Thiên thần sám hối - Chương 01

Chương 1

Gã nheo mắt nhìn đám sáng trắng cuồn cuộn trước mặt, cố gắng định hướng. Gã lạnh, hai chân, hai tay, thậm chí cả chóp mũi cũng lạnh. Phải mất một lúc gã mới nhận ra thứ ánh sáng nhờ nhờ phía trước là đèn pha từ chiếc xe gã đang lái. Tuyết rơi mỗi lúc thêm dày, và ánh đèn cứ như thấm hết vào màn đêm đen đặc.

“Mẹ nó”, gã chửi to, mà chẳng rõ nguyên nhân. Có lẽ gã muốn nghe thấy âm thanh từ giọng nói của mình, để chứng tỏ gã còn sống.

Ngoại trừ gã không hề sống. Đã gần hai năm trôi qua từ khi gã chết vì nhồi máu cơ tim. Và giọng nói thoát ra từ cổ họng không phải của gã.

Gã thu tầm mắt từ cơn bão phía ngoài cửa kính xuống đôi tay đang nắm chặt vô lăng. Chúng không phải tay gã. Tay gã nhỏ, thanh nhã, móng được cắt hoàn hảo, và khá mềm. Còn đôi tay trước mặt gã to bè với những ngón dài, mảnh, móng cắt ngắn, chằng chịt những nốt chai và sẹo. Nó là đôi tay của người lao động. Không phải đôi tay của gã đàn ông chưa từng làm gì vất vả ngoài sử dụng các trang thiết bị được đệm bông tỉ mẩn trong câu lạc bộ thể hình quý tộc của gã.

“Mẹ nó”, gã lại chửi, kiểm tra âm thanh. Trầm hơn giọng gã, hơi khàn, và không mang trọng âm đặc biệt. Augusta đã làm chuyện quái quỷ gì với gã thế này?

Gã liếc gương chiếu hậu, nhưng tất cả những gì gã có thể thấy là bóng tối quay cuồng đằng sau. Gã xoay gương hơi nghiêng đầu để có thể nhìn được khuôn mặt, và ngay lập tức chiếc xe chệch lái trên con đường trơn trợt rồi lao thẳng xuống rãnh, đầu gã đập mạnh vào cửa kính.

Động cơ chết máy, ánh đèn pha xộc thẳng vào màn đêm. Gã đã không cài dây an toàn. Thật lạ lùng. Gã luôn cài dây an toàn. Đương nhiên là ở New York, nơi gã đã sống, đó là luật, và gã từng là một công dân chấp hành luật pháp nghiêm chỉnh. Song gã đã quen cài dây an toàn ngay từ lần đầu tiên gã ngồi trên ô tô. Và công dụng của chúng với gã là gì nào? Gã chua chát nghĩ. Trước một cơn đau tim chúng hoàn toàn vô dụng.

Gã giật chiếc gương xuống, gần như giằng nó khỏi phần móc trên mui xe tàn tạ của chiếc pickup[1] đang lái, và giương mắt nhìn. Hỏi sao gã lao ra khỏi đường. Một kẻ hoàn toàn xa lạ đang trừng mắt nhìn gã.

[1] Loại xe bán tải đa năng,tương tự như xe jeep rất được ưa chuộng tại Mỹ.

Emerson Wyatt MacVey III từng là một gã trai săn chắc, ưa nhìn, đầy tham vọng, với mái tóc màu vàng cát, cặp mắt kính chất lượng cao, hàm răng căn chỉnh cẩn thận, hoàn hảo và hợp thời trang đến từng chi tiết. Gã từng có một đôi mắt xanh dương lạnh lẽo, và vẻ khinh khỉnh hiển hiện trên gương mặt vốn đã nhợt nhạt từ nhỏ.

Kẻ đang trừng mắt lại gã đây trái ngược hoàn toàn trước mọi góc nhìn với gã. Mắt màu nâu sẫm, gần như đen, mái tóc đen quăn dài rõ ràng chưa được cắt trong nhiều tháng, trán cao, gò má cao, khuôn miệng rộng gợi cảm, và cái mũi kiểu La Mã khỏe mạnh tạo nên một gương mặt không hề thuộc về gã trên thế giới này.

Gã liếc xuống chiếc quần jean, áo sơ mi bạc màu trong áo vest, hai bàn tay to, vạm vỡ ngay từ đầu đã khiến gã giật mình. Bất kể gã đã trở thành ai, con người này cũng hoàn toàn khác biệt với Emerson MacVey như đêm với ngày.

Với chút bản tính ăn sâu còn sót lại, gã cẩn thận tắt đèn, rút chìa khóa, ra khỏi xe và khóa lại để rồi bị bao phủ bởi cơn bão tuyết. Một ý nghĩ bất chợt đánh vào gã, giữa cơn bão mịt mùng ai thèm đi ăn trộm một chiếc xe tải cũ nằm mắc kẹt dưới rãnh? Nhưng gã lờ suy nghĩ ấy đi. Là Emerson thì vẫn phải khóa xe lại thôi. Mặc dù hiện tại chiếc pickup già cỗi gã sở hữu trông như thể đã từng báo danh trong bãi rác nào đó, thì nó vẫn là xe của gã, thuộc quyền sở hữu của gã, và đừng hòng gã để ai cuỗm nó đi. Sao mà biết kẻ lạ mặt này còn có những gì?

Gã nhìn thấy ánh đèn từ phía xa qua cơn lốc tuyết. Gã rùng mình khi tuyết giăng đầy lên gã, rồi nhìn xuống đôi chân. Đôi chân gã cũng to, hệt như tay, và đang lội qua những đụn tuyết chất cao chỉ với một đôi giày đế mềm.

Gã lại rùng mình, nhăn nhó, rồi lao người về phía ánh đèn. Gã cảm thấy hơi váng vất, và chỗ đầu gã bị đập vào kính chắn gió nhói lên đầy nhức nhối. Gã cẩn thận chạm tay, bên dưới lớp tuyết đang tan chảy, gã có thể sờ được một cục u sưng lên đáng kể. Khi gã hỏi xin sự giúp đỡ từ ai đó sống quanh đây, cú va đập có thể lý giải phần nào cho tình trạng chật vật của gã lúc này. Bởi… Chết tiệt! Gã đang cảm thấy rất mơ hồ.

Khi lê đến gần, gã nhìn thấy một ngôi nhà kiểu trang trại cũ, cũng khá khẩm hệt như chiếc xe gã vừa lái. Hành lang lún xuống. Thay vì những khung cửa trượt ba cánh tươm tất để chống bão thì chỉ có những mảnh nhựa đóng la liệt trên của sổ. Khắp sàn nhà là những tấm giấy dầu tơi tả. Dưới màn tuyết dày đặc gã hình dung mái nhà chắc cũng trong tình trạng tàn tạ tương tự. Gã có thể ngửi thấy mùi khói thơm nồng từ củi đốt, và rồi gã khựng lại. Trong chuyến ghé thăm vô tận tưởng như vĩnh hằng của gã ở trạm chung chuyển trước khi bị tống đi, gã có thể nhìn, nghe, và thậm chí cảm nhận được rất nhiều thứ, nhưng khứu giác của gã vô dụng.

Gã lại hít vào một hơi sâu. Gà tây. Gà tây nướng phảng phất cùng hương quế và táo. Gã giật mình nhớ lại điều Augusta đã nói. Gã trở xuống vào lễ Tạ ơn, rồi rời đi vào đêm Giáng sinh. Giờ là lễ Tạ ơn, và người ta hẳn đang ngồi quay quần với nhau bên bữa tối.

Và gã thì đang đứng bên ngoài với cơn bão quất lên người, sắp chết cóng vì lạnh. Gã lắc mình, thọc bàn tay qua mái tóc đen dài và dày với một điệu bộ vừa xa lạ vừa vô thức. Gã bước tới phiến gỗ cũ kỹ, sứt sẹo và gõ cửa.

Trong chốc lát cánh cửa bật mở, làm thoát ra luồng không khí ấm áp cùng ánh sáng và âm thanh ồn ã. Ai đó đang đứng ở đây, in bóng trên nền sáng, và gã có thể nhận ra dáng hình thanh mảnh đó là của một người phụ nữ. Ở xa phía sau là những người khác, những chiếc bóng khác nhau với đủ kích cỡ, thân thiện, ầm ĩ – gã nghĩ, người hơi lắc lư.

“Xe của tôi lao khỏi đường”, gã lên tiếng, rồi rơi vào im lặng, thêm lần nữa choáng váng trước âm thanh xa lạ từ giọng nói của mình. Trầm hơn giọng cũ, chậm rãi hơn. “Tôi có thể mượn điện thoại của cô không?”

