích rằng họ đang tiến hành một chiến dịch phức tạp và sẽ bị tắc lại nếu cái xác của người đàn ông đó bị đưa ra công luận. Đó là một yêu cầu không bình thường nhưng vì người đàn ông cư xử quá lịch sự và đưa ra đầy đủ giấy tờ nên Aposhian không có lý do gì để từ chối. Phải vài tháng sau người trợ lý mới nhận ra sai lầm của mình.
Một trong số những sinh viên làm việc với anh ta đêm đó đã lấy nhầm hồ sơ cho anh ta. Khi Aposhian gọi điện đến văn phòng của FBI tại địa phương thì nhận được câu trả lời là họ không hề cử nhân viên nào có tên là Stan Weston hay Joe Maxwel tới đó. Anh ta liền liên lạc với trụ sở FBI ở Washington D.C nhưng cũng nhận được câu trả lời là không có nhân viên nào tên như vậy và có thể anh ta đã nhầm.
Aposhian kiểm tra những gì anh ta đã ghi chép. Không hề nhầm tí nào.
Anh ta đưa tấm thẻ có dấu vân tay của nạn nhân cho một người phụ nữ có tên là Sally Rutherford. Rutherford là một trong số những nhân viên điều tra tới văn phòng và là bạn gái của Aposhian trong mười một tháng qua. Ngày hôm sau, có một bức thư được in ra và đề sẵn trên bàn cho Aposhian.
Theo Rutherford có sự xáo trộn nào đó. Bản in đó thuộc về một người đàn ông đã bị chết trong một cuộc đấu súng với cảnh sát ở Charleston, Nam Carolina vài ngày sau khi các điệp vụ đưa cái xác ra khỏi nhà xác. Nhân viên điều tra này đã gọi điện thoại đến Sở cảnh sát Charleston và đang chờ đầu bên kia gọi lại.
Aposhian đã tìm ra đó hoàn toàn chỉ là một vụ xử lý tình thế kém nhưng anh ta hoàn toàn thay đổi suy nghĩ của mình vào cái đêm hai nhân viên FBI đó quay trở lại thăm anh.
Đêm đó Gosse cũng có mặt ở nhà anh để chơi bài Poke nhưng ban đầu ông không nhận ra hai người đàn ông này. Vậy là sau sáu tháng ông lại gặp lại họ.
Họ yêu cầu nói chuyện với Aposhian ở bên ngoài căn nhà và khi quay trở lại anh có vẻ bị sốc ra mặt. Không biết hai gã đó nói gì nhưng chắc chắn là chuyện xấu.
Gosse hỏi thăm bạn xem có chuyện gì, những anh không nói gì. Thực ra, anh chỉ nói cảm thấy không được khỏe và muốn kết thúc sớm rồi bảo những người bạn chơi của mình về nhà. Ngày hôm sau Gosse đến văn phòng và khi gõ cửa ông nghe thấy bên trong có tiếng cãi vã. Ông quay đi ngay khi cửa mở và Sally Rutherford lao ra ngoài. Không phải Gosse tò mò nhưng trông người bạn của ông buồn khủng khiếp.
Rõ ràng là Aposhian cần nói chuyện nhưng anh không muốn nói ở văn phòng. Họ quyết định gặp nhau ở nhà tang lễ vào đêm hôm đó.
Khi bạn ông tới đó, Gosse chuyển điện thoại sang chế độ tự động trả lời và mở một chai Make’s Mark. Ông đặt hai cái cốc lên bàn và rót rượu vào. Gosse vốn là người biết lắng nghe. Ông không ép phải nói chuyện. Ông chờ đợi bạn mình nói và ngay khi anh nói ông chia sẻ câu chuyện kinh khủng ấy với anh.
CHƯƠNG 21
MONTROSE, COLORADO
Harvath đến khu nghỉ mát đã vài tiếng đồng hồ rồi. Vì đã có đội ngũ nhân viên của Sargasso theo dõi phòng chát riêng để bám sát bất kỳ động tĩnh nào của gã Lùn, nên chủ nhà quyết định đưa Harvath đi ăn tối.
Tòa nhà chính của khu Núi Elk giống hệt một nhà nghỉ tráng lệ của những người đi săn từ thế kỷ XIX. Bộ ba ngồi bên ngoài, trên khoảnh đất gần một lò sưởi bằng đá ngoài trời nhìn ra hồ của khu nghỉ mát.