Người phụ nữ bước tới, chạm vào hai tay áo phủ đầy tuyết của gã. Gã chợt nhận ra là đã từ lâu gã không được đụng chạm như thế, kể từ cái ngày các bác sĩ cấp cứu cho gã. Ngay sau đó gã không còn cảm giác. Gã cứ thế lùi ra sau, trơ mắt nhìn khi họ cố gắng kéo gã về với sự sống.

“Anh hẳn phải lạnh lắm”, người phụ nữ nói với chất giọng nhẹ nhàng, du dương và mê hoặc một cách lạ thường. “Vào trong này đi, chúng tôi sẽ giúp anh ấm lên. Giờ mà gọi cho người ta thì không hay lắm đâu. Trong thị trấn chỉ có ga-ra duy nhất của Steve, và ông ấy đã về dự lễ Tạ ơn với mẹ rồi. Nhưng còn rất đông chúng tôi ở đây, chúng tôi sẽ giúp anh kéo xe lên”.

Gã để mặc người phụ nữ kéo gã vào căn bếp, đang rộn rã, ấm áp và huyên náo, dù gã muốn rút lui. Trong này đau quá. Vì đã quá quen với màn đêm nên lúc này mắt gã đau buốt trước ánh sáng. Và quá quen với im lặng nên tai gã nhức nhối trước cuộc trò chuyện thân thiết. Hơi ấm làm nhói đau làn da gã, thứ đã trở nên lạnh lẽo, vô cùng lạnh lẽo. Đây là sự sống, gã chợt nhận ra. Lần đầu tiên trong hàng tháng ròng, không, hàng năm ròng, gã không còn chết nữa, không còn phải ở trong cái tổ kén câm lặng và vô cảm, và cú sốc này hãy còn vần vò dữ dội.

Gã quay sang nhìn nữ chủ nhà, người phụ nữ đã kéo gã vào trong bếp, và gã hứng chịu cú sốc thứ hai trong đêm nay. Lần này gã không còn phải nhìn vào một đôi mắt xa lạ. Mà là đôi mắt xanh dương ấm áp của người phụ nữ từng nhận ba tháng bạc bẽo khi là cô thư ký bất tài của gã. Là Carrie Alexandra, một trong những người gã có nhiệm vụ cứu giúp.

Cô vẫn hệt như trước, dù cũng khác trước đến lạ lùng. Cô lúc nào cũng mảnh dẻ, một vũ công, gã nghĩ khi nhớ lại. Nhưng giờ cô thậm chí còn gầy hơn, gần như không có da thịt, và trong đáy mắt biết cười mờ giấu điều gì đó không sao diễn đạt. Và nụ cười héo trên môi cô, gương mặt cô khẽ nhíu lại trong thoáng chốc làm gã tự hỏi liệu cô có nhận ra gã không.

“Anh bị thương”, cô vừa nói vừa vươn tay gạt tóc khỏi gương mặt gã. Gã cố gắng lùi lại, nhưng cô không cho và những ngón tay cô trên làn da đóng băng của gã mới ấm áp và dịu dàng làm sao. “Hẳn anh đã bị đập đầu khi chiếc xe lao khỏi đường. Cứ để tôi xử lý trong lúc Maggie mang cho anh một tách cà phê cho anh ấm người”.

“Làm ơn... “, gã thốt lên và kinh ngạc không biết chữ đó thoát ra từ nơi nào. Gã chưa bao giờ coi nó là một phần thiết yếu trong vốn từ vựng của gã. “Tôi chỉ cần lôi chiếc xe ra khỏi rãnh thôi”.

“Jeffie và tôi sẽ giúp anh”.

Một người đàn ông tiến đến, như một chú gấu đồ sộ, ì ạch trong dáng hình con người, nhưng không hiểu sao mắt anh ta không chạm đến tầm nhìn của Emerson. Lại một lần nữa gã cảm thấy choáng váng và mất phương hướng, như bị bẫy trong một thân hình xa lạ, hoàn toàn xa lạ với cơ thể gã.

“Tôi là Lars Swensen, và đây là vợ tôi, Maggie”. Một người phụ nữ trông có vẻ chất phác và tiều tụy thoáng cười thân thiện khi đưa cho gã tách cà phê.

Emerson ghét cà phê. Xưa gã chỉ uống bá tước hồng trà[2]. Chắc vì lạnh nên cà phê mới có mùi ngon đến thế. Gã nhấp môt ngụm, toàn thân run lên vì thỏa mãn.