Nơi nào cũng hiển hiện thiên hướng của Finney. Khi một nhân viên lặng lẽ xuất hiện với một rổ củi, Finney giảng giải rằng họ sử dụng một số lượng chính xác gỗ óc chó, sồi, khuynh diệp và một lượng gỗ thông chính xác để có được hương thơm bốc lên.
Finey chú ý vào chi tiết một cách sắc sảo khi đến phần những món ăn của Núi Elk. Ông chẳng tốn chút ông sức nào để mang về đây người đầu bếp giỏi nhất nước. Ngừoi đàn ông này là một người khỏe manh, có năng khiếu nấu nướng, người đã khởi xướng ẩm thực của vừng núi Anpơ ở Mỹ và các giải thưởng như James Beard, Zagat và Wine Spectator thì nhiều hươn số lượng có thể treo trên các bức tường của khu nghỉ mát. Đó là lần đầu tiên kể từ khi Tracy bị bắn Harvath có thể ăn hết một bữa ăn.
Thậm chí, anh còn cho phép mình uống sau bữa ăn. Dù thích hay không anh biết rằng anh phải thư giãn. Trong trạng thái thế này, anh đã trói buộc mình quá và như vậy chẳng có gì tốt lành cho cả anh lẫn Tracy.
Sau khi đã dọn sạch bát đĩa, hai người phục vụ bàn xuất hiện bên Finney – một người cầm một chai B&B và ba cái cốc hẹp miệng, còn người kia mang theo một cái máy tạo ẩm được khắc tinh tế. Finney hướng dẫn hai người để mọi thứ trên bàn sau đó họ lặng lẽ biến mất.
“Anh có biết người đứng quầy bar tại câu lạc bộ 21 ở New York đã phát hiện ra cách này không?” Parker vừa mở cái nút chai vừa hỏi. “Rượu Benedictine và cô-nhắc. Nó đã trở nên phổ biến tới mức người Pháp bắt đầu trộn hai thứ đó vào đóng chai. Người đàn ông ấy chưa bao giờ được nhận một hào tiền sinh lời từ cách pha rượu này. Trời ạ. Tôi ghét người Pháp”.
Harvath mỉm cười. Nếu Ron Parker biết rõ anh, chắc anh đã phải che giấu sự thù ghét người Pháp như vậy. Parker thích nói rằng, họ là quân dội duy nhất trên thế giới có những người lính nách bị rám nắng.
Finney mời Harvath mốt điếu xì gà nhưung anh lắc đầu. Uống sau bữa tối là đủ rồi.
Khi Parker đưa cái cốc cho anh, Harvath đưa lên mũi và nhắm mắt lại như thể anh đang hít hà mùi thơm cay nồng của nó. Trong giấy lát, anh như quên bẵng nỗi lòng mình.
Vừa hớp ngụm rượu, anh vừa lắng nghe Finney và Parker bàn luận về những việc họ thường làm – tình hình thế giới, kế họach cải tạo khu nghỉ mát, Khu số Sáu và Sargasso, cũng như hành động với những người khách là phụ nữ của Núi Elk .
Harvath thấy dễ chịu khi lắng nghe câu chuyện giữa những người bạn cũ của anh. Tâm trí anh đang dồn hết vào Tracy. Anh rút chiếc điện thoại Black Berry ra khỏi bao và kiểm tra tín hiệu điện sóng. Khu đất này là nơi tốt nhất trong cả khu nghỉ mát để nhận tín hiệu điện thoại. Những anh chẳng thấy gì.
Finney hỏi anh xem anh có muốn dùng một trong những chiếc điện thoại không dây của khu nghỉ mát không và Harvath trả lời là có. Parker dùng bộ đàm yêu cầu nhân viên mang một chiếc điện thoại tới.
Harvath gọi về bệnh viện ở Washington và xin được nói chuyện với Laverna, y tá trực đêm của Tracy.
Khi nhận điện thoại cô ấy nói, “Tôi rất mừng là anh đã gọi Ngay lập tức, Harvath cảm thấy có chuyện xấu, anh cứng đờ người ra. “Sao? Có chuyện gì vậy? Tracy có ổn không?”.
“Tracy vẫn ổn, nhưng có một ông Gary Lawlor nào đó tìm anh. Ông ấy nói là có việc gấp. Tôi cố gọi vào số di động của anh, nhưng chỉ thấy hộp thư thoại”.