[2] Earl Grey: Loại hồng trà có mùi và hương vị rất đặc biệt từ một loại tinh dầu được thêm vào lá trà.

“Đúng rồi”, Carrie dịu dàng nói. “Chỉ cần vào trong nhà tắm rồi ngồi xuống. Tôi sẽ rửa sạch vết thương trên trán anh. Khi đã có một bữa ăn nóng sốt trong bụng, anh có thế đương đầu với cái xe”.

Không hiểu sao gã không có tâm trạng muốn tranh cãi. Nếu không phải gã đã thật sự rơi vào chỗ của chính những người cần gã cứu rỗi, gã sẽ lao thẳng ra ngoài trước khi có ai phát hiện chuyện gì đang xảy ra. Gã không thích đón nhận lòng tốt từ những người xa lạ, và chỉ khi gã tự thuyết phục bản thân đáng giá đổi lại lòng tốt ấy, gã mới từ bỏ phản kháng và đi theo dáng hình mảnh dẻ, thanh tú của Carrie Alexander ra khỏi căn bếp ấm cúng và đông đúc.

Gã lại thêm một lần giật nảy khi nhìn thấy hình ảnh của mình trong chiếc gương trước khi cô nhẹ nhàng ấn gã ngổi xuống thành bồn tắm chân rồng kiểu cũ. Gã có vô số cơ hội để nhìn cô khi cô lục lọi tủ thuốc, lôi ra nào ôxy già, nào băng, nào gạc cùng những vỉ thuốc. Cô gầy hơn xưa, gã chắc chắn. Gã là một tín đồ của chân lý dù béo hay gầy thân hình phụ nữ không phải bất biến. Carrie tuyệt đối có vấn đề với vế thứ hai. Bất kỳ chỗ nào gã quan sát, gã cũng có thể thấy những dấu hiệu của sự suy nhược. Ngôi nhà đang dần sụp xuống quanh cô, một sự thật cô dường như rất phấn khởi bỏ ngoài tai.

Và cô không hề gầy hơn Margot, nữ vũ công của đoàn Ba lê Joffrey mà gã từng dây dưa trong vài tháng. Carrie cũng từng là một vũ công, không phải sao? Gã có nhớ một chút về điều đó. Cô di chuyển cũng với kiểu duyên dáng bẩm sinh như Margot. Và còn điều gì hơn thế nữa. Những chuyển động thanh thoát của cô không hề theo hướng truyền tải cảm giác mê mải như các động tác Margot đã làm. Carrie đơn giản chỉ là ai đó nhàn tản với cơ thể uyển chuyển và thon thả của mình thôi.

Cô quay lưng về phía gã, và một lần nữa vẻ giật mình ánh lên trong đôi mắt xanh của cô. Cô bắt đầu chấm nhẹ ôxy già lên trán gã, gạt những lọn tóc dài lố lăng của gã sang một bên, và khẽ cắn môi.

“Sao thế?” Gã thấy mình đang hỏi, thêm một lần thắc mắc không biết có phải cô quen gã không.

Cô nhìn thẳng vào gã, rồi nở nụ cười rầu rĩ. “Chỉ là trông anh đẹp quá!”

Có phải cô đang cố làm gã giật mình? “Gì?”

“Giống như một bức điêu khắc thời Phục hưng. Một thiên thần của Botticelli[3], có lẽ thế”. Cô hơi lắc đầu, rồi tự bật cười. “Anh hẳn đã nghe thấy điều đó trước đây rồi”.

[3] Botticelli Sandro (1444-1510): Họa sĩ thời Phục Hưng.

“Lâu lắm rồi”, gã khô khốc nói.

Những ngón tay mát lạnh của cô đang lướt trên làn da ửng hồng của gã. “À, chắc điều này cũng không lạ với anh. Anh hẳn đã có… nói như nào nhỉ, ba mươi năm… với khuôn mặt này. Rõ ràng anh phải quen với phản ứng của mọi người”.

“Cũng không hẳn”.

Cô liếc nhìn gã, thót lên, rồi quyết định sẽ buông tha đề tài này. Cô đứng dậy, xem xét công trình nho nhỏ của mình một cách mãn nguyện. “Tôi nghĩ anh sẽ sống sót”, cô tuyên bố. Và tất cả những gì gã có thể đáp lại là cố không khịt mũi chế nhạo.

“Tiện đây, tôi là Carrie Alexander. Và anh là…”

Linh cảm đã bỏ quên gã. Gã tóm lấy cái tên đầu tiên gã có thể nghĩ tới, rồi nhún vai khi tiếng nói thoát ra. “Gabriel”, gã đáp. Gã nhớ đến hình ảnh phản chiếu xa lạ trong tấm gương. “Gabriel Falconi”, gã nói tiếp, thắc mắc vì sao cái tên này nghe lại hợp tai đến thế.

Rõ ràng cô cũng nghĩ như vậy. “Rất hợp với anh. Lại đây và gặp các vị khách còn lại của tôi đi nào, trong lúc chúng ta phải đợi một chút để chú gà tây kịp chín”. Cô bước ra khỏi phòng tắm chật hẹp, chiếc váy dài vờn quanh mắt cá chân, và gã không còn lựa chọn nào khác là miễn cưỡng đi theo cô.

“Nhưng xe của tôi…”

“Xe của anh có thể chờ. Tôi không thể đem một con gà lạnh cứng cùng nước sốt đóng băng phục vụ tất cả những người ở đó được. Và anh trông cũng cần một bữa tối nóng hổi nữa. Lại đây đi. Lúc này hẳn đã có người dọn thêm một chỗ cho anh rồi”.

“Nhưng…”

“Lại đây!” Cô lặp lại kiên quyết, nghe như phiên bản trộn lẫn giữa Augusta và Mary Poppins[4]. Cô thấp hơn cơ thể mới của gã hơn mười lăm xăng-ti-mét, và nếu tuổi của gã cân xứng với người, gã vẫn trẻ hơn bốn mươi một chút, và cô thì đang hành động cứ như mẹ gã vậy. Gã không thích thế.

[4] Nhân vật trong bộ phim cùng tên sản xuất năm 1964, trong đó nữ diễn viên Julia Andrews thủ vai một vú em tên là Mary Poppins, người có những sức mạnh kỳ diệu và có thể bay.

Dù sao gã cũng thích thú được dùng bữa ăn thực sự đầu tiên trong suốt mười bảy tháng ròng, nếu gã có thể ngửi thấy mọi thứ cũng thật như gã có thể nếm chúng. Và ý nghĩ về thịt gà và nước sốt, cùng bánh táo cho món tráng miệng, là quá nhiều để gã có thể kháng cự. Gã thậm chí không cần lo về cholesterol.

Gã ngạc nhiên khi chỉ có mười một người dùng bữa tối. Là mười hai, nếu tính cả thành viên bé nhỏ đang ngủ ngoan trong chiếc giỏ liễu gai cũ trong góc kia. Gã gặp Lars cùng vợ anh ta, một cách nhanh gọn, ít nhất là thế, và gã đã được giới thiệu với ba đứa con của họ, Kristin, với hai bím tóc vàng dày, Nils, cậu chàng bẽn lẽn nhưng khỏe khoắn ở tuổi thiếu niên, và Harald, đứa nhỏ hơn một chút.

Còn có vợ chồng Milsom, một cặp trung niên có vẻ hoàn toàn dâng hiến cho nhau, Jeffie Baker, đứa bé vị thành niên mặt mày sưng sỉa, và Gertrude Hanser, một thiếu phụ già tóc trắng, lưng còng với đôi mắt kính dày cộp cùng thái độ rất nhã nhặn và ngọt ngào. Tất cả bọn họ chào đón gã như đứa con trai ngỗ ngược đã biết quay đầu. Và gã nhận ra mình đang ngồi gọn lỏn giữa trung tâm của chiếc bàn lớn nhiều năm tuổi được vây quanh bởi bà Hansen, gia đình Swenden và người thân của họ. Và cách Carrie Alexander quá xa.

Không thèm hỏi ý kiến gã, một chiếc đĩa đã xuất hiện trước mặt gã, chất cao thịt gà, cơm, nước sốt và bánh quy. Tách cà phê của gã đặt ngay bên cạnh đĩa, được đổ đầy kèm theo một bình rượu. Gã với tay lấy chiếc nĩa sắt sạch sẽ, khi sự im lặng bất chợt bao phủ lên bữa tiệc đang độ rộn ràng.

“Anh sẽ đọc lời nguyện chứ, Lars?” Carrie hỏi, và Lars gật đầu.

Ôi, Lạy chúa, gã nghĩ, lòng thắt lại vì hổ thẹn. Gã sẽ phải ngồi tại chỗ và lắng nghe trong khi bọn họ cầu nguyện, thiên địa ơi. Gã sa thải một đám sùng đạo rồi.

Tuy nhiên, Lars rất đơn giản và nhanh chóng vào đề. “Tạ ơn Người vì lương thực người đã hào phóng ban cho chúng con. Xin người ban phước cho bạn bè và gia đình chúng con, và chào đón người khách lạ gia nhập cùng với chúng con ngày hôm nay. Amen”.

“Amen!” Những người còn lại rì rầm, với mái đầu cúi thấp, Gabriel đánh một ánh nhìn lo ngại quanh bọn họ. Nhưng rồi, giây phút không thoải mái trôi qua. Mọi người bắt đầu cầm nĩa, và cuộc chuyện trò một lần nữa theo chiều giảm nhiệt, thi thoảng đan xen với những khoảng lặng khi mọi người ngừng lại để nhai thức ăn.

Gã cúi gằm mặt, tập trung vào bàn ăn với thái độ gần như của một con chiên ngoan đạo, hy vọng không ai có ý định quay sang thẩm vấn gã. Nhất là khi gã không chắc câu chuyện gã sẽ kể. Gã đã tiến được một bước với cái tên, tạ ơn Chúa, dù nó có là một cái tên lố bịch. Gã cũng thật may mắn khi không đụng phải thứ gì tồi hơn, Angelo chẳng hạn. Gabriel đã đủ tệ lắm rồi.

Một thiên thần hạ phàm[5], được thôi. Gã chỉ tự hỏi gã sẽ bị đày đi bao xa trước khi tất cả chuyện này chấm dứt. Và liệu gã có khả năng hoàn thành nhiệm vụ trọng đại Augusta đặt ra cho gã hay không. Hay gã sẽ kết thúc ở một nơi nào đó khác.

[5] Trong khinh thánh, Gabriel là một vị tổng lãnh thiên thần mang những thông điệp từ Đức Chúa đến cho loài người trên trái đất. Trong đạo Hồi, Gabriel đã mang kinh Kôran từ Thánh Allah cho Muhammad. Những người theo đạo Cơ đốc tin rằng ngài được Đức Chúa gửi xuống nói với Đức mẹ đồng trinh Mary rằng bà sẽ trở thành mẹ của Chúa Jesus.

Gã không muốn đi tới đó. Mấu chốt ở chỗ, gã muốn thiên đường, với cuộc sống hạnh phúc vĩnh viễn, cùng đôi cánh và toàn bộ cái đám nhảm nhí gì đấy theo đuôi. Ít nhất gã cũng có lợi thế. Carrie Alexander chỉ cách gã có vài bước chân đây thôi. Gã sẽ không phải săn đuổi cô để giải quyết bất cứ cơn khủng hoảng nào mà đời gã là nguyên nhân khiến nó tích tụ.

Dù lúc này cô không có vẻ phiền muộn cho lắm. Giá Augusta có thể nói cặn kẽ hơn. Người phụ nữ ngồi đầu bàn kia trông không giống một người có cuộc đời là một chuỗi những thảm họa. Nhìn cô có vẻ điềm nhiên, hạnh phúc và hòa hợp với cả thế giới. Trên thế giới này còn điều gì cô muốn mà gã có khả năng trao cho cô đây?

Ba người, Augusta đã nói. Ba người bị gã hủy hoại cuộc sống. Bề ngoài Carrie không giống bị hủy hoại, nhưng những gì hiển hiện bên ngoài không phải lúc nào cũng là sự thật. Và gã biết đi chỗ quái nào tìm hai người kia bây giờ? Tất cả bọn họ không thể đồng loạt xuất hiện trong bãi nước đọng tin hin này…

Rồi gã chợt nhớ không biết nơi mình đang ở. Tất cả những gì gã nhận thức đây có thể là Upstate New York[6] hay Alaska, có khi là Siberia cũng nên. Nơi nào đó lạnh giá và phủ đầy tuyết. Bữa tối vui vẻ hơi chùng xuống. Chẳng buồn thưởng thức gã máy móc uống cạn tách cà phê rồi bắt gặp ánh mắt của Lars.

[6] Ngoại ô phía Bắc của New York.

“Thị trấn này tên gì vậy?” Gã hỏi, hy vọng giọng mình nghe có vẻ tự nhiên. Gã không dám hỏi đang ở bang nào, vả lại còn ngượng hơn nếu đi hỏi tên bang.

“Thị trấn?” Lars bật cười. “Tôi không biết gọi Angel Falls là thị trấn có chính xác không nữa. Nó giống một chấm nhỏ trên bản đồ hơn”.

Chiếc tách rỗng của Gabriel trượt khỏi tay. “Angel Falls[7]?” Gã lặp lại, bắt đầu dùng đến chút khàn trong giọng mới của mình. Lần này, ít nhất, nó cũng được dùng hợp lý.

[7] Thác Thiên sứ nhưng gần đồng âm với thiên thần hạ phàm.

“Một cái tên giật gân cho một thị trấn nhỏ khiêm nhường, phải không?” Milsom, người đàn ông bên cạnh gã lầm bầm. “Đương nhiên nó được đặt tên theo ngọn thác Angel, khởi nguồn từ tên hồ nước, cái tên được những người truyền giáo đặt cho từ hai, ba trăm năm trước. Thế là chúng tôi gắn liền với cái tên đó, và hầu hết chúng tôi đều thích nó”.

“Nhất là trong dịp lễ Giáng sinh”, Carrie thêm vào. Gabriel nhận thấy cô không ăn nhiều. Cô không lấy nhiều thức ăn lúc vào bàn, hầu hết chúng vẫn nằm nguyên trong đĩa, chỉ thay đổi vị trí chút ít so với ban đầu.

“Anh đang làm gì mà phải lái xe qua vùng này của Minnesota trong cơn bão thế?” Lars hỏi. “Anh không dự lễ Tạ ơn cùng gia đình à?”

“Minnesota?” Gã cất cao giọng, sốc ngay lập tức.

“Thế chú nghĩ chú đang ở đâu? Hawai chắc?” Jeffie Baker chen ngang, phá vỡ sự im lặng đầy bất mãn được duy trì trong suốt bữa ăn. Gabriel ước gì nó tiếp tục ngậm miệng.

“Hẳn tôi đã đi qua biên giới mà không hề nhận ra”, Gabriel nói.

“Đi hướng nào cũng phải cách biên giới khoảng hai giờ”, Lars chỉ ra, không tàn nhẫn cho lắm. Ít nhất anh ta cũng chịu bỏ qua câu hỏi về gia đình. “Cậu làm gì để sống, Gabriel?”

“Để sống?” Theo bản năng gã nhìn vào đôi tay. Đôi bàn tay to lớn, chai mòn vì lao động. Một ý tưởng dù thoáng qua về công dụng của hai tay gã, gã cũng không có.

“Đừng nói vội”, Lars tiếp tục, và Gabriel thở hắt ra một hơi nhẹ nhõm. “Chỉ nhìn tay cậu tôi cũng đoán ra. Cậu là thợ mộc, giống tôi”.

“Tôi ư?” Gã lẩm bẩm. “À, ý tôi là đương nhiên rồi”. Một dụng cụ làm mộc gã cũng chưa rớ đến bao giờ, nhưng ít nhất gã cũng không bị ép phải chứng minh.

Lars giơ hai tay lên. Chúng vuông vức hơn, to bản hơn, nhưng trông hệt tay gã. “Suy từ bản thân ra thôi. Có phải cậu đang tìm việc ở quanh đây không? Bởi thế tôi phải nói cho cậu biết, không có nhiều việc lắm đâu. Chúng tôi là một cộng đồng nghèo kể từ khi nhà máy đóng cửa, và mọi thứ không có vẻ được cái thiện”.

“Tôi không có ý định cuỗm bất cứ công việc nào từ tay anh…” Gabriel bất giác thốt lên, không thắc mắc vì sao mình lại nói một câu nhàm chán vậy. Trên con đường mưu cầu của bản thân, Emerson không ngần ngại lấy đi tất thảy.

“Cậu sẽ được chào đón nếu còn công việc quanh đây”, Lars không giấu giếm. “Chúng tôi đều tận dụng đến những việc cuối cùng. Không lâu nữa người ta sẽ mở vài khu khai thác gỗ, nhưng tôi không biết họ có cần thêm người nào nữa không”.

“Tôi không đến đây tìm việc”.

Như bị một cú huých, tất cả mọi người nhìn gã, nhìn chiếc sơ mi xác xơ, cùng khí sắc kém xa vẻ thành đạt ở gã. “Tôi đã kiếm được việc sau lễ Giáng sinh”, gã giải thích. “Đương nhiên là việc thời vụ thôi. Tôi chỉ đi ngang qua đây và muốn tìm chỗ giết thời gian cho đến ngày đi làm”.

Bọn họ có vẻ tin vào lý do này. “À, tất nhiên cậu sẽ được chào đón đến Angel Falls nghỉ ngơi. Trừ khi cậu có gia đình để…?”

Lại là câu hỏi đó. Gã chả biết gì về Gabriel Falconi hết, còn Emerson MacVey thì không có nổi một người được gọi là họ hàng. “Tôi không có gia đình”, gã đáp gọn lỏn.

“Vậy hóa ra chúng ta cũng có vài điểm chung”, Carrie bâng quơ nói, nét mặt dịu dàng và phăng lặng. Và rồi gã cảm nhận được nỗi đau của cô, cũng sắc bén như gã từng cảm nhận nỗi đau của chính mình. “Những đứa trẻ mồ côi trong cơn bão. Ở lại và dự lễ Giáng sinh với chúng tôi đi, Gabriel. Thị trấn chúng tôi rất mến khách. Mặc dù ít ỏi, chúng tôi vẫn luôn san sẻ những gì chúng tôi có”.

Gã ước có thể nói không với cô. Gã muốn lao ra khỏi cái cộng đồng ấm cúng và thân thiện này, tránh khỏi vòng dính líu của những người lạ, khỏi những tò mò quá đỗi thường tình. Nhưng Carrie Alexander là một phần ba chiếc vé đến thiên đường của gã.

Gertrude Hansen ngồi bên cạnh gã. Bà đặt bàn tay xương xẩu lên tay gã, đôi mắt bên dưới cặp kính dày như hai đít chai của bà chớp lên chân thành. “Ở lại với chúng ta đi, Gabriel”, bà nói, làm gã đột nhiên nhớ đến Augusta.

Đúng là nhảm nhí. Người phụ nữ dịu dàng, lưng còng này chẳng có điểm tương đồng nào với mụ già cay nghiệt trên thiên đường kia hết. Gã cố gắng cử động bàn tay, nhưng cái nắm của bà mạnh mẽ đến không ngờ. “Ở lại đi”, bà lặp lại, và giọng nói ngọt ngào, mềm mại đó được hòa chung với tiếng đồng thanh của những người khác.

“Ở lại đi mà”, Carrie nói. “Nếu chưa được tham dự cùng người Scandinavi[8], anh coi như chưa hề trải nghiệm một lễ Giáng sinh thực thụ. Tất cả chúng tôi ở đây đều là gốc Na Uy, Thụy Điển và Đan Mạch. Chúng tôi đều biết tổ chức lễ Giáng sinh đúng nghĩa”.

[8] Những người sống ở Bắc Âu.

“Anh sẽ không tin nổi các món ăn đâu”, bà Milsom nghiêng người qua bàn để thông báo với gã.

Gã đã ngốn hết núi thức ăn. Gã, kẻ hiếm khi ăn bất cứ thứ gì choán nhiều không gian trên đĩa hơn các món nouvelle cuisine[9]. “Mọi người thuyết phục được tôi rồi”, gã nói, liếc nhìn về phía Carrie.

[9] Kiểu nấu ăn của Pháp với những món ăn đơn giản và có lợi cho sức khỏe được trình bày một cách bắt mắt, cầu kì với một số lượng nhỏ được bày biện trên những chiếc đĩa lớn.

Rồi điều đó táng mạnh vào gã, hơn cả cú va đập vào kính chắn gió trên xe, hơn cả những lần kích tim của nhân viên y tế khi họ cấp cứu cho gã, hơn bất cứ thứ gì gã từng cảm nhận trong cuộc đời ích kỷ ngắn ngủi của gã. Cô mỉm cười với gã, đôi mắt xanh ngập tràn ấm áp và vui sướng, và gã lạc lối. Mọi xúc cảm lập tức căng ra, mãnh liệt đến mức gã gần như mê mải. Mặc kệ nhiệm vụ, mặc kệ yêu cầu của Augusta, mặc kệ người giám sát, dù là ai, dù sai bảo gã làm gì. Và cũng mặc kệ hai người còn lại. Gã không có ý định rời khỏi Carrie Alexander. Dù phải băng qua cả địa ngục hay biển lửa. Gã cũng nghi ngờ luôn sự góp mặt của biển lửa trong trường hợp này.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3

Sách giảm giá tới 50%: Xem ngay