“Tôi biết”, Harvath trả lời. “Tôi đang ở vừng sóng rất kém. Ông Lawlor có nói việc gì gấp không?”
“Không. Ông ấy chỉ nói rằng nếu tôi có gặp anh hoặc thấy anh gọi điện thì phải bảo anh gọi ông ấy ngay”.
Harvath cảm ơn Lavarna và cho cô ta số điện thoại trực tiếp của Tim Finney ở khu nghỉ mát trước khi gác máy. Tiếp đó, anh gọi cho Gary.
“Bác Gary, cháu Scot đây. Có chuyện gì vậy?”
“Cháu ở chỗ quái nào vậy?” Lawlor hỏi. “Tôi cố liên lạc với cháu mấy tiếng đồng hồ rồi”.
“Cháu ở chỗ của Tim Finney ở Colorado”.
“Colorado? Sao cháu không báo với tôi rằng cháu ra khỏi thành phố?”.
“Thì đến phút chót mới biết”, Harvath nói. “Có chuyện gì ở đó vậy?”.
“Đừng biến tôi thành trò hề thế”, Lawlor trả lời. “Cháu đã khiến ông ta phải tham gia vào vụ điều tra xem ai bắn Tracy phải không? Cháu đang sử dụng đội quân Sargasso của ông ta. Cháu không nghe lời Tổng thống khi ông ấy đã nhấn mạnh rằng cháu phải đứng ngoài sự việc này”.
“Người của Finney làm là chính và cháu chỉ đến để kiểm tra xem thế nào. Chỉ một thời gian thôi. Có chuyện gì ở Washington vậy? Chắc phải quan trọng lắm bác mới để lại lời nhắn khẩn chỗ y tá của Tracy?”.
CHƯƠNG 22
Harvath cảm thấy phừng phừng khi lắng nghe chi tiết vụ tấn công mẹ anh. Khi cảnh sát đến nhà bà ở đường Encino, họ chỉ có thể nghe thấy tiếng hét thất thanh của bà.
Họ đẩy cửa trước và lần theo giọng bà vang lên từ phía bên trong nhà tắm ở sau nhà. Phải mất vài phút sau, hai nhân viên mới phá được cửa vì đã bị vít chặt lại từ trước đó.
Họ tìm thấy bà trong nhà tắm, trần truồng và châu chấu bâu kín người. Những con côn trùng ấy, con nào cũng dài hàng chục centinmét và có vẻ như đã no nê trên cơ thể bà. Một trong số những người có mặt tại hiện trường sau đó miêu tả rằng chất mà bà Maureen Harvath bị trát lên cơ thể như là “ấu trùng rệp”, một sản phẩm có ở rất nhiều cửa hàng bán thức ăn châu chấu. Bà không hề biết thứ trát lên người bà là gì vì bà không hề nhìn thấy. Bà đã bị mù. Đôi mắt của bà giờ đây chỉ thấy một màu đen tối và các bác sỹ ở bệnh viện vẫn chưa chắc chắn liệu có thể phục hồi lại thị lực cho bà hay không. Bà đã bị chấn thương nặng và đang được điều trị để giảm đau.
Đến những thông tin cuối cùng về hiện trường vụ án thì máu trong người Harvath như sôi lên. Người ta tìm thấy một mẩu giấy viết nguyệch ngoạc ở đáy của một trong những cái thùng kẻ tấn công đã dùng để đưa châu chấu vào nhà. Mẩu giấy đó viết rằng: Máu sẽ phải trả bằng máu.
Theo dõi nét mặt Harvath và lắng nghe những lời anh nói, Finney và Parker tưởng rằng Tracy xảy ra chuyện xấu nhất mất rồi. Khi nghe tin mẹ Harvath đã bị tấn công, họ đã hỏi câu hỏi mà chỉ những người bạn tốt mới có thể và nên nói trong tình huống này: “Anh cần gì bây giờ?”.
Thứ mà Harvath cần là một chiếc phản lực của khu nghỉ mát và anh chưa hỏi xong thì Finney đã điện đàm để bố trí cho anh.
Parker có bạn bè ở Sở cảnh sát San Diego và có thể liên lạc với cảnh sát Coronado và anh cũng tới Sargasso để tiếp tục tìm kiếm thông tin tình báo.
Họ có lý do để tin rằng kẻ đã bắn Tracy cũng chính là kẻ đã tấn công mẹ Harvath. Harvath đã đúng. Đó hẳn là chuyện cá nhân